BẦY NGƯỜI NGUYÊN THUỶ
Dựng lại bức tranh về giai đoạn đầu tiên trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Vì không có nguồn sử liệu trực
tiếp nói về cuốc sống của con người ở thời đại quá xa xôi này, các nhà khoa học phải
dựa vào các tài liệu gián tiếp khác như các tài liệu khảo cổ học, cổ nhân học, dân tộc
học và kết quả nghiên cứu của các nhà động vật học về cuộc sống tự nhiên của một số
loài động vật cấp cao. Sự phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu này sẽ giúp ta hiểu
biết khái quát về đời sống kinh tế - xã hội của con người thời nguyên thuỷ.
Niên đại của thời kì bầy người nguyên thuỷ có thể bắt đầu từ khi con người
thoát thai hỏi giới động vật, tức là khi con người biết lao động và chế tạo công cụ. Về
mặt khảo cổ học, giai đoạn bầy người nguyên thuỷ kéo dài suốt từ thời sơ kì đến hết
thời trung kì đá cũ, còn về mặt nhân chủng học thì đây là thời kì tồn tại của những
dạng người vượn trung gian đang trong quá trình chuyển biến thành Người hiện đại.
Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể, nhưng những dạng Người tối cổ
này đã là người. Họ sống lang thang trong các khu rừng rậm nhiệt đới, ngủ trong hang
động, mái đá... Do trình độ thấp kém, công cụ thô sơ, lại trong điều kiện thiên nhiên
hoang dã, người nguyên thuỷ không thể sống đơn lẻ mà đã biết tập hợp lại với nhau
thành từng bầy, cùng lao động tìm kiếm thức ăn và chống các thú dữ để tự vệ. Nhưng
khác với các bầy động vật chỉ có quan hệ hợp đoàn được hình thành một cách tự
nhiên, trong bầy người nguyên thuỷ đã có quan hệ hợp quần xã hội. Mỗi bầy người
đều có người đứng đầu, có sự phân công công việc giữa nam và nữ, mọi người đều có
nghĩa vụ đi săn bắt, tìm kiếm thức ăn, bảo vệ lẫn nhau và trông nom con cái... Bầy
người nguyên thuỷ là tổ chức xã hội đầu tiên của loài người.
Ở thời kì bầy người, con người đã biết chế tạo công cụ lao động. Từ chỗ chỉ
biết dùng những cành cây, hòn đá nhặt để làm công cụ, Người tối cổ đã biết lấy những
viên cuội hay hai hòn đá ghè vào nhau tạo nên cạnh sắc và vừa tay cầm, gọi là những
chiếc rìu tay. Với những rìu đá đó, Người tối cổ dùng để chặt cây, làm vũ khí tự vệ và
tấn công các con thú khi săn bắt, dùng để đào bới cây củ kiếm ăn. Đồng thời, họ còn
biết dùng cả những mảnh tước được tách từ hạch đá thành những chiếc dao nạo gỗ.
Vào cuối thời kì bầy người nguyên thuỷ, loài người đã có một bước tiến lớn
lao, một phát minh quan trọng, đó là việc dùng lửa và lấy lửa. Trong buổi bình minh
của lịch sử loài người , con người sống không khác động vật là mấy, họ chỉ biết ăn
sống nuốt tươi. Dần dần, họ biết giữ lửa tự nhiên và dùng lửa để sưởi ấm, để đuổi thú
dữ và nướng chín thức ăn. Về sau, con người biết tự làm ra lửa bằng cách cọ xát mạnh
hai cành cây khô hay hai hòn đá. Việc tìm ra lửa bằng cách cọ xát đã đánh dấu một
bước nhảy vọt trong lịch sử loài người. Ph.Ăng-ghen viết: "Mặc dầu máy hơi nước đã
thực hiện trong thế giới xã hội một cuộc giải phóng vĩ đại, cuộc cách mạng này chưa
hoàn thành một nửa, nhưng chắc chắn là tác dụng giải phóng loài người (trên ý nghĩa
lịch sử thế giới) của việc lấy lửa bằng cọ xát còn vượt xa máy hơi nước. Vì rằng lửa
do cọ xát làm ra khiến con người lần đầu tiên chi phối được tự nhiên, và do đó đã tách
con người ra khỏi giới động vật".
Công cụ đá - nền công nghiệp nặng đầu tiên của loài người.
Những công cụ đầu tiên do con người chế tạo có thể có nhiều loại, bằng nhiều
nguyên liệu khác nhau như đá, gậy gộc, sừng trâu bò, hươu nai, xương các loại động
vật v.v... Nhưng công cụ đá có thể là căn bản, là công cụ gốc để từ đó sản xuất ra
công cụ bằng đá là nền công nghiệp nặng đầu tiên của loài người. Đá lại là công cụ
bền vững với thời gian hơn so với xương hoặc tre, gỗ. Do đó nó là cơ sở để ta xếp loại
các nền văn minh của những thời kì xa xăm nhất của lịch sử tiến hoá loài người.
Công cụ đá cổ nhất tìm được cho tới nay thuộc giai đoạn đầu của sơ kỳ thời đại
đá cũ cách đây khoảng hơn hai triệu năm. Chủ nhân của những công cụ này có thể là
Ôtstralôpite ở Châu Phi. Người ta đã tìm thấy những công cụ đá rất thô sơ, những hòn
đá cuội có dấu vết gia công nhân tạo, bên cạnh các di cốt Ôtstralôpite mà các nhà
khảo cổ đặt tên cho nó là nền văn minh đá cuội (pebble culture).
Tiếp đó là những công cụ đá cũng vẫn còn thô sơ như những hòn ghè hoặc
mảnh tước, tức là những mảnh đá làm được do đạp vỡ trực tiếp một hòn đá to hơn.
Tiến bộ hơn một chút là mảnh đá được đẽo thêm hai mặt mà các nhà khảo cổ gọi là
rìu tay. Ở nước ta những công cụ loại này đã tìm thấy với số lượng rất nhiều (hàng
ngìn chiếc) ở núi Đọ gần thị xã Thanh Hoá, tìm thấy năm 1960, về sau đó là ở Sơn vi
(Lâm Thao, Phú Thọ) tìm thấy năm 1958.
Đó là những công cụ đá thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ mà điển hình là hai nền văn
hoá Sen và Asơn là hai địa điểm ở Pháp, nơi tìm thấy những loại công cụ đá này đầu
tiên. Chủ nhân của nền văn minh này có thể là những người tối cổ đứng thẳng
(Pitêcăngtrôp) sống cách đây từ 20 đến 70 vạn năm)
Đến trung kỳ thời đại đá cũ cách đây khoảng hơn 10 vạn năm (thời đại các
băng hà ở Châu Âu) khi xuất hiện những người thượng cổ Nêăngđectan thì kỹ nghệ
đá đã tiến bộ hơn nhiều.
Đó là những công cụ đá đẽo ra từ một nhân xilic rồi sang sữa kỹ dọc theo một
mặt thành các rìu tay, dao hoặc mũi nhọn. Đó là nền văn minh Mutsơtiê (Mutsơtiê là
một tỉnh ở Bỉ, nơi tìm thấy công cụ đá loại này đầu tiên). Ở thời đại này người ta còn
tìm thấy cả các gậy gỗ vót nhọn, lao gỗ dài tới 2,4 mét đâm vào xương sườn một con
voi mamút (tìm thấy ở Lêringhen, Đức).
Đến giai đoạn hậu kỳ đá cũ, cách đây hơn ba vạn năm, thì đã xuất hiện những
công cụ đá rất đa dạng và đẽo tinh vi thành những lưỡi mỏng như mủi nhọn, bàn cào,
dao đá v.v... Ngoài ra còn có những dụng cụ bằng xương rất tinh xảo như giá uốn gậy,
mũi giáo, kim v.v... Chủ nhân của các công cụ đó là những người về hình thái đã
giống chúng ta ngày nay. Đó là những người tân cổ là đại diện là người Crômanhông
(tìm thấy ở Pháp). Đây chính là những nền văn hoá Orinăc, Pêrigoóc, Xôluytrê và
Mađơlen đều là các địa điểm ở nước Pháp.
Tiếp đó đến thời đại đá giữa và đá mới tương ứng với một thời kỳ mà khí hậu
ấm áp hơn trên trái đất, thời kỳ sau băng hà, cách đây khoảng một vạn năm. Con
người khôn ngoan (Homosapiens) như chúng ta ngày nay xuất hiện với cả một nền kỹ
nghệ đá mới rất phong phú và điêu luyện tìm thấy khắp nơi trên thế giới và đặc biệt ở
Việt Nam với hai nền văn hoá nổi tiếng thế giới: Văn hoá Hoà bình và văn hoá Bắc
Sơn.
Các công cụ đá điển hình của thời kỳ này gồm các vòng tay, lưỡi câu, vòng
khuyên, trâm cài v.v... đủ hình, đủ kiểu mài nhẵn rất tinh xảo.
Thời đại đá này mở màn một giai đoạn phát triển mới của đồ gốm, đồ kim khí
như đồng, sắt ở những thời kỳ cách đây vài nghìn năm khi loài người đã có sử.
Kim tử tháp Ai Cập
Nói đến nghệ thuật Ai Cập phải kể đến Kim tử tháp là một loại công trình kiến
trúc có ngồn gốc hoàn toàn Ai Cập, xuất hiện từ thời Cổ vương quốc (khoảng 2740
đến 2200 TCN), chủ yếu là lăng mộ của một vị vua hay hoàng hậu.
Hình thức kim tử tháp bắt nguồn từ những công trình kiến trúc lên cao có bậc,
xây dựng từ đời vua thứ III. Kiểu kim tử tháp này, theo lời giảng các văn bia trong
kim tử tháp là tượng trưng cho cái thang dựng lên để tạo linh hồn vua có thể dễ dàng
leo lên với cha đẻ là thần Ra, tức thần mặt trời. Việc chuyển từ hình thức kim tử tháp
cũ có bậc sang hình thức kim tử tháp mặt phẳng, bắt đầu từ thời Xnê-phơ-ru, người
sáng lập ra Vương triều IV. Lúc đó, các kiến trúc sư cổ đại Ai Cập muốn cụ thể hoá,
vật chất hoá vào đá các hình tam giác chỉ mới phác ra trong loại hình kim tử tháp có
bậc. Hình thức mới này phảng phất giống hòn đá thần ở Hê-li-ô-pô-lit, giúp cho linh
hồn nhà vua lần theo suờn mà leo lên trời, gặp nhau ở đỉnh cao. Ngoài ra, lại có
những nhà thần học giảng thêm rằng, các hình tam giác của kim tử tháp giống như
hình tia mặt trời chiếu toả từ một đám mây, loé ra ánh sáng tốt lành, đã được hoá đá
để bảo vệ mãi mãi cho toà lãng vua được bền vững.
Kim tử tháp không đứng tách riêng một mình, mà là một bộ phận nổi bật nhất
trong cả một tổng thể quan trọng các công trình kiến trúc gồm hai ngôi đền, có một
lối đi nối liền, thường được xây che kín và có trang trí những bức phù điêu. Đó là đền
thượng, nơi diễn ra những lễ tang, thường đătj ở phía đông kim tử tháp; đền hạ nơi
đón tiếp những đám rước, thường đặt ở phía đông kim tử tháp; đền hạ, nơi đón tiếp
những đám rước, thường đặt ở ngay bên bờ thung lũng và có một bể nước cho thuyền
bè cập bến.
Đời Kê-ốp, con vua Xnê-phơ-ru, cho xây dựng một công trình to lớn, đó là Kim
tử tháp Kê-ốp ở Gi-da, được coi là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Kim tử tháp
này cao 146,6m và cạnh đáy dài 230 m. Trong khoảng thời gian gần 4000 năm, chưa
có một công trình nào đạt được chiều cao như nó. Chỉ mãi đến cuối thời trung cổ mới
một vài ngọn tháp nhà thờ là vượt cao hơn một chút. Khối lượng của tháp này là
2600.000 m
3
, tính ra phải 6 triệu tấn, bao gồm các phiến đá khổng lồ lấy từ núi đá
chuyên chở về nới xây dựng, được đẽo, gọt rồi nâng lên cao, ghép lại thành từng lớp
làm cốt, trước khi có thể tiến hành việc lát đá quanh 4 mặt tháp.
Đứng về mặt chất lượng công trình mà nói cũng thật đáng phục: việc xếp đá
mặt bên trong các phòng, các hành lang cũng như mặt ngoài kim tử tháp phải dùng
đến những phiến đá nặng đến hai, ba tấn, gắn với nhau bằng những đệm nối rất khít.
Thật là một kì công bất hũ về kĩ thuật.
Ngọn hải đăng cao nhất thế giới và thư viện đầu tiên của nhân loại ở A-
Lếch-Xan-Đria
A-Lếch-Xan-Đria, vua của Vương quốc Ma-xê-đoan, một quốc gia ở bắc bán
đảo Hi Lạp, đã mang quân xâm lược Ai Cập năm 332 TCN. Trong thời gian ở Ai Cập,
ông tự xung là con của thần mặt trời và có ý đồ xây dựng ở Ai Cập một thành phố lớn
và sẽ lấy tên ông đặt tên cho thành phố.
Sau khi A-Lếch-Xan-Đrơ mất (323 TCN), một bộ tướng người HiLạp của ông
Ptô-lê-mê đã đặt quyền cai trị của mình ở Ai Cập và cho xây dựng thành phố A-lếch-
xan-đria. Thành phố này sau đó trở thành một đô thị quốc tế. Dân cư ở đây, ngoài
người Ma-xê-đoan, người Ai Cập, người HiLạp, còn có người Do Thái, người Ba Tư.
Kiến trúc A-lếch-xan-đria hùng vĩ lạ thường với những cung điện nguy nga, trải dài
trên bờ cát mịn. Mỗi ông vua lên ngôi lại xây dựng cho mình một cung điện ở đấy,
khiến cho A-lếch-xan-đria trở thành thành phố của cung điện. Đường phố A-lếch-xan-
đria rộng rãi, có trường đấu xảo, có rạp hát mĩ lệ, có hải cảng rộng lớn với những
vườn hoa đẹp.
Ở A-lếch-xan-đria có hai công trình kiến trúc khiến nhân loại khâm phục là hải
đăng và thư viện A-lếch-xan-đria.
Hải đăng được xây dựng trên đảo Pha-rốt, để hướng dẫn tàu bè cập bến hải
cảng A-lếch-xan-đria. Đó là một cái tháp cao 3 tầng, xây dựng trên một diện tích
vuông, mỗi cạnh dài khoảng 170-180m. Trên diện tích này, người ta xây dựng một
cung điện rất lớn, khối vuông, mỗi cạnh dài 30m, bốn cạnh trùng với bốn hướng
đông, tây, nam, bắc, được xây dựng bằng đá vôi, là tầng thứ nhất của hải đăng. Tầng
thứ hai được xây dựng theo kiểu bát giác, tám mặt theo hướng tám chiều gió chính.
Tường được xây dựng bằng đá hoa. Tầng thứ ba là một khối trụ, trên có một cái vòm,
do những cột đá chống đỡ, trông rất thoáng và không có tường bao quanh. Đèn để
dưới vòm mây, toả ánh sáng khắp bốn phía. Một pho tượng thần biển (Pô-xây-đông -
thần biển trong thần thoại HiLạp) bằng đồng, tay cầm đinh ba, cao 7 m được dựng
trên nóc của tháp.
Thời bấy giờ, hải đăng A-lếch-xan-đria còn có một cơ quan khoa học lấy tên là
Muy-dê, nghĩa là các thần bảo vệ khoa học và nghệ thuật. Vua Ptô-lê-mê I và những
người kế tục có ý muốn bảo vệ và nâng đỡ cho khoa học, văn học, nghệ thuậtphát
triển nên đã thành lập ở đây một thư viện công cộng đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Thư viện là một toà nhà hình chữ nhật, bốn hàng cột đẹp có tượng trang trí bốn mặt và
giữa các cột có tạc tượng các nhà văn, nghệ sĩ, các nhà khoa học. Lối vào phòng làm
bằng đá hoa trắng. Ở đây, người ta kê bàn để đọc và viết. Phía sau phòng là kho chứa
sách và một số phòng phụ cho người thủ thư, người phiên dịch v.v...
Từ thế kỉ III TCN, khối lượng tác phẩm viết bằng chữ Hilạp đã khá nhiều. Tất
cả các tác phẩm này đều là những bản viết tay, thường thuộc quyền của cá nhân. Ptô-
lê-mê đã cử người đi mua các tác phẩm đó. Các thuyền bè đến A-lếch-xan-đria đều
phải trình báo số tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có trên tàu và thường phải
bán cho thư viện. Do vậy, thư viện đã có một số lượng sách lớn. Đầu thế kỉ I TCN, số
sách ở đây lên tới khoảng 700.000 cuốn. Ở đây có các tuyển tập kịch của các nhà soạn
kịch vĩ đại như Xô-phốc-lơ, Ơ-ri-pit, A-ri-xtô-phan và thơ ca của nhiều thi sĩ xuất sắc
thời cổ đaị. Một số tác phẩm của các học giả cổ đại, đặc biệt là A-ri-xtốt, Hi-pô-crát
và học trò của ông còn tồn tại cũng nhờ thư viện này.
Ở thư viện A-lếch-xan-đria chỉ tồn tại khoảng 200 năm. Năm 48 - 47 TCN, khi
quân đội Rô-ma do Xê-da lần đầu tiên đột nhập vào A-lếch-xan-đria , một trận chiến
xảy ra, A-lếch-xan-đria bị đốt cháy, thư viện cũng thoát khỏi sự tàn phá này. Một số
sách bị đốt thành tro bụi; một số khác, theo lệnh của Xê-da, được đưa về La Mã như
những chiến phẩm lợi phẩm. Nhưng rất tiếc, trên cuộc hành trình tàu bị đắm và sách
cũng không còn.
Cuối thế kỉ IV, các tín đồ đạo Thiên Chúa đấu tranh ác liệt chống lại những
người khác đạo ở A-lếch-xan-đria, thư viện lại bị tàn phá một lần nữa. Tai hoạ lớn
nhất là vào năm 641, sau khi đánh chiếm A-lếch-xan-đria , quân đội A-rập đã lấy tất
cả sách của thư viện đưa vào nhà tắm của thành phố đốt để đun nước tắm. Sáu tháng
sau, thư viện A-lếch-xan-đria hoàn toàn bị thiêu huỷ.
Thµnh phố Ba-bi-lon một thời tr¸ng lệ
Ở miền bắc Lưỡng Hà vào đầu thế kỉ XIX TCN đã xuất hiện một quốc gia mới
của người A - mô - rít là Ba - bi - lon. Vương quốc Ba-bi-lon dần dần hưng thịnh và
thống nhất được Lưỡng Hà
Nằm ở trung tâm Lưỡng Hà, Ba-bi-lon còn là nơi tiếp cận của hai con sông Ti-
gơ-rơ và Ơ-phơ-rát. Do vậy, đây là nơi gặp gỡ của những con đường thương mại quan
trọng nhất chạy từ vịnh Ba Tư tới Tiểu Á và ngoại Cáp-ca-dơ, và từ Xi-ri đến cao
nguyên I-ran. Ba-bi-lon trở thành thủ đô của một quốc hùng mạnh, là trung tâm kinh
tế, thương mại và văn hoá quan trọng nhất của Lưỡng Hà. Trong suốt thời gian dài nó
vẫn luôn là trung tâm của khu vực Cận Đông
Vào thời Tân Ba-bi-lon (605-539 TCN), Lưỡng Hà đã đạt tới một sự phát triển
rực rỡ chưa từng thấy, làm cho nó có một vị trí vinh quang ở Tây Á. Sự vinh quang
của thời kì Tân Ba-bi-lon được biểu hiện rõ nhất ở sự sầm uất chưa từng có trước đó
của chính thành phố Ba-bi-lon. Sự vinh quang đó đã từng bước được các sử gia Hi
Lạp cổ đại như Hê-rô-đốt, Đi-ô-đô-rơ, Stra-bon nói tới trong các tác phẩm của mình.
Nhiều truyền thuyết của người Hi Lạp cũng nói đến sự vĩ đại của thành phố Ba-bi-lon.
Theo những ghi chép của Hê-rô-đốt, thành phố Ba-bi-lon có chu vi 90Km, có những
bức tường dày 50m, cao 100m. Dọc theo những bức tường đó, người ta dựng 50 tháp
canh và xây dựng 100 cửa.
Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, những cuộc khai quật khảo cổ học thành phố
Tân Ba-bi-lon đã cho phép khẳng định những ghi chép của các sử gia Hi Lạp cơ bản
là đúng, tuy còn thiếu chính xác. Rất tiếc những di tích của thành phố đã không còn
nguyên vẹn. Các công trình kiến trúc bằng ghạch vốn không bền, lại bị nhiều tác nhân
như lụt lội, cát lấp... tàn phá. Nhưng những gì còn lại đã cho phép các nhà nghiên cứu
hình dung được những nét bao quát nhất của thành phố này. Theo di tích của các cuộc
khai quật, thành phố Ba-bi-lon có chu vi là 16Km, có tường ghạch cao 30m, dày
8,5m. Người ta mới tìm thấy dấu tích của 7 cửa, trong đó đáng chú ý là cửa I-sta-rơ
nằm ở phía bắc thành phố, cao tới 12m, được xây kép qua 2 bức tường thành. Trên
mỗi lớp thành đều có tháp canh. Thành phố nhìn chung được xây dựng rất kiên cố,
được trang trí rất tỉ mỉ và rực rỡ bằng nhiều màu sắc và các bức phù điêu nổi hay các
tượng lấy đề tài thú vật như sư tử, bò mộng... để miêu tả. Các cánh cửa thành đều
được làm bằng đồng rất vững chắc.
Các đường phố của thành Ba-bi-lon đều được xây dựng thẳng tắp và vuông góc
với nhau. Lâu đài, cung điện thì được xây dựng trên những nền móng cao hơn và
được xây bằng ghạch tốt hạơc đá làm tăng độ kiên cố cho công trình.
Trong số các loại hình kiến trúc ở Ba-bi-lon, nổi bật hơn cả là các đền thờ.
Phần lớn các đền thờ này được xây dựng trước thời Tân Ba-bi-lon, nhưng bị thời gian
và chiến tranh tàn phá nên đã được kiến tạo lại dưới thời Tân Ba-bi-lon. Dưới thời
thống trị của mình, Na-bu-cô-đô-nô-sơ đã cho xây dựng lại tất cả 8 ngôi đền, lớn nhất
là đền thờ thần Mác-đúc. Bên cạnh ngôi đền, Na-bu-cô-đô-nô-sơ đã cho xây dựng một
cái tháp vĩ đại mang tên Ba-hen. Tháp này có đáy vuông chu vi 91m, chiều cao tháp
cũng khoảng 90 m, gồm cả thảy 7 tầng chồng lên nhau. Theo Đi-ô-đô-rơ, sử giả
HiLạp cổ đại, thì người Ba-bi-lon dựng tháp Ba-ben để cho các nhà chiêm tinh quan
sát. Còn theo sử giả HiLạp khác là Stra-bon thì tháp này là lăng của thần Bê-lút (tên
Hi Lạp của thần Mác-đúc), và theo ghi chép của Hê-rô-đô thì ở những tầng trên cùng
cuat tháp, nơi được gọi là nhà nguyện có một cái giường rất rộng, được trang hoàng
lộng lẫy và có một cái bàn bằng vàng. Giường này được coi là thiêng liêng, không ai
được ngủ trên đó trừ một vị nữ tu sĩ do các tu sĩ cũ đền thờ Mác-đúc chỉ định. Do vậy,
một số nhà nghiên cứu đã cho rằng, pháp được xây dựng được biểu tượng cho cuộc
hôn nhân thần thánh giữa thần Mác-đúc và vợ là nữ thần Xác-pa-nít được tượng trưng
bởi nữ tu sĩ kể trên. Trong tháp còn có một pho tượng thần Mác-đúc mạ vàng rực rỡ.
Theo Hê-rô-đốt, tượng thần Mác-đúc nặng tới 24 tấn.
Điều lí thú khi nhìn nhận tổng thể kiến trúc Ba-bi-lon là ở chỗ nó được kết hợp
hài hoà với cảnh sắc tự nhiên. Sông Ơ-phơ-rát chảy ngang qua thành phố. Hai bên của
nó được xây bằng ghạch rất đẹp và có nối với nhau bằng một cái cầu, đã làm cho cảnh
quan thành phố thêm thơ mộng.
Đế quốc Ba-bi-lon không tồn tại lâu dài. Năm 539 TCN, Ba-bi-lon bị Ba Tư
xâm lược. Từ đó về sau, Ba-bi-lon không hồi phục được độc lập của mình. Rất may
mắn là người BaTư không phá huỷ thành phố Ba-bi-lon, nhờ đó trong một thời gian
khá lâu, thành phố Ba-bi-lon vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, vẫn là trung tâm văn
hoá và thương nghiệp quan trọng nhất của khu vực Tây Á.
A-Sô-Ca - vị vua Phật giáo
A-sô-ca (273-235 TCN) là một vị vua nổi tiếng trong lịch sử cổ đại Ấn Độ.
Ngay từ thuở niên thiếu, A-sô-ca đã được vua cha giao cho cai trị vùng đất A-van-ti
(Tấy Bắc Ấn Độ); sau đó, ông lại được phái đến Ta-xi-la để dẹp yên một cuộc
nổi dậy của các thổ hào địa phương và được phong làm Phó Vương ở tỉnh Tây Bắc,
mà Ta-xi-la là thủ phủ. Khi nghe tin vua cha mất, ông đã kéo quân về kinh đô Pa-ta-li-
pu-tra, giết người anh cả và cướp lấy ngôi vua.
Trong những năm đầu làm vua, A-sô-ca từng là một hoàng đế khắc nghiệt,
thậm chí tàn bạo. Theo truyền thuyết, A-sô-ca đã lập ra một nhà tù nổi tiếng, giết hại
nhiều người bằng cực hình tàn khốc, trong đó, có rất nhiều anh em hoàng tộc và triều
thần của nhà vua. Theo ghi chép của nhà sư Trung Quốc Huyền Trang thì đến thế kỉ
VII, mọi người vẫn nhớ đến nhà tù đó và gọi là "địa ngục A-sô-ca". Giấc mơ thống trị
toàn bộ Ấn Độ với một chính quyền tối cao dưới tay mình đã nung nấu trong lòng A-
sô-ca. Đến năm thứ 9 trong cuộc đời trị vì của mình, ông đã tiến hành chinh phục
Vương quốc Ca-lin-ga nằm trên bờ biển phía đông. Một trong những sắc dụ của A-sô-
ca được tạc trên đá có ghi lại:"Ngay sau khi thôn tính Ca-lin-ga, vì việc chinh phục xứ
này, một xứ chưa hề bị chinh phục, đã đưa đến giết chóc, tử vong và giam cầm bao
nhiêu sinh linh. Điều đó khiến cho Đức Thánh thượng vô cùng xót thương và hối
tiếc". Chánh pháp, hay luật về nghĩa vụ và mộ đạo mà A-sô-ca sử dụng để chinh phục
trái tim con người là luật của phật giáo hay phật luật.
A-sô-ca thực hiện những lời khuyên của Phật, sống thanh đạm, khuyên răn đạo
đức, bố trí cho các chùa chiền Phật giáo, làm việc bác ái (lập viện tế bần nuôi người
già yếu, lập bệnh viện đặc biệt chữa chạy cho súc vật và cấm giết hại súc vật, đào
giếng, trồng cây hai bên đường, trồng cây thuốc...). Dưới thời A-sô-ca, nhiều cột
đồng, bia đá dựng lên để ghi những sắc lệnh của ông, nhiều chùa chiền, tháp mộ,
trường Đại học Phật giáo được xây dựng do A-sô-ca trợ giúp.
Năm 253 TCN, A-sô-ca triệu tập Đại hội phật giáo lần đầu tiên có tính chất
quốc gia ở kinh thành Pa-ta-li-pu-tra. Hội nghị này đã xác định những bộ kinh của
phật giáo, quy định những lễ nghi tôn giáo, cũng như những tổ chức vật chất của nó.
Năm 240 TCN, A-sô-ca công nhận đạo phật và quốc giáo trong đế quốc của mình. Ít
lâu sau, ông cử hai phái bộ do em trai (hoàng tử Ma-hen-đra) và em gái (công chúa
Sang-ha-mi-tra) của mình sang Xây-lan (ngày nay là Sri-lan-ca) cảm hoá được nhà
vua và nhân dân theo đạo phật, mang một cây bồ đề sang trồng (cây bồ đề linh thiêng
ở Gay-a) làm lưu niệm. Đạo phật từ đó chiếm ưu thế ở đảo này. Nơi này sau trở thành
nơi phát nguyên của đạo phật và truyền được truyền bá sang các nước Đông Nam Á.
A-sô-ca cũng gửi một bộ phật giáo sang các nước HiLạp hoá (Xi-ri, Ai Cập...) nhưng
việc truyền bá đạo phật ở các nước này không thu được kết quả. A-sô-ca cũng tỏ lòng
khoan dung rộng rãi đối với các tôn giáo khác. Ông cho khắc lên trên cột đá một câu