Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
của Chính phủ Trung Quốc
Bài tham luận của tác giả Xiao Mingzheng -Trường Đại học Bắc Kinh trình
bày tại Hội thảo “Cải cách hành chính dành cho các nước châu Á” do Bộ Thương mại
Trung Quốc tổ chức từ ngày 03/4 – 22/4/2008.
Nguyễn Diệu Tú - Viện Nghiên cứu hành chính, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh dịch và biên tập
Thời đại ngày nay là thời đại của nền kinh tế thông tin, vì vậy, nguồn nhân lực trở
thành nguồn lực đầu tiên để phát triển kinh tế - xã hội. Sự cạnh tranh giữa các quốc
gia trở thành sự cạnh tranh về sức mạnh nhân tài, sự cạnh tranh đó đặt trọng tâm vào
trình độ phát triển nguồn nhân lực. “Tăng cường sự phát triển và thiết lập các nguồn
lực con người chưa bao giờ lại quan trọng
và cấp thiết đến như vậy”. Trong lĩnh vực
học thuật và quản lý nhà nước, mọi người
dần nhận ra được tầm quan trọng của phát
triển nguồn nhân lực.
I. Những phân tích giá trị về phát
triển nguồn nhân lực của Chính phủ
Trung Quốc:
Trong tiến trình phát triển, xã hội
đang trải qua một sự thử thách gay go bởi
hai nguyên nhân chủ yếu. Một là sự thiếu
thốn các nguồn lực và môi trường ngày càng
đi xuống; Thứ hai là sự bùng nổ dân số và gia tăng các nhu cầu. Trong khi đó tất cả
các quốc gia đang tránh sử dụng quá tải các nguồn lực và ngăn chặn sự suy thoái của
môi trường, tập trung hơn tới phát triển hiệu quả và sử dụng một cách tốt nhất nguồn
lực con người.
Chức năng và giá trị của phát triển nguồn nhân lực là: Làm cho các nguồn lực
tiềm năng của con người trở nên có ích; Biến đổi năng lượng của con người trở nên
có hiệu suất cao; Nâng cao hiệu quả làm việc; Tạo ra những tài năng thật sự; Tăng
cường trình độ năng lực của họ; và cuối cùng đưa nước Trung Quốc từ một nước
đông dân thành một nước có nguồn nhân lực tốt, có năng lực, khả năng.
Cụ thể, những giá trị để phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ Trung Quốc
biểu hiện ở các mặt sau:
Đường phố Bắc Kinh Ảnh: TL
1. Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề cốt yếu của Chiến lược “Khoa học và
Giáo dục tiếp sức cho Trung Quốc”:
“Khoa học và Giáo dục tiếp sức cho Trung Quốc” là một chính sách quốc gia
cơ bản. Nếu như khoa học và giáo dục là hai bánh xe cho sự tiến vào thế kỷ mới của
Trung Quốc thì nhân tài là trục của bánh xe và phát triển nguồn nhân lực sẽ quyết
định tốc độ của những bánh xe đó. Vì thế, việc thực hiện chiến lược này tạo ra nhiều
không gian cho phát triển nguồn nhân lực.
2. Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề thiết yếu cho Chiến lược “Phát triển
không ngừng”
Điều cốt lõi của Chiến lược “Phát triển không ngừng” là sự thống nhất lâu dài
của ba yếu tố: môi trường, kinh tế và xã hội. Sự thống nhất lâu dài đó lại phụ thuộc
vào nhân tố chính của các hoạt động xã hội - đó chính là con người, là thái độ của
con người đối với sự phát triển không ngừng. Trung Quốc đang thiếu các nguồn lực ở
mức trung bình và tình trạng căng thẳng về các nguồn lực sẽ còn kéo dài, vì vậy nên
theo phương thức tiết kiệm để sử dụng, phát triển các nguồn lực đó. Một mặt, ta nâng
cao mức sử dụng để tiết kiệm các nguồn lực, mặt khác, thay đổi từ phương thức rộng
tới hẹp để tăng cường hiệu quả của các nguồn lực. Trên thực tế, sự hủy hoại, lãng phí
các nguồn lực là khá nghiêm trọng và phổ biến. Một lý do quan trọng nữa, đó là chất
lượng của lực lượng lao động không tương ứng với sự phát triển của các nguồn lực tự
nhiên. Theo đó, củng cố việc phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng của
người lao động là vấn đề quan trọng.
3. Phát triển nguồn nhân lực dựa trên những điều kiện của đất nước
Trung Quốc
Trung Quốc có nguồn lực con người lớn và giàu có, nhưng chính điều này lại
làm cho sự thiếu hụt các nguồn lực khác trầm trọng hơn. Trung Quốc có nhhiều sản
phẩm, rừng, mỏ và nguồn nước, nhưng nếu những nguồn lực này được phân chia cho
con số 1,3 tỷ người thì cũng chỉ còn lại rất ít cho mỗi người. Những nguồn lực tự
nhiên chủ yếu, hàng hóa và Tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc là rất đáng kể,
song tính riêng cho mỗi thành phố thì Trung Quốc đứng cuối bảng xếp hạng của thế
giới. Ở chừng mực nào đó, vì không còn lựa chọn nào khác, nguồn nhân lực trở thành
nguồn lực cần thiết và đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển hiện tại của Trung Quốc.
4. Phát triển nguồn nhân lực là nền tảng cho sự phát triển của miền Tây
Trung Quốc và tạo dựng xã hội thịnh vượng.
Miền Tây Trung Quốc có những nguồn nguyên vật liệu giàu có, nhưng thiếu
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực có tính
quyết định cho sự cải thiện các điều kiện môi trường, vì vậy, phát triển nguồn nhân
lực là cần thiết để phát triển miền Tây Trung Quốc và điều đó có mối quan hệ mật
thiết với việc tạo dựng xã hội thịnh vượng hiện tại.
5. Phát triển nguồn nhân lực là cơ sở để giải quyết vấn đề “tam nông” (nông
dân, nông thôn và nông nghiệp):
Ở nông thôn Trung Quốc, những nguồn lực tự nhiên như đất nông nghiệp là
tương đối khan hiếm. Các vùng nông thôn có số dân đông nhưng chất lượng thấp, có
nguồn nhân lực tiềm năng thực sự dồi dào, chứa đựng sức sản xuất tiềm năng rất lớn.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn có thể giải quyết hiệu quả vấn đề “tam
nông” tại Trung Quốc. Nông dân là vấn đề cốt lõi của “tam nông” và giải pháp là
việc làm của họ. Theo thống kê, dân số nông thôn cần việc làm vào khoảng nửa tỷ.
Tuy nhiên, ở nông thôn, toàn bộ gia đình sống dựa vào nông nghiệp và họ làm việc
tới già, không nghĩ tới nghỉ hưu. Những người này cộng với lực lượng lao động, kể
cả dưới 18 và trên 60 tuổi đều vẫn đang làm việc. Thêm một nửa lực lượng lao động
này thì số người ở nông thôn có khả năng lao động đạt tới con số 600 triệu người.
Với tỷ lệ tự nhiên giữa lực lượng lao động và đất nông nghiệp thì chỉ 100 triệu người
là đủ cho nông nghiệp và vì thế, gần 500 triệu người trong lực lượng lao động nông
thôn chuyển sang làm việc phi nông nghiệp. Những năm gần đây, gần 150 triệu
người đã làm việc trong các doanh nghiệp thị trấn, làng, xã hoặc làm việc ở thành
phố, nhưng vẫn còn hơn 300 triệu người (gần bằng dân số Mỹ) đang xếp hàng chờ
việc. Vì rất nhiều lý do, chủ yếu là vì khả năng làm việc kém và ít được giáo dục. Do
đó, phát triển nguồn nhân lực nông thôn là giải pháp cuối cùng, quyết định để giải
quyết vấn đề “tam nông” tại Trung Quốc.
II. Những vấn đề Chính phủ Trung Quốc phải đối mặt khi phát triển
nguồn nhân lực:
1. Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ lớn và rất nặng nề:
Năm 2004, dân số Trung Quốc đạt 1,3 tỷ người, số lượng dân số lớn nhưng
chất lượng thấp. Theo số liệu thống kê của cuộc điều tra dân số lần thứ 5, có khoảng
87 nghìn người mù chữ trong độ tuổi 15 trở lên. Bình quân số năm giáo dục cho
người từ 25 - 64 tuổi là 7,97 năm, bằng với tỷ lệ này ở Mỹ cách đây 100 năm. Chất
lượng văn hóa của dân cư cũng còn cách xa so với các nước phát triển. Tỷ lệ người
có trình độ rất nhỏ, cấu trúc văn hóa của lực lượng lao động thấp và thiếu những
người tài có trình độ trung cấp, cao cấp. Trong số những người có việc làm, hầu hết
đều có trình độ trung cấp hoặc thậm chí thấp hơn, rất thiếu những người có trình độ
cao. Bên cạnh đó, trình độ chung về khoa học thì kém xa so với các nước phát triển.
Những điều kiện hiện tại của nguồn nhân lực khó có thể đáp ứng được tốc độ phát
triển kinh tế ở Trung Quốc. Vì thế, phát triển nguồn nhân lực là một nhiệm vụ nặng
nề và rất lớn của Trung Quốc.
2. Mức độ phát triển nguồn nhân lực thấp và phương pháp còn đơn lẻ
Hiện tại, mức độ và hiệu quả phát triển nguồn nhân lực của Trung Quốc đang
rất thấp. Với tốc độ của việc hiện đại hóa thông tin, thông tin bị lạc hậu rất nhanh. Rõ
ràng sự phát triển nguồn nhân lực hiện tại đang đi sau thời đại. Nội dung đào tạo
không dựa trên nhu cầu thực tế, vì thế, những lao động được đào tạo vẫn không phù
hợp với các vị trí làm việc của họ. Phạm vi phát triển nguồn nhân lực còn hẹp, công
nhân ở nông thôn không có cơ hội được đào tạo.
Đồng thời, phương pháp phát triển nguồn nhân lực còn đơn lẻ. Có rất nhiều cách
để phát triển nguồn nhân lực như là giáo dục, đào tạo, chuyển đổi, thay thế và sử dụng
lực lượng lao động hợp lý… Tuy nhiên, các phương pháp phát triển hiện tại chủ yếu dựa
vào giáo dục, đào tạo nghề, rất ít xem xét tới các phương pháp có ảnh hưởng tới phát
triển và sử dụng nhân lực khác.
3. Cấu trúc phát triển nguồn nhân lực chưa hợp lý
Cấu trúc phát triển nguồn nhân lực ở Trung Quốc chưa thật sự hợp lý, làm ảnh
hưởng nặng nề tới việc sử dụng hiệu quả và đầy đủ nguồn nhân lực.
Có những lĩnh vực chủ yếu sau đây:
- Một nửa số nhân công trong nền công nghiệp cơ bản (thứ nhất) có trình độ
tiểu học hoặc thấp hơn. Điều này ảnh hưởng xấu tới việc chuyển nhân lực và cải thiện
trình độ kỹ thuật, năng suất lao động. Tỷ lệ nhân công có trình độ cao trong ngành
công nghiệp thứ hai chỉ là 5,95% cũng ảnh hưởng tới cơ cấu và sự đi lên của các
ngành. Cấu trúc lực lượng lao động trong nền công nghiệp thứ ba, đặc biệt là lĩnh vực
dịch vụ cao, cũng tương đối thấp. Vì thế, để vượt qua trong thời đại sáng tạo thông
tin còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Có sự khác nhau rất lớn trong giáo dục của các nhân công giữa khu vực thành
thị và nông thôn. Một số lượng lớn dân số chất lượng thấp sống ở nông thôn, đặc biệt
là khu vực nông thôn miền Tây Trung Quốc. Năm 2000, số năm giáo dục trung bình
cho nông dân ở độ tuổi 15 và trên 15 là 6,85 năm, ít hơn 3 năm so với tỷ lệ trung bình
này ở thành thị (9,80 năm); thêm vào đó, hơn 90% số người thất học và mù chữ sống
ở nông thôn. Nền công nghiệp thứ nhất không thể cung cấp lực lượng lao động cần
thiết cho các nền công nghiệp thứ hai và thứ ba. Điều này ảnh hưởng lớn tới sự sắp
xếp và phát triển cơ cấu ngành và đô thị hóa ở Trung Quốc.
- Trình độ lao động giữa miền Đông và miền Tây của Trung Quốc có một sự
đối lập rõ ràng. Năm 2000, hơn 3/4 số người thất học và mù chữ sống ở nông thôn
miền Tây. Khi đó, tất cả các tỉnh có khoảng cách về số năm giáo dục giữa khu vực
thành thị và nông thôn là hơn 3,5 năm đều nằm ở miền Tây của Trung Quốc. Nhiệm
vụ phát triển nguồn nhân lực ở miền Tây càng khó khăn hơn. Nếu không giải quyết
tốt, nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới chiến lược phát triển miền Tây nói riêng và xa hơn
là ảnh hưởng tới sự phát triển chung của nền kinh tế Trung Quốc.
- Cấu trúc về khác biệt trình độ của nhân công thật sự không cân đối. Trong số
nhân công hiện tại ở Trung Quốc, hầu hết là những công nhân có trình độ trung cấp
và thấp hơn, thiếu những nhân công trình độ cao. Năm 2000, trong số lực lượng lao
động từ 35- 64 tuổi, chỉ có 5,2% có trình độ giáo dục cao và chỉ 1,38% trong số họ
có bằng đại học và trên đại học. Khan hiếm nguồn nhân lực cao cấp đã ảnh hưởng
nghiêm trọng tới khả năng sáng tạo; thành tựu nghiên cứu ở trình độ cao ít đã làm
giảm khả năng cạnh tranh về khoa học của Trung Quốc so với thế giới.
Cấu trúc nguồn nhân lực trong các ngành khác nhau, khoảng cách vùng miền
không hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác.
4. Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực chưa đầy đủ
Phát triển nguồn nhân lực là sự đầu tư cần thiết vào nguồn vốn con người. Đầu
tư chủ yếu cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, luân chuyển lực lượng
lao động, cải thiện năng suất và mở rộng kỹ thuật… trong đó, đầu tư cho giáo dục và
đào tạo là phần đầu tư chính yếu nhất. Hiện nay ở Trung Quốc, đầu tư của chính phủ
và xã hội cho giáo dục còn rất thiếu. Năm 2001, tỷ lệ tổng đầu tư cho giáo dục và tài
chính giáo dục chỉ chiếm tương ứng 4,83% và 3,19% trong GDP, tỷ lệ này thấp hơn
nhiều so với các nước phát triển, và là quá thấp để hỗ trợ giáo dục cho một nước với
số dân là 1,3 tỷ người. Trong đầu tư cho giáo dục bắt buộc, tỷ lệ đầu tư của chính phủ
không đủ và trách nhiệm của những cơ quan nhà nước khác là chưa thực sự rõ ràng.
Nhu cầu về nguồn lực có giáo dục trình độ cao là rất lớn, nền tảng cho giáo dục bắt
buộc còn kém, giáo dục trung học cũng rất yếu và tỷ lệ tuyển vào giáo dục cao hơn
cũng còn quá thấp. Đầu tư của các doanh nghiệp vào đào tạo không thể đáp ứng nhu
cầu thực tiễn của công việc và sản xuất. Nhu cầu cần được đào tạo của một lượng lớn
công nhân nông thôn có tác động xấu tới sự luân chuyển khả năng làm việc trong
chính các đối tượng này và dẫn tới rất nhiều hậu quả.
5. Phát triển nguồn nhân lực gặp rất nhiều trở ngại:
Phát triển nguồn nhân lực ở Trung Quốc đối mặt với rất nhiều trở ngại mang
tính hệ thống, bao gồm:
- Thứ nhất, trở ngại có tính hệ thống trong dịch chuyển dân số. Trong phát triển
nguồn nhân lực, vấn đề di cư hợp lý và phân bố dân cư hiệu quả là một phương thức
rất quan trọng. Hiện tại, người dân chưa có sự tự do di chuyển. Những hệ thống quản
lý dân số như việc đăng ký và lưu trữ hồ sơ thường trú đã làm hạn chế rất lớn sự di