Nho giáo với tư cách là một tôn giáo
I - Nho giáo có phải là tôn giáo?
1. Nho giáo có phải là tôn giáo hay không đã là vấn đề tranh cãi hàng thế kỷ
nay ở Trung Quốc. ngoài ý nghĩa học thuật còn là vấn đề tình cảm. Khi bắt buộc phải
đối diện với phương Tây văn minh và nền văn minh đó được coi là gắn liền với Ki tô
giáo, một tôn giáo ; người ta đưa Nho giáo ra để đối lập và nói Nho giáo cũng là một
tôn giáo. Khi vai trò của tôn giáo trong sự phát triển xã hội bị chối bỏ : tôn giáo là
thuốc phiện, người ta lại chứng minh Nho giáo là tư tưởng triết học, không phải là
tôn giáo. Đằng sau sự khác nhau đó là một thái độ dựa tuổi tác và tình cảm : lòng tự
hào về truyền thống văn hoá phương Đông. Thực ra những quan niệm về triết học,
khoa học, tôn giáo trong hệ thống tư tưởng phương Đông và phương Tây không phải
là đồng nhất. Nói Nho giáo là tôn giáo hay không là tôn giáo cũng phải chiếu cố đến
thực tế không giống nhau đó. Và hơn thế cũng cần phải vượt ra ngoài tình cảm chủ
quan của tầng lớp Nho sĩ.
2. Nho giáo từ khi ra đời cho đến trong suốt thời gian tồn tại là một học
thuyết, học thuyết chính trị - đạo đức. Ra đời vào thời Xuân thu - Chiến quốc cực
loạn ly, Nho giáo là một học thuyết chống loạn cứu đời, mang nội dung nhân đạo chủ
nghĩa của thời đại.
Loạn ly theo Khổng Tử là do con người ham muốn giàu sang, không bằng lòng với cái
mình có, muốn ngoi lên giành giật cho nhiều hơn, cho nên sẵn sàng giết cha, giết
vua để chiếm đoạt. Lòng tham, dục vọng dẫn đến tranh giành, kiện tụng, chiến
tranh, phá hoại sự hoà mục, sự ổn định và trật tự, hình ảnh một xã hội lý tưởng.
Muốn chống loạn cứu đời, Nho giáo đề xuất phương án tổ chức xã hội va cai trị tốt,
đồng thời chăm lo giáo hoá con người chu đáo.
Muốn cai trị tốt, cần thiết lập một xã hội có trật tự trên dưới phân minh, sống hoà
mục ổn định, an cư lạc nghiệp và ít xáo trộn. Nước hay thiên hạ phải quy về một
mối, có người cầm đầu. Ra đời ở một đất nước có tổ chức, tôn tộc phát triển thành
truyền thống lâu đời, Nho giáo lấy mẫu hình gia đình để hình dung thế giới và coi sự
êm ấm gia đình (cha từ, con hiếu, anh em, vợ chồng hào thuận) là mẫu mực của xã
hội lý tưởng. Cho nên, Nho giáo chủ trương một ông vua toàn quyền, làm chủ mọi
mặt kinh tế, chính trị, quân sự, tư pháp, tôn giáo. Vua là cha của cả nước (và quan
cũng là cha mẹ của dân). Với tư cách chao mẹ, vua có trách nhiệm sắp xếp vị trí
(phân vị) và phân phối quyền lợi cho mọi người (quan và dân) và mọi người quan
hay dân, theo phận vị mà có quyền lợi và có trách nhiệm. Phải tôn trọng mệnh vua,
trật tự đã lập theo phận vị, không được tranh giành quan hệ giữa mọi người được
quy thành nghĩa, thành lễ và mọi người phải sống theo nó. Nghĩa và lễ quan trọng
hơn luật pháp. Cho nên, cách cai trị tốt nhất là cai trị bằng đức, người cầm quyền có
đức, làm gương và có ơn với dân, được lòng dân, cai trị bằng lễ, bằng văn, tức là
bằng lễ nhạc chứ không phải bằng bạo lực, bằng hình phạt.
Thiết lập một tổ chức tốt cũng không quan trọng bằng giáo hoá tốt. Cần phải đào tạo
con người để thực hiện thể chế tốt. Cho nên, Nho giáo hết sức cường điệu tu thân và
giáo hoá, hết sức đền cao luân lý. Luân lý Nho giáo nhằm đào tạo con người thích
hợp với thể chế lấy gia đình, họ hàng làm nền tảng và nếp sống trong một xã hội tổ
chức giống gia đình. Cho nên, đức tính gốc là hiếu đễ. Suy từ đó ra mà kính trọng
người trên, và trung với vua. Trong quan hệ với người khác thì giữ gìn lễ nghĩa, biết
nhường nhịn, không tranh giành, khiêm tốn, cẩn thận. Chỗ phân biệt con người với
cầm thú là ở chỗ có đức mà căn bản của đức là nhân nghĩa. Con người là con người
của cộng đồng cho nên sống vì cái chung (gia đình, họ hàng, làng nước) chống lại
việc mưu lợi riêng. Nghĩa đối lập với lợi, nhân đi ngược lại với làm giàu. Mỗi một
người, cao nhất là thiên tử, thấp nhất là dân thường, ai cũng phải tu dưỡng đạo đức
như vậy. Chức trách của nhà nước chủ yếu cũng là giáo dục con người đạt đến có
đức như vậy.
Nho giáo là một tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, là một học thuyết chính trị đạo đức.
Với những chủ trương vừa kể, các nhà nho tin tưởng có thể thực hiện được một xã
hội trị bình – hoà mục, ổn định, trật tự và đưa con người trở về với cái "thiện" vốn là
bản tính của con người.
Học thuyết Nho giáo ở thời kỳ khởi thuỷ không có nhiều ý vị triết học. Về sau trong
khi tranh luận với các học thuyết đối địch, nhất là với Đạo gia và Phật giáo, Nho giáo
mới xây dựng siêu hình học, mới thành triết học. Và cũng trong quá trình phát triển
đó, Nho giáo mới thành tôn giáo.
3. Học thuyết Nho giáo không phải là một sáng tạo mà là một sự tổng kết lịch
sử, lịch sử thời Ân - Chu. Khổng Tử tự hào là có ham thích cổ (hiếu cổ) và coi việc
làm của mình là nói lại chứ không sáng tác cái mới (thuật nhi bất tác). Vì lẽ đó, trong
thời Xuân thu – Chiến quốc là thời đại đổi thay kịch liệt, Nho giáo thất thế. Nhưng từ
khi Hán Vũ Đế (140 - 87 trước Công nguyên) xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế
và nghe lời Đổng Trọng Thư (197 - 107 trước Công nguyên) "bài truất bách gia, độc
tôn Nho thuật" thì Nho giáo thành công cụ ý thức hệ của chế độ chuyên chế, kéo dài
từ đời Hán cho mãi đến đầu thế kỷ XX, không chỉ ở Trung Quốc mà còn được cả các
nước Đông á học theo nữa. Gắn bó với chế độ chuyên chế, Nho giáo không mất đi
nội dung là học thuyết chính trị - đạo đức, nhưng mang thêm hình thức tôn giáo.
Hình thức tôn giáo đó được thể hiện ở ba mặt :
- Sách vở thánh hiền được coi là kinh điển thiêng liêng.
- Nội dung học thuyết được thần học hoá.
- Các nhà tư tưởng Nho giáo được thần hoá, sắp xếp thành đạo thống, được thờ
phụng trong văn miếu.
4. Người làm cho Nho giáo thành có nội dung thần học là Đổng Trọng Thư, bậc
đại nho đời Hán. Ông đề xướng thuyết "thiên nhân hợp nhất", "thiên nhân cảm ứng
(hay tương dữ)" coi con người và Trời giống nhau về hình thể. Trời có 365 ngày,
người có 365 đốt xương. Trời và người giống nhau về tình cảm, giống nhau về quy
luật. Trời là một vũ trụ lớn, người là một vũ trụ nhỏ. Quyền vua là do Trời trao. Vua
là người trung gian, là gạch nối giữa Trời và người. Trời là cha chung, chi phối cõi
người, kiểm soát hành vi của vua. Trời ra những tai dị (bão, lụt, dịch bệnh,…) để
cảnh cáo và những điềm lành để khuyến khích tuỳ theo việc làm tốt hay xấu của
vua. Tam cương ngũ thường được xác định là nền tảng đạo đức, theo Đổng Trọng
Thư là có nguồn gốc từ Trời.
Từ đời Hán, mười ba cuốn sách được coi là "kinh" có đạt chức bác sĩ để dạy. Chữ và
nghĩa của kinh được xác định chính thức. Những chỗ có nghi vấn thì nhà vua đích
thân chủ trì thảo luận để quyết định cách hiểu.
Việc nhà nước thờ cúng Khổng Tử như một vị thánh, một bậc vua chúa không trị vì
cũng bắt đầu từ đời Hán (Hán Cao Tổ năm thứ 12). Coi Nho giáo là do một hệ thống
các vị thánh truyền thừa thì đã có từ Mạnh Tử nhưng đến Hàn Dũ (768 - 824) mới đề
xướng "đạo thống" để đối lập với Phật giáo và Đạo giáo.
Về mặt tư tưởng, tống Nho phát triển Nho giáo theo hướng triết học chứ không phải
là tôn giáo. Nhưng cả ở ba phương diện nói trên Lý học hay Tâm học đều không thay
đổi khuynh hướng tôn giáo hoá có từ đời Hán. Đã có nghi ngờ, đã suy luận theo tính,
nhưng Lý, Tính và Tâm của họ tuy đã không còn thô thiển như thuyết Thiên Mệnh
xưa, vấn không phải là nằm trong một quan hẹ Trời và người thần bí.
5. Trong tư tưởng Nho giáo có hai mặt trái ngược nhau. Một mặt làm người ta
coi nó là phi tôn giáo, thậm chí là vô thần, và mặt khác đưa nó phát triển thành tôn
giáo.
Mặt thứ nhất bắt nguồn từ chủ trương của Khổng Tử "kính quỷ thần nhi viễn chi" đối
với quỷ thần thì tôn kính nhưng xa lánh và từ mấy câu nói khác của Khổng Tử. Thứ
nhất là câu trả lời Tử Lộ "chưa biết thờ người thì sao biết thờ quỷ thần… chưa biết
sống thì làm sao biết chết". Câu thứ hai là "không phải quỷ thần của mình mà cũng
cúng tế là xiểm nịnh". Kế thừa truyền thống tư tưởng của Tây Chu, Khổng Tử cũng
chủ trương trọng đức, trọng lễ, trọng văn, tức là trông cậy vào sức con người chứ
không trông cậy vào sự phù trợ của quỷ thần như thời Ân. Nho giáo vốn không
khuyến khích tín ngưỡng và cầu phúc. Nhưng mặt khác, Nho giáo và chính Khổng Tử
cũng lại tin có Trời, có thiên mệnh (Chết sống có Mệnh, giàu sang tại Trời) thừa nhận
có linh hồn, có quỷ thần, nhất là linh hồ tổ tiên. Cho nên Nho giáo đặc biệt coi trọng
việc tế tự. Chỉ có điều, mỗi người chỉ thờ cúng linh hồn (quỷ) thuộc về mình (kỳ quỷ)
tức là thờ Trời Đất, núi sông, dân thờ cha mẹ, tổ tiên theo phận sự. Việc thờ cúng
như vậy là để tỏ lòng biết ơn (trí hiếu), chứ không nhằm vụ lợi tức là nhờ quỷ thần
che chở ban phúc.
Nho giáo không phải vô thần mà cũng không phải là tôn giáo truyền bá đức tin và
hướng về thế giới bên kia, chờ mong hạnh phúc sau khi chết. Nhưng trong thực tế
hàng chục thế kỷ, nó vấn tồn tại như một tôn giáo, nhất là khi chế độ quân chủ
chuyên chế có ý thức sử dụng Nho giáo như một công cụ tôn giáo để cai trị, bên
cạnh chính quyền và quân đội. Nho giáo tồn tại như một tôn giáo với những cơ sở
thực tế :
- Nền văn minh nông nghiệp với xu hướng tôn giáo đa thần.
- Thể chế tập trung chuyên chế trên cơ sở làng họ phân tán cùng với truyền thống
tôn tộc lâu đời.
Và trong tình hình đó, nhà nước xã hội đã thần hoá thánh hiền, biến Nho giáo từ là
một học thuyết chính trị đạo đức thành một tôn giáo cũng có đủ kinh điển, thần điện,
thánh địa và mọi nghi thức thờ cúng.
II - Nho giáo là cái chính, biểu hiện văn hoá, chi phối sự phát triển của tam
giáo. một hình thức tôn giáo Đông Á
1. ở Việt Nam cũng như các nước Đông á khác không chỉ có Nho giáo. Bên cạnh
Nho giáo còn có đạo giáo và Phật giáo – cả ba gọi chung là Tam giáo, đối với Trung
Quốc là thổ sản, nhưng đối với Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam là ngoại lai, du nhập
từ Trung Quốc. Phật giáo được Trung Quốc du nhập từ ấn Độ là một tôn giáo lớn ảnh
hưởng toàn thế giới. Khi vào Trung Quốc phải trải qua vài thế kỷ dung hợp với tư
tưởng Lão - Trang, hình thành tông phái mới là Thiền Tông mới bắt rễ được vào đất
mới. Đạo giáo là một tôn giáo hoàn toàn Trung Hoa, bắt nguồn từ triết học Lão -
Trang (cũng gọi là Đạo gia) thành một tôn giáo chống đối của nông dân, có ảnh
hưởng lớn ở Trung Quốc nhưng khi truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam thì
biến dạng, mang hình thức dân tộc. Nói là bắt nguồn từ Lão - Trang nhưng quan hệ
giữa Triết học Đạo gia với Đạo giáo là cực mỏng manh, ngoại trừ việc tôn Lão Tử và
Trang Tử thành Thái thượng Lão Quân và Nam Hoa Chân nhân !
Về tư tưởng triết học, Phật giáo và Đạo gia đối nghịch với tư tưởng Nho gia, về tôn
giáo, Phật Đạo cũng có định hướng khác.
Phật giáo coi cõi đời là bể khổ, chủ trương xuất thế giải thoát, tìm cõi cực lạc Niết
bàn. Niết bàn là Tây phương tịnh thổ, tức là có một cõi nào đó trong thế giới hay chỉ
là ở trong tâm mình thì vẫn là không phải cõi đời này. Cách biện giải con người, cõi
đời, thế giới và con đường giải thoát của Phật giáo là một hệ thống tư tưởng cao sâu,
tinh vi, không cần đến thần linh. Nhưng để tìm đường giải thoát, tín đồ Phật vẫn phải
xuất gia tu hành, phải tụng niệm, phải theo giới luật, phải cúng tế,… Phật giáo từ là
triết học thành một tôn giáo. Và về mặt phương pháp tu dưỡng, tu hành, Phật giáo
cũng để lại một kho tàng kinh nghiệm phong phú.
Tư tưởng Lão - Trang (hay Đạo gia) vốn ra đời để đối lập với tư tưởng Nho gia, đề
cao Tự nhiện và Vô vi, là chống lại chính trị, đạo đức, lễ nghĩa những cái con người
(thánh vương của Nho gia) đặt thêm vào tự nhiên mong làm cho nó tốt đẹp hơn.
Theo họ làm thế chỉ là tàn phá tự nhiên, làm hại con người. Lão Tử và Trang Tử hình
dung một thế giới cự kỳ rộng lớn trong không gian vô tận, thời gian vô cùng với vạn
vật luôn luôn biến hoá - tức là bao la và phong phú chứ không chỉ chú ý cõi người
như Nho gia, Trong thế giới đó có nhiều người , nhiều vật kỳ quái, nhưng không có
thần linh hay thần linh cũng chỉ là một vật nào đó, và con người sống tự nhiên,
không cần đến thần linh. Đạo giáo là một tôn giáo, tin thần linh, ra đời mấy thế kỷ
sau, không phải để thực hiện triết học Đạo gia. Chỗ gặp gỡ có lẽ chỉ là thái độ chống
đối chính trị, đạo đức, lễ giáo của giai cấp thống trị. Nếu Nho giáo tổng kết văn hoá
truyền thống từ phần bên trên, phần gắn với tầng lớp thống trị như chính trị, đạo
đức, lễ nhạc thì Đạo giáo cũng tổng hợp văn hoá truyền thống nhưng là phần gắn bó
với nhân dân, với toàn xã hội : tín ngưỡng, phong tục, phương kỹ (bói toàn, bùa chú,
chữa bệnh) nhất là những mơ ước hạnh phúc, công bằng, hoà bình. Vì tính tổng hợp
đó mà giáo nghĩa của Đạo giáo hỗn tạp, không chặt chẽ. Đạo giáo là một tôn giáo coi
trọng sinh mệnh, sự sống, không thoát ly, mà ngược lại, coi lý tưởng là trường sinh
bất tử, thành tiền, sống vui vẻ mãi mãi. Đó là một tôn giáo đa thần, vật linh. Không
những trong cõi trời, cõi đất đều có thần mà các khí quan, thân thể con người cũng
có thần. Đạo giáo kết tạp mọi loại thần linh từ Trời, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, mây
mưa cho đến thần núi, thần sông, thần cây, thần đá và đủ thứ quỷ thần theo tín
ngưỡng dân gian và sắp xếp thành một phổ hệ nhhiều tầng lớp. Trong cái thế giới
mà tự nhiên, xã hội và con người là nhất thể, cùng nguồn gốc, cùng kết cấu, và
thông cảm lẫn nhau, thì uy lực của thần linh với con người không lớn. Không những
"mệnh ta do ta, không thuộc trời đất" (Tây thăng kinh) mà con người bằng bùa chú
có thể sai khiến cả thần linh làm theo ý mình. Trong cung quán của Đạo giáo, các
đạo sĩ cũng có phục sức riêng, cũng theo thanh quy, giới luật, cũng có nghi thức thờ
cúng – một phần quan trọng là theo Phật giáo – nhưng hướng tu luyện của đạo sĩ thì
hoặc là theo đuổi thuật phù chú, hoặc là theo đuổi thuật luyện đơn và nói chung là
rèn luyện thuật ăn uống, quả dục, khí công, võ thuật cho đến cả phòng trung thuật,
dùng đơn đỉnh – những phương thuốc bí truyền làm xương thịt giữ mãi sức sống –
Mục đích tu luyện của Đạo giáo là nhằm tăng sức mạnh do "khí, tinh và thần" làm
cho con người trường sinh, thành tiên và bất tử. Họ cũng có hình dung một "tiên
cảnh" rất hấp dẫn. Nhưng cõi tiên không phải ở ngoài thế giới (tuy thế giới không chỉ
chật hẹp là thế giới trước mắt mà Nho gia hình dung là nhà, nước và thiên hạ) và
cũng không phải chờ sau khi chết mới được biết đến.
Vào quãng thế kỷ thứ II, cuối đời Hán ở Trung Quốc đã đủ mặt Tam giáo : Nho, Đạo,
Phật. Ba tôn giáo khác nhau, tồn tại song song cho đến thế kỷ XX, không ngừng tác
động lẫn nhau, thấm vào nhau và gây ra những biến đổi trong từng tôn giáo.
2. Tam giáo tồn tại song song lúc đầu không phải dễ êm thấm. Tâm thức Trung
Hoa và tâm thức ấn Độ không giống nhau. Phật giáo không những xung khắc với Đạo
và Nho, những hệ tư tưởng bản địa mà để truyền bá được cũng phải dựa vào những
khái niệm, phạm trù của Đạo gia và Nho gia mới chuyển dịch được tư tưởng của
mình. Huyền học đã thúc đẩy Phật giáo Trung Quốc hoá. Nhà nước chuyên chế với ý
thức sử dụng tôn giáo để cai trị, đã trọng dụng cả Tam giáo. Nhân dân trong điều
kiện của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất tự túc theo hộ gia đình, cư trú theo họ,
theo làng, không dễ lìa bỏ những tín ngưỡng cổ sơ tin Trời, tin thần linh ma quỷ, tin
ở sự phù trợ của tổ tiên. Tiên, Phật cũng phải "thần" hoá cho phù hợp với họ. Sự
tranh chấp giữa Nho, Đạo với Phật và giữa Nho với Phật, Đạo cuối cùng dẫn đến
dung hợp để thích ứng với nhà nước chuyên chế và với tâm thức của cư dân nông
nhiệp, làng họ. Về mặt lý luận, tình hình đó dẫn tới tư tưởng "Tam giáo đồng
nguyên", "Tam giáo hợp nhất". Cuối cùng là sự hình thành Thiền tông trong Phật
giáo, Lý học và Tâm học trong Nho giáo.
3. Tam giáo không phải là đồng nguyên mà cũng không thể hợp nhất. Nhưng
xu hướng dung hợp thì lại là tất yếu. Khi Phật giáo mới được truyền bá, nó bị công
kích vì phá hoại trật tự : bất trung, bất hiếu, trái với tôn ty của xã hội. Dần dần, Phật
giáo và cả Đạo giáo đều thay đổi : khuyến khích trung hiếu và tôn trọng trật tự xã
hội. Người Trung Hoa vốn thiết thực, coi trọng hiện thế, không có nhiều hứng thú với
cái huyền bí, cõi siêu hình. Niết bàn của Phật và Tiên cảnh của đạo cũng hấp dẫn
nhưng quá xa vời, con đường đạt đến quá diệu vợi. Tiêu biểu cho xu hướng thiết
thực, trong hiện thế, tránh xa vời xu khoát chính là tư tưởng Nho giáo. Phật giáo và
Đạo giáo một mặt phải tôn trọng thể chế xã hội tổ chức theo Nho giáo (quân chủ
chuyên chế, làng xã, họ, gia đình), một mặt khác phải đi theo hướng thiết thực của
nó và chấp nhận nền luân lý Nho giáo (trung với vua, hiếu đễ trong gia đình, tôn
kính người trên trong xã hội, khắc kỷ giữ lễ,…). Về phương diện là một học thuyết
chính trị đạo đức, Nho giáo khi được đưa lên vị trí quốc giáo – ảnh hưởng đến chín
trị, tổ chức xã hội, giáo dục, học thuật, văn học nghệ thuật… Nhưng Nho giáo trong
quan niệm tầng lớp thống trị không chỉ là học thuật mà còn là một tôn giáo. Khi tiếp
nhận thêm tư tưởng Âm dương, Ngũ hành, Nho giáo quả đã tôn giáo hoá. Chính cái
Nho giáo vừa là học thuyết, vừa là tôn giáo đó đứng trong Tam giáo, chi phối sự phát
triển của Phật giáo và Đạo giáo. Cũng không phải chỉ là đơn tuyến chi phối. Nho giáo
cũng đã chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, không chỉ đi theo bàn các vấn đề
bản thể luận, quy luật, mà bàn cả các vấn đền Tâm, Tính, Lý, Thể, Dụng,… đưa Nho
giáo thành triết học, và đồng thời cũng có màu sắc tôn giáo đậm hơn. Lý thuyết tu
dưỡng của Tống Nho thực chất đã không xa cung cách tu hành của Phật Đạo. Nhưng
trong hành trình từ hai phía đến gặp nhau, thì Nho giáo, đại diện cho tâm thức Trung
Hoa là cái chính, cái chi phối. Từ cung cách kết hợp Tam giáo sau đời Tống, Nho giáo
vẫn nắm vị trí then chốt : chính trị, tổ chức xã hội, giáo dục, học thuật. Đạo giáo và
Phật giáo, tuy có lúc ảnh hưởng rộng trong nhân dân, vẫn chỉ là những tôn giáo
không có vị trí quyết định sự phát triển ảnh hưởng đến tầng sâu của văn hoá. Trong
tình hình như vậy, Nho, Phật, Đạo tồn tại song song, ít hiềm khích, phân công, phân