Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã (Luận ngữ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.44 KB, 3 trang )

Thầy Khổng (Khổng tử, húy là Khổng Khâu), người được cả và Thiên hạ tôn làm
THẦY, dạy rằng:
Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã (Luận ngữ)
Các cụ đồ xưa giảng : tri là “biết”, chi là “chưng”, vi là “làm”, bất là “không”, thị là
“ấy”, dã là “vậy”; cho nên câu trên có nghĩa là biết chưng làm biết chưng, không biết
làm không biết, ấy là biết vậy”.
Nếu trong đám học trò có đứa tối dạ nghe câu giảng này chẳng hiểu mô tê gì, thầy
đồ sẽ nói cho rõ thêm:
- Phải chi trò sáng dạ hơn chút đỉnh, trò phải hiểu ra rằng ý thầy Khổng nói:
“Biết thì lấy làm biết, không biết thì lấy làm không biết, ấy chính là biết vậy”
Tục ngữ của dân gian ta - tinh hoa của sự sáng dạ, cho ta một biến tấu khá chính
xác và tài tình :
Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.
Sự khác nhau giữa chủ đề và khúc biến tấu thứ nhất này, mà ta có thể tạm coi là cổ
xưa nhất, là ở chỗ khúc biến tấu có bổ sung một điểm quan trọng: đó là cái thái độ
mà người không biết phải có : thái độ im lặng để lắng nghe người khác nói. Nghe để
mà học, và học là để bớt dần cái khối lượng khổng lồ, vô biên bất tận, của những
điều mình không biết (Học dĩ dũ ngu -Học là để bớt ngu đi). Sở dĩ Khổng Khâu không
thấy cần nói rõ phần này ra, có lẽ là vì muốn cho cái công thức mà ông dùng để định
nghĩa thế nào là biết lộ ra thật rõ. Nếu viết bằng một thứ văn không hay lắm, nhưng
cận đại hơn, cái công thức định nghĩa ấy sẽ có dạng như sau (tạm gọi là biến tấu thứ
hai) :
Thế nào là Tri thức? Nội dung của Tri thức là biết được chính xác hai điều sau đây :
1. mình đã biết được những gì, và 2. mình còn chưa biết những gì.
Và nếu so sánh điều 1 với điều 2 một cách nghiêm túc, ai cũng sẽ thấy rằng những
điều mình biết được chỉ là hạt muối cỏn con, vô nghĩa lý, bỏ vào cái biển mênh mông
vô tận của những điều mình chưa biết.
Trong câu Học dĩ dũ ngu người đọc không thể không chú ý đến chữ dũ. Dũ là “bớt”,
“giảm”, “đỡ” chứ không phải là “hết”, “khỏi”, vì một khi cái chưa biết đã là mênh
mông vô tận, thì làm sao có thể, dù chỉ trong tưởng tượng mà thôi, làm cho nó “hết”
đi được? Không những thế, mà thậm chí cái phần chưa biết ấy, ta cũng không thể


biết nó gồm có những gì, dù sức tưởng tượng của ta có phong phú đến đâu chăng
nữa, chứ đừng nói gì đến cái ý đồ tìm cách thủ tiêu nó. Nếu có ai, trong một giây
phút rồ dại nào đấy, thấy trong trí này ra cái ý đồ này, thì người đó có thể biết chắc
rằng mình đã hoá điên.
Thế nhưng số người ấy hình như lại khá đông đúc, nhất là trong giới trí thức, thế giới
của những bậc thiên tài (hay tự thấy mình là thiên tài). Âu cũng chẳng có gì là lạ, vì
người điên với bậc thiên tài nhiều khi suy nghĩ hết sức giống nhau.
Cho nên cái vế sau của câu danh ngôn của Khổng Tử quan trọng hơn và khó thực
hiện hơn vế trước rất nhiều.
Gần đây, trong mục Diễn đàn của các nhà khoa học, tuần báo Văn nghệ có đăng hai
bài báo rất hay, một của Đỗ Kiên Cường (ĐKC), nhan đề là Giới hạn của Nhận
thức (VN số Tết Quý Mùi, tr.44), một của Phạm Việt Hưng (PVH), nhan đề là Bất
Khả (VN số 15 (12-4-2003), tr. 15). Quan niệm của hai tác giả này trong khi bàn về
những vấn đề tri thức luận trong ngành toán học và trong khoa học nói chung, chúng
tôi hoàn toàn tán thành, và có lẽ nếu Khổng tử có đọc hai bài này, chắc người cũng
đồng tình không kém.
Nhưng câu nói của Khổng tử lại được hai tác giả trích dẫn dưới dạng sau đây:
1. (bài của ĐKC): Biết cái không biết chính là biết vậy.
2. (bài của PVH): Biết cái không biết, ấy là biết.
Chúng tôi xin mạn phép gọi chung hai câu trích dẫn này là biến tấu thứ ba trên chủ
đề của Khổng phu tử, vì hai câu đó chỉ khác nhau ở một dấu phẩy và ở hai hư từ ấy,
vậy, 1 nếu không kể chữ chính làm cho câu của ĐKC có phần quả quyết hơn câu của
PVH một chút.
Ta thấy phần đầu của câu “chủ đề” bị hai tác giả gạt đi, không rõ vì lý do gì (có lẽ họ
không tán thành phần này, hoặc cho rằng nó không hay bằng phần sau chăng).
Nhưng ngay cái phần sau này cũng được hai tác giả sửa lại một cách không thương
tiếc, hay nói cho đúng hơn, được họ thay hẳn bằng một câu có nghĩa hoàn toàn
ngược lại : Bất tri vi bất tri vốn có nghĩa là “không biết thì nhận là không biết” được
họ chuyển thành biết cái không biết. Và phần này, nối với phần sau : ấy (chính) là
biết vậy, sau khi đã khử cái phần đầu là tri chi vi tri chi đi, làm thành một nhận định

độc đáo không tiền khoáng hậu mà người trần, dù có là bậc đại hiền như Khổng tử,
cũng không thể nào tưởng tượng được.
Để diễn đạt cái ý bất hủ này, tiếng Hán thời Khổng tử phải viết “Tri sở bất tri, thị tri
dã”, chứ không phải là bất tri vi bất tri, thị tri dã. Như vậy, khúc biến tấu thứ ba này
chính là một nghịch đề đối với cái chủ đề của Khổng tử.
Nhưng “Biết cái không biết” (“tri sở bất tri”) nghĩa là gì? Đây là một nhận định
(statement), một tiểu cú (clause) làm chủ ngữ cho mệnh đề sau (thị tri dã) chăng?
Hay chỉ là một lời khuyên hay một mục tiêu để tìm đến? Trong câu nguyên văn (được
phục nguyên) cũng như trong câu dịch ra tiếng Việt không thấy có vị từ tình thái
(modal verb) nào cho phép hiểu theo hai cách sau. Và nếu vậy, phải chăng ý của tác
giả là “phải biết cái mà mình không biết được mới gọi là biết”?
Nhưng trong tất cả những lời dạy của Khổng tử xưa nay chưa từng có một ý nào
tương tự như vậy, dù là một cách gián tiếp và xa xôi đi nữa. Ngược lại, người bao giờ
cũng tránh rất xa cái “sở bất tri”, tức lãnh vực siêu hình học, mà người nói một cách
hoàn toàn hiển ngôn là nên “kính nhi viễn chi” (cf. Luận ngữ: Vụ dân chi nghĩa, kính
quỷ thần nhi viễn chi, khả vị trí hỉ -” Vì dân chuyên làm việc nghĩa, tôn trọng quỷ
thần nhưng tránh xa nó ra, thì có thể nói là có trí vậy”). Lĩnh vực siêu hình bị Khổng
tử loại hẳn ra khỏi cái HỌC của người. Và chính câuTri chi vi tri chi … là một trong
những tuyên ngôn dứt khoát nhất của Khổng tử nói rõ thái độ này của người và của
toàn thể môn phái đối với thế giới siêu hình. Ai đã từng tìm hiểu đạo Khổng ít nhiều
đều lý giải câu này như một lời khuyên:
Không nên bàn tới những điều mà ta không biết là không thể biết.
Đây có thể coi là một khúc biến tấu thứ tư của cái “chủ đề” nói trên. Nó hoàn toàn
trái với cách hiểu và dịch của hai tác giả DKC và PVH, tuy hai vị đều có một quan
điểm nhận thức luận và giáo dục học mà theo cách hiểu nông cạn của chúng tôi là
hoàn toàn nhất trí với Khổng tử. Thế nhưng câu nguyên văn của Khổng tử lại bị chính
họ hiểu thành một cái gì như:
(Tri sở tri, thị bất tri dã, nhi) tri sở bất tri, thị tri dã
có nghĩa là : “biết cái gì mình biết, ấy là không biết, còn biết cái gì mình không biết,
ấy mới thật là biết” (“biến tấu thứ năm”) - một nhận định hoàn toàn trái ngược với

quan điểm của chính họ. Cả bài báo của PVH chỉ là một lời thuyết minh xuất sắc,
được ứng dụng cho giáo dục học một cách chí lý, cho quan điểm của J. Barrow trong
cuốn Impossibitity. The limits of Science and the Science of Limits mà chúng tôi xin
tạm dịch là “Tính bất khả. Giới hạn của Tri thức và Tri thức về Giới hạn”.Tôi xin thú
thật là đọc cái đầu đề này, tôi không cưỡng được cái cảm giác đây chính là khúc biến
tấu thứ sáu, và là một trong những khúc biến tấu hay nhất, của cái chủ đề mà Khổng
tử đã lập thức một cách tối giản và tối ưu như vậy.
Còn khúc biến tấu thứ năm trên kia, vì hoàn toàn trái ngược với ý của Khổng tử, của
J. Barrow. của PVH, ĐKC và cả của lương thức (common sense) nữa, cho nên tất
nhiên phải kéo theo một loạt phản ứng tự phát dưới dạng những khúc biến tấu khác
phản bác nó một cách có sức thuyết phục hơn nhiều, chẳng hạn như:
Nhận rằng mình biết cái gì mình biết, ấy là biết thật, còn tưởng rằng mình biết cái
mà mình không biết và không thể biết, ấy là tự lừa dối mình và lừa dối người khác
vậy.
Khúc biến tấu thứ bảy này hoàn toàn nhất trí với tinh thần hai bài báo của ĐKC và
PVH - xin nhắc lại rằng đó là hai bài rất hay và rất bổ ích đối với độc giả, trong đó có
bản thân tôi, một người không chuyên về toán học, đã học được rất nhiều khi đọc hai
bài đó. Chỉ riêng đối với cách dịch câu danh ngôn của Khổng tử, may ra mới có thể
ứng dụng khúc biến tấu này mà tôi, một người làm phiên dịch chuyên nghiệp, chính
vì ngưỡng mộ hai tác giả, thấy cần nêu lên để góp phần chỉnh lý một chi tiết rất nhỏ
nhưng lại có thể phương hại đến phẩm chất của hai áng văn hay nói trên.

×