Mạnh Tử là ai?
MẠNH TỬ
372 – 289 TR. tl
1- Thời đại Mạnh-tử
Sau khi Khổng-tử qua đời (479 tr.TL), bảy chục môn đệ phân tán, đem Khổng học đi thuyết
phục từ vua chư hầu nầy đến vua chư hầu khác. Một số người tài giỏi được mời làm cố vấn,
thượng thư. Những người quan trọng khác trở thành thân tín, thầy học các đại thần, số còn
lại bỏ đi ở ẩn biệt tích luôn, không ai gặp lại. Trong thời gian gọi là Chiến Quốc nầy (453-
221 tr.TL), các nước chư hầu khắp nơi gây hấn đánh nhau, chiến tranh loạn lạc. Khổng giáo
suy vi, chỉ có trong hai nước Tề và Lỗ truyền thống bác học còn duy trì được. Dưới thời các
vua Vệ (357-320 tr. TL) và vua Tề Tuyên vương (319-301 tr. TL) có hai Nho gia là Mạnh-tử
và Tuân-tử 6 tiếp tục nghiên cứu nối chí Khổng-tử, được người đương thời hâm mộ. Mạnh-tử
nhận xét thời cuộc lúc bấy giờ rằng: «Mãi đến nay, chẳng có bậc Thánh vương ra đời, các
vua chư hầu thì luông tuồng, hàng trí thức thì mạnh ai nấy bàn ngang luận càn, học thuyết
của Dương Châu 7 và Mặc Địch 8 lan tràn khắp thiên hạ. Thiên hạ nói năng bàn bạc, nếu
không xu hương theo họ Dương thì cũng theo về họ Mặc. Phái họ Dương chỉ chấp lấy mình
mà thôi, đó là phái không vua. Phái họ Mặc thương tất cả mọi người như nhau, đó là phái
không cha. Không vua, không cha, đó là cầm thú vậy» (MT, Đằng Văn công, hạ t. 9).
Mạnh-tử suốt đời ôm ấp chí nguyện kếâ nghiệp Khổng-tử để phát huy Nho giáo: «Thời xưa
ông Vũ dẹp nạn hồng thủy mà thiên hạ bình, ông Chu công thu phục di địch, đuổi loài mãnh
thú mà trăm họ yên, đức Khổng-tử viết xong Kinh Xuân thu mà loạn thần, tặc tử sợ... Nay
ta cũng muốn sửa chính lòng người, ngăn chận tà thuyết, chống cự nết xấu, diệt trừ lời
dâm, để nối nghiệp ba đấng thánh đó. Ta há thích tranh luận đâu ? Chẳng qua bất đắc dĩ mà
thôi.» (MT, Đằng Văn công, hạ t.9).
Tiểu sử của Mạnh-tử
Mạnh-tử họ Mạnh, tên Kha, sinh năm thứ 4 đời Chu Uy Liệt vương, (200 năm sau Khổng-
tử), mất năm thứ 26 đời Chu Nản vương, thọ 84 tuổi. Tổ tiên dòng dõi của Mạnh Tôn, họ
vua nước Lỗ, sau dời sang nước Trâu, nên Mạnh-tử là người nước Trâu, (nay là huyện Trâu,
tỉnh Sơn Đông), một nước nhỏ gần nước Lổ, quê của Khổng tử. Tương truyền cha có tên là
Kích hay Liệu, tự là Công Nghi, mẹ họ Chương hoặc Lý. Phụ thân mất năm Mạnh-tử mới 3
tuổi, việc nuôi dạy ông do bà mẹ đảm đương một cách rất chu đáo. Bà dời nhà ba lần để
chọn chỗ có láng giềng tốt cho con bắt chước. Mạnh-tử đang đọc sách, chợt ngừng không
đọc nữa, Mẹ thấy thế liền lấy dao cắt đứt tấm vải đang dệt, bảo rằng : «Con lơ là việc học
cũng giống mẹ cắt đứt tấm vải nầy « Từ đó Mạnh-tử trở nên siêng học. Cũng tương truyền
một hôm Mạnh-tử thấy vợ ngồi mình trần trong phòng, liền nặng nề trách vợï vô lễ, muốn
bỏ. Bà mẹ nói : «Theo phép tu thân, khi qua phòng phải nói lớn tiếng để báo trước, khi vào
phòng phải nhìn xuống để không tỏ ý muốn trông thấy lỗi lầm người khác. Như vậy là chính
con phạm lỗi, tại sao còn trách vợ». Mạnh-tử liền nhận lỗi và bỏ ý định ly dị vợ.
Khi trưởng thành, Mạnh-tử thụ giáo với môn nhân của Tử Tư là cháu của Khổng-tử, Tử Tử lại
thụ giáo với Tăng-tử học trò của Khổng-tử. Vào khoảng 40 tuổi, Mạnh-tử có làm quan với
vua Trâu Mục công, nhưng thấy không được trọng dụng nên rời Trâu sang Tề. Được vua Tề
mời hội kiến, ông cố thuyết phục vua thi hành nhân chính. Tin tưởng rằng nước Tề đất rộng,
người nhiều, vua không phải là người không tốt, Mạnh-tử có ý định ở lại, mong có dịp thi
thố tài năng. Chẳng may Mạnh mẫu từ trần, ông phải về Lỗ cư tang 3 năm. Khi trở về Tề thì
ông đã ngoài 50 tuổi. Thấy Tề Tuyên vương trễ nải triều chính, ông từ chức khách khanh,
trở về Trâu. Ít lâu, ông sang nước Tống, nhưng cũng không đắc chí. Nghe nói vua Lương
Huệ vương đang chiêu hiền nạp sĩ, ông có ý định trở về Trâu rồi sang Lương. Đằng Văn công
khi còn là thế tử từng quen biết Mạnh-tử tại Tống, lúc làm vua liền mời sang Đằng. Nhận
thấy Đằng là một nước nhỏ, lại luôn bị hai nước Tề, Sở uy hiếp, không phải là nơi khả dĩ
hành đạo, Mạnh-tử liền sang Lương. Lúc nầy ông đã 60 tuổi. Lương Huệ vương tuy rất kính
trọng Mạnh-tử, nhưng cho thuyết nhân nghĩa của ông là vu khoát, khó thi hành. Huệ vương
mất, Tương vương nối ngôi. Sau một lần hội kiến, Mạnh-tử biết cũng không thể làm gì được
nữa, liền trở về Trâu. Rồiù sang Lỗ gặp vua Lỗ Bình công, nhưng bị kẻ tiểâu nhân là Tang
Thương ngăn trở, nên không được dùng, ông quyết định về ở hẳn tại quê nhà.
Lúc nầy ông được 70 tuổi, Mạnh-tử cùng các đệ tử Vạn Chương, Công Tôn Sửu làm công
việc trước tác, có để lại sách Mạnh-tử gồm 7 thiên. Ngoài ra còn có Ngoại thư gồm 4 thiên là
Tính Thiện, Biện văn, Thuyết Hiếu kinh và Vi chính. Nhưng theo Triệu Kỳ đời Hán, 4 thiên đó
là của người sau mô phỏng mà làm ra. Những bản Mạnh-tử truyền lại đến nay đều căn cứ
vào bản họ Triệu, còn 4 thiên Ngoại thư bị thất truyền.
Sách Mạnh-tử
Sách Mạnh-tử ghi chép việc Mạnh-tử du lịch các nước và lời đối đáp của ông với các vua chư
hầu cùng ngưòi đương thời, gồm có 7 thiên, Lương Huệ vương, Công Tôn Sửu, Đằng Văn
công, Ly Lâu, Vạn Chương, Cáo-tử, Tận Tâm. Mỗi thiên chia làm hai phần thượng và hạ. Chu
Hi đời Tống xếp sách Mạnh-tử cùng với Luận Ngữ, Đại học và Trung Dung làm Tứ Thư.
2. Học thuyết của Mạnh-tử
Điễm chính của học thuyết của Mạnh-tử là chủ trương «tính thiện», phản đối các chủ trương
«tính ác» của Tuân Tử, «kiêm ái» của Mạc Địch, và «vị kỷ» của Dương Chu, để đề xướng
chính sách Nhân Nghĩa. Tại sao phải ngăn chận các thuyết Tuân, Mặc, Chu ? Vì các tính ấy
trái với bản tính con người. Tại sao nên thi hành nhân nghĩa ? Vì nhân nghĩa nằm sẵn trong
nhân tính, chỉ cần biết làm cho khuyếch trương, sung mãn là đem lại hiệu quả tốt.
a-Tính Thiện - Tồn tâm
Mạnh-tử cho rằng loài ngươiø bản tính thiện do trời sinh ra. Phàm những giống đồng loại
đều mang một bản chất giống nhau. Tại sao đối với con người, ta lại nghi ngờ về điểm ấy ?
Các bậc thánh nhân và chúng ta đều đồng loại, cho nên Long-tử nói rằng : «Dù không biết
ni tấc của bàn chân mà đan dép rơm, ta cũng biết chắc rằng không thể nào có thể biến
thành cái giỏ». Những chiếc dép đồng dạng với nhau, vì các bàn chân của người trong thiên
hạ đều giống nhau... (Cáûo tử,thg t.7). Và tâm mọi người đều giống nhau, đều có mối thiện
đoan (đầu mối thiện), trong đó có cái gọi là lương tri, việc không suy nghĩ mà biết được, và
lương năng việc không học mà làm được (MT, Tận Tâm thg t. 15) . Khi có dịp kích thích là
phát ra ngay, không cần phải đợi giáo dục. Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn đối với kẻ
khác... Một số người thấy một đứa bé sắp té xuống giếng, họ đều động lòng trắc ẩn... kẻ
nào không có lòng trắc ẩn chẳng phải là người, kẻ nào không có lòng hổ thẹn chẳng phải là
người, kẻ nào không có lòng từ nhượng chẳng phải là người, kẻ nào không có lòng phải trái
chẳng phải là người. Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân. Lòng hổ thẹn là đầu mối của nghĩa.
Lòng từ nhượng là đầu mối của lễ. Lòng phải trái là đầu mối của trí. Con người có đủ bốn
đầu mối nhân, nghĩa, lễ, trí chẳng khác nào thân thể có tứ chi. (MT, Công Tôn Sửu, thg t.
7). Mạnh-tử cho rằng tính người vốn thiện và có sẵn các đầu mối của nhân, nghĩa, lễ, trí,
vậy phải « tồn tâm » nghĩa là giữ tâm cho trong sạch, khỏi bị tư dục làm mờ ám.
Tính thiện con người ví như tính của nước vốn luôn luôn chảy xuống thấp. Người không bao
giờ bất thiện, nước không bao giờ không chảy xuống. Nay dùng áp lực đè xuống, ắt nước sẽ
vọt lên khỏi trán ; dùng cách ngăn chận lại, nước sẽ dâng lên đến núi. Đó há là tính của
nước ư ? Vì theo cái thế mà phải như vậy. Con người nếu buộc làm điều bất thiện, thì cái
tính của họ cũng phản ứng tương tự. (MT, Cáo tử, thg t.2) Tuy vậy hoàn cảnh xung quanh
có ảnh hưởng đến cá nhân (hợp với phong tràò sinh vật tiến hóa luận ngày nay). Nhưng nếu
có người tự bỏ phế cái khả năng tính hướng thiện của mình thì tất cả đều hỏng. Kẻ tự làm
hư hại mình thì không thể ngồi nói chuyện với họ; kẻ tự bỏ phế mình thì không thể cọng tác
với họ. Lời mà không hợp vơiù lễ nghĩa gọi là tự làm hư hại. Bản thân của mình không thể ở
theo điều nhân nghĩa, gọi là tự bỏ phế. (MT, Ly Lâu, thg t.10).
b- Chủ nghĩa bình đẳng
Mạnh-tử rất tin tính người vốn thiện, lại cho rằng mọi người đều có đủ lương tri và lương
năng, mọi «thiện đoan», nên ông nói : Vạn vật đều đầy đủ trong con người. Nếu Nho học
của Đại học và của Trung Dung đề cao địa vị con người, thì đến Mạnh-tử vấn đề quyền của
con người được ông xem là quan trọng. Vì xem nhân cách con người là quan trọng như thế,
và vì tin vào nhân tính toàn thiện, Mạnh-tử nêu lên «chủ nghĩa bình đẳng». Ông nói : «
Thánh nhân dữ ngã đồng loại giả » Thánh nhân đồng loại với chúng ta. Vua Nghiêu và vua
Thuấn cũng giống như mọi người thôi, ta cũng là người, nếu cố gắng thì ta cũng như Ngài.
(MT, Cáo Tử, thg t.7)
Trong phạm vi chính trị, chủ trương của Mạnh-tử thiên về dân quyền: «Dân vi quí, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh» (Dân là quí nhất, rồi đến xã tắc, bậc vua chúa không quan trọng)
(MT, Tận Tâm hạ, tiết 14). Dân vi quí, nên Mạnh-tử khuyên các vua không nên làm chậm trễ
công việc làm ăn của dân... Theo Mạnh-tử, nếu «dân thường có của cải bền vững thì có lòng
dạ vững bền, nếu họ không có của cải bền vững thì họ trở nên buông lung, tà vạy, xa xỉ,
chẳng có việc ác nào mà chẳng dám làm. Đến khi họ vướng vào vòng tù tội, nhà cầm quyền
cứ chiếu luật pháp mà hành hình họ. Đó là nhà cầm quyền bủa lưới dân. Nếu có một bậc
nhân đức ngự trên ngôi vị, bậc ấy há nỡ lòng nào bủa lưới dân sao ? Vậy nên bậc vua hiền
thì giữ mình khiêm cung, ăn xài tiết kiệm, có lễ độ với kẻ bề tôi, và lấy thuế dân có chừng
mực». (MT, Đằng Văn công thg t.3)
Mạnh Tử đã từng nói thẳng với Tề Tuyên Vương rằng: «Vua mà coi tôi như tay chân, ắt tôi
sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi tôi như chó ngựa, ắt tôi sẽ coi vua như kẻ qua đường.
Vua mà coi tôi như bùn rác, ắt tôi sẽ coi vua như kẻ cướp, kẻ thù» (MT, Ly Lâu hạ, tiết 3).
Về vấn đề tôi giết vua, Tề Tuyên Vương chất vấn Mạnh Tử: « Thành Thang đuổi vua Kiệt, Võ
Vương đánh vua Trụ, có thật như vậy chăng?» Mạnh Tử đáp: «Trong sử sách có chép như
vậy.» Tuyên Vương hỏi tiếp: «Bề tôi mà giết vua có nên chăng?» Mạnh Tử đáp rằng: «Kẻ
làm hại đức nhân, gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là
người thường mà thôi. Tôi từng nghe vua Võ Vương giết một người thường là Trụ, chớ tôi
chưa hề nghe giết vua» (MT, Lương Huệ Vương hạ, Rỗi Mạnh-tử có lần nói toạc ra : «Tru kỳ
quân, điếu kỳ dân. Như thì vũ giáng, dân đại duyệt», Giết vua cứu dân, bá tánh mừng rỡ
như mưa tuôn phải lúc (MT, Đằng Văn công, hạ t.5).
[Xưa vua Kiệt, vua Trụ vì hoang dâm vô đạo, không làm tròn sứ mạng trị quốc an dân Trời
giao phó cho, Trời thu hồi sứ mệnh lại. Thành Thang đứng lên giết vua Kiệt, Võ Vương đứng
lên diệt vua Trụ. Tư Mã Thiên, sử gia Trung Hoa, gọi đó là cách mệnh (cách: lột bỏ; mệnh:
sứ mệnh)].
c- Khí hạo nhiên
Trượng phu - Mạnh-tử cho rằng : Chí khí là tâm trí và khí lực của con người có liên quan với
nhau. Chí là cao vọng, lòng mong muốn và hành động bền bỉ của con người, khí là sức
mạnh vô hình, hùng hậu tự nhiên, là cái khí hạo nhiên Trời phú cho con người. Các bậc
chánh trực, đạo đức, chí sĩ, biết lấy sự ngay thẳng mà nuôi dưỡng, nên phát hiện được cái
khí hạo nhiên tiềm ẩn Trời phú cho mọi người (MT, Công Tôn Sửu, thg t.2).
Mạnh-tử đưa ra một mẫu người trượng phu, đó là một kẻ sĩ, một người quân tử có nhân
cách thanh cao, làm được phần nào đức Nhân, mà lại có thêm sức mạnh của khí hạo nhiên
nữa, nên thấy kẻ khác nguy nan, thì can đảm liều thân cứu giúp, thấy món lợi thì nhớ đến
việc Nghĩa.
«Ở nơi rộng lớn nhất trong thiên hạ, đứng chỗ chính đáng nhất trong thiên hạ, đi con đường
lớn nhất trong thiên hạ ; lúc đắc chí thì cùng dân hợp sức hành đạo, lúc không đắc chí thì tự
đi theo con đường của mình. Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất : Giàu có không làm cho hoang dâm, nghèo khó không làm cho đổi chí, uy vũ không
làm cho khuất phục, đó mới là bậc đại trượng phu ».
d- Xuất xử - Tùy thời quyền biến
Về xuất xử, theo Mạnh-tử nhận xét : «Ông Bá Di, vua chẳng đáng thờ thì chẳng thờ, dân
chẳng đáng trị thì chẳng trị. Trái lại, ông Y Doãn cho rằng vua nào chẳng phải là vua mình
phục sự được? dân nào chẳng phải là dân mình sai khiến được ? Trời vốn sanh ta là người
trong bậc tiên giác, ta phải theo đạo lý của ta mà giác ngộ cho dân chúng, nếu để dân khốn
khổ là trách nhiệm của mình. Vậy, Y Doãn là bậc thánh có «đức trọng nhiệm». Cái trách
nhiệm mình đứng ra gánh vác thiên hạ nặng nề như thế! Còn ông Huệ xứ Liễu Hạ chẳng lấy
làm xấu hổ mà phục sự một vua ô trược. Dẫu làm một chức quan nhỏ thấp, ông cũng chẳng
chê. Ba ông tuy đi khác đường với nhau, nhưng mục đích vẫn là một. Đó là nói về lòng Nhân
vậy. Người quân tử chỉ chú mục điều nhân mà thôi. Còn về hành động cần chi phải giống
nhau. (MT, Cáo Tử, ha. t.6).
Để giải thích hành động của Y Doãn, Mạnh-tử nói : Nếu không nhận định để phân biệt được
điều lớn điều nhỏ, điều quan trọng điều thứ yếu, thì khiến ta cho « dĩ tiểu dịch đại» : dùng
cái nhỏ bỏ cái lớùn (Lương Huệ Vương Thg t. 7). Trái lại, Y Doãn không câu nệ thành kiến
việc làm quan với bạo chúa (điều không quan trọng lắm) mà ra làm quan để thực hiện chữ
Nhân (điều rất quan trọng) là biết chấp trung quyền biến. Mạnh-tử còn bàn rõ thêm : «Tử
Mạc, một bậc hiền nhân nước Lỗ, giữ chủ nghĩa «chấp trung». Chấp trung gần với đạo lý.
Nhưng nếu chấp trung mà chẳng biết quyền biến (không biết tùy nghi mà hành động cho
hợp thờøi) như vậy cũng như chấp nhất (tức là khư khư câu nệ một bề mà thôi). Ta sở dĩ
chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến thiên lệch làm hại đạo lý. Kẻ hành động
theo một bề thì bỏ hỏng cả trăm bề. (MT, Tận Tâm thg t.26).
Thuần Vu Khôn (một nhà biện thuyết nước Tề) hỏi : «Theo lễ giáo, nam nữ thụ thụ bất
thân, nay chị dâu đang chớùi với dưới nước, ta có đưa tay cứu vớt không ?» Mạnh-tử trả
lời : «Thấy chị dâu sắp chết đuối mà không cứu thì không phải là người. Đưa tay ra cứu là
phép quyền biến vậy. (MT, Ly Lâu thg, t.17)
Nhưng không phải ai cũng đủ tài trí, khả năng như Y Doãn, Quản Trọng, thời vua vô đạo mà
ra làm quan để cảm hóa hôn bạo quân, cầm quyền, cứu nước giúp dân được. Hay cuối cùng,
nếu không bị tù đày làm nô lệ như Cơ Tử, bị thảm sát như Tử Can đời Trụ Vương, thì cũng bị
cưỡng ép làm tay sai của bạo chúa để sát hại dân lành, mà Mạnh-tử gọi bọn tay sai ấy là
dân tặc nghĩa là giặc cướp dân. Mạnh-tử bảo : «Những người thờ vua đời nay đều nói rằng :
«Tôi có thể giúp vua mở mang ruộng đất và làm cho kho tàng nhà vua được đầy đủ». Đời
nay người ta khen là lương thần, đời xưa người ta chê là dân tặc. Nếu nhà vua không qui
hướng theo đạo đức, chẳng lập chí làm Nhân, mà mình ra làm việc, tức là tìm cách làm giàu
cho một người tên là Kiệt vậy». (MT, Tận Tâm thg t.26).
Nói một cách đơn giản hơn, nếu nhà cầm quyền bạo ngược mà mình ra cọng tác (hay để
cho bị ép ra cọng tác) tức là đồng phạm trong việc sát hại dân chúng. Vì vậy khi nói đến
việc chấp trung quyền biến (như trường hợp Y Doãn, Quản Trọng), Mạnh-tử đã cân nhắc kỹ
danh từ mà viết rõ «chấp trung vi CẬN chi » nghĩa là «chủ trương chấp trung GẦN với đạo lý
» mà thôi, chớ chưa phải thật sự là đạo lý đúng với danh vị ấy.
Khổng-tử và Mạnh-tử
a.- Cùng một sứ mạng giáo hóa
Ở thời loạn lạc như Xuân thu Chiến quốc, người ta thường nghĩ rằng một hành động đạo đức
và không vụ lợi như các nhà Khổng Nho chỉ có thể bắt nguồn từ một ý tưởng điên rồ mà
thôi. Mạnh-tử đơn thương độc mã đứng ra biện hộï cho học thuyết nhân bản cao thượng của
Khổng-tử, một học thuyết mà người thời ấyï cho là không tưởng. Mạnh-tử cũng «biết rằng
công việc của mình làm chẳng hợp vơiù thời thế, mà vẫn cứ làm mãi», như lời viên quan giữ
cửa ải quan Thạch môn nước Tề ngày xưa, đã phê bình Khổng-tử với thầy Tử Lộ (LN, XIV
Hiến Văn t. 41). Bình sinh Mạnh-tử vẫn tự hào là nối chí Khổng-tử trong sứ mạng dùng đức
Nhân mà giáo hóa người đời để làm cho xã hội được chỉnh đốn, thanh bình, và dân chúng