Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.3 KB, 8 trang )
Bàn về bản chất của nội dung phản ánh
ở các tài khoản dự phòng
Trong hệ thống tài khoản kế toán ban hành theo Quyết định số
15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006, có hai loại tài khoản (TK) phản
ánh các khoản dự phòng mà việc ghi tăng các khoản dự phòng
này đều dãn đến việc ghi nhận một khoản chi phí: các TK thuộc
loại TK phản ánh tài sản có chữ số tận cùng là 9 (TK 129, 139,
159, 229); và các TK thuộc loại TK phản nợ phải trả có 2 chữ số
đầu là 35 (TK 351, 352). Bài viết này nhằm làm rõ bản chất của
nội dung được phản ánh ở các loại TK dự phòng này.
Các khoản dự phòng được ghi nhận ở các TK 129, 139, 159, 229
là kết quả của việc lập dự phòng rủi ro về sự giảm giá trị của các
loại tài sản như: đầu tư tài chính, nợ phải thu, và hàng tồn kho.
Việc lập dự phòng rủi ro giảm giá trị tài sản nhằm tuân thủ
nguyên tắc "thận trọng" được quy định ở VAS 01 "Chuẩn mực kế
toán chung". Theo đó, khi giá trị có thể thu hồi của một tài sản
thấp hơn giá gốc của tài sản đó thì cần điều chỉnh giảm giá trị tài
sản ngang bằng với giá trị có thể thu hồi. Chế độ kế toán Việt
Nam quy định xử lý lập dự phòng rủi ro giảm gía trị tài sản bằng
cách ghi nhận khoản giảm giá trị của tài sản vào bên Có của các
TK dự phòng và ghi tăng chi phí kinh doanh trong kỳ. Như vậy,
thực chất các TK 129, 139, 159, 229 phản ánh giá trị tài sản bị
giảm và điều chỉnh giảm giá gốc của các tài sản được lập dự
phòng.
Các khoản dự phòng được phản ánh ở nhóm TK 35X là dự
phòng chi phí, bao gồm: quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm và
dự phòng phải trả. Dự phòng chi phí là nguồn vốn dùng để tài trợ
cho các khoản chi phí doanh nghiệp sẽ phải chi trong tương lai và
được hình thành bằng cách trích trước vào chi phí sản xuất kinh
doanh hàng kỳ một khoản chi phí nhất định. Khác với dự phòng
rủi ro giảm giá trị tài sản, dự phòng chi phí không chỉ nhằm tuân