Lễ nghĩa trong nền đạo đức Khổng Mạnh
LỄ NGHĨA TRONG NỀN ĐẠO ĐỨC KHỔNG MẠNH
1. Đặt Lại Vấn Đề - Vai trò của Lễ Nghĩa.
Luận văn sau đây nhắm tìm hiểu vai trò của của lễ nghĩa trong nền đạo đức Khổng Mạnh.
Chúng tôi đặc biệt chú ý tới vai trò của lễ nghĩa vì nhiều lý do, trong đó có một lý do rất
quan trọng, đó là vai trò của lễ nghĩa đã hòa lẫn vào trong huyết quản của người Việt. Quá
sâu đậm đến độ văn hóa, cách thẩm định giá trị của người Việt không thể tách rời khỏi quan
niệm lễ và nghĩa. Nhưng cũng vì gốc rễ nó đâm sâu gắn chặt vào cuộc sống, nên cái lễ cũng
là một trở ngại khiến xã hội Việt không dễ tiến bộ. Sự quá trọng nghi lễ đến độ nô lệ vào
hình thức cuả nghi mà quên đi tinh thần của lễ, đã làm xã hội đông phương nói chung, và
xã hội Việt nói riêng trì trệ. Cái tính nệ nghi thức không chỉ khiến con người viễn đông thiếu
suy tư và thụ động, nó còn bóp nghẹt tình cảm con người. Và đây là cái cớ khiến nhóm trí
thức theo Tây phương đã kịch liệt đả phá lễ nghĩa Nho giáo.[1]
Luận văn của chúng tôi không chối bỏ công lao của những người từng phá núi đắp sông,
biến bãi biển thành ruộng dâu trong lãnh vực văn hóa, những bậc đại nho đã từng gây dựng
nền văn hóa dân tộc. Chúng tôi củng không phủ định những đóng góp của những người phê
bình Nho giáo. Những vị sau đã nhìn ra sự nguy hại của tinh thần lệ lễ, tình trạng chậm
chạp vì quá trọng hình thức và sự thiếu suy tư vì quá nô lệ vào những lễ nghi, những tập
tục. Đi xa hơn, qua luận văn này, chúng tôi theo một cái nhìn khách quan, tìm cách đào sâu,
tìm hiểu thêm tinh thần của lễ nghĩa. Tuy nhắm khôi phục tinh thần lễ nghĩa, chúng tôi cũng
ý thức được cái ma lực của lễ, và do đó cùng lúc muốn phá bỏ huyền thoại quá lệ thuộc vào
nghi lễ mà những nhà hủ nho từng khư khư ôm vào. Qua công việc khôi phục lại cái địa vị
vốn có của lễ nghĩa, luận văn này tiếp tục chương trình đào bới lại cái giá trị của nền đạo
nghĩa Việt mà chúng tôi đã bắt đầu vào những năm gần đây.[2] Luận văn gồm hai phần
chính: phần thứ nhất tìm hiểu chữ lễ trong văn bản của Nho học, đặc biệt trong Luận Ngữ,
Mạnh Tử, Lễ Ký, và phần nào đó trong tư tưởng của Tuân Tử; phần thứ hai đi xa hơn, nhắm
khơi quật và đào sâu tư tưởng Việt qua việc phân tích và nhận định sự biến chuyển từ quan
niệm lễ trong triết học Trung Hoa tới cách sống theo lễ trong cuộc sống của người Việt.
Chúng tôi đặc biệt tìm hiểu sự liên quan mật thiết giữa chữ lễ và chữ nghĩa, một đặc điểm
mà ta thấy ít có (hay hiếm hoi) trong lối tư duy của người phương Bắc. Mạnh Tử đã từng
nhấn mạnh tới nhân nghĩa, và phần nào đó lễ nghĩa,[3] nhưng chỉ nơi Việt Nho, chúng ta
mới thấy tầm quan trọng của nghĩa.[4] Nếu những nhận xét của các học giả như cố Giáo sư
Trần Đình Hượu, các Giáo sư Trần Quốc Vượng và Phan Đại Doãn tại Đại Học Khoa Học Xã
Hội Nhân Văn Hà Nội có căn bản, thì đối với các nho gia Việt, và ngay cả giới bình dân Việt,
lễ nghĩa mới thực là quan trọng. Nếu chỉ có lễ, tức chỉ có hình thức, thì đó chỉ là tính chất
bên ngoài, chứ chưa có thể nói lên được cái bản chất của lối sống của người Việt. Từ những
nghiên cứu này, chúng tôi muốn chứng minh, lễ mà thiếu nghĩa sẽ bị sa đọa vào cái hố
trọng hình thức thiếu nội dung, nhưng nếu thiếu lễ, nghĩa trở lên trống rỗng. Nói theo kiểu
bình dân, lễ là cái vỏ, trong khi đó, nghĩa là cái ruột; và nói theo ngôn ngữ Aristotle, thì lễ là
mô thức (forma) và nghĩa là chất liệu (materia).
2. Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn[5]
Sáu chữ trên không có xa lạ gì với người Việt chúng ta. Chúng đã biến thành những khẩu
hiệu nằm trên đầu môi ngọn luỡi của các nhà sư phạm, của các bậc phụ huynh, của nhiều vị
“dân chi phụ mẫu”, và đôi khi cũng là chính sách của nhà nước nữa. Chúng ta cũng không lạ
lẫm gì khi mà hầu hết những tác phẩm thi ca kinh điển của những bậc đại nho đều ca tụng
và nâng lễ nghĩa lên thành một đức tính, tương đương với tam tòng tứ đức, đôi khi lại còn
hơn thế nữa. Nguyễn Du coi lễ như là quy tắc, trong khi Nguyễn Đình Chiểu lấy chữ lễ làm
nòng cốt của nền tư tưởng đạo đức. Trong Lục Vân Tiên, cụ đồ họ Nguyễn nhắc đi nhắc lại
không biết mệt cái chữ lễ mà cụ coi như là khuôn vàng thước ngọc đo cái giá trị làm người.
Nói một cách khác, nhà thi sĩ mù lòa chất phác này đồng nghĩa lễ với luân thường đạo lý, và
thường thì coi lễ như là nền tảng của đạo đức. Qua câu thơ “Thôi thôi, ngồi đó chớ ra. Nàng
là phận gái ta là phận trai”, ta nhận thấy một cách rõ ràng là cụ đồ họ Nguyễn đã đồng hóa
lễ trong việc đối xử giữa trai-gái với quy luật “nam nữ thọ thọ bất thân” của thời Hán. Thực
ra, cụ đồ Chiểu đã phản ánh cái tâm thức chung coi lễ không khác chi là quy luật của người
bình dân Việt: “Cá không ăn muối cá ươn - Con không giữ lễ (nghe mẹ) trăm đường con hư”
mà thôi. Thế nên, “tiên học lễ, hậu học văn” đã trở thành một quy tắc tất yếu, suy diễn từ
lối nhìn bình dân như vậy.
Lối suy tư coi lễ là lề luật[6] có phải là lối suy tư đại biểu duy nhất của Việt Nho hay không,
đây là một điểm đáng được tranh luận. Theo thiển kiến của chúng tôi, quan niệm này chỉ
đúng được phần nào, bởi lẽ câu hỏi quan trọng hơn nằm ở sau, đó là, nếu lễ là quy luật, thì
đó là qui luật gì? Nếu nó chỉ là pháp luật, hình luật, thì lễ chưa phản ánh được cái lễ nghĩa
của người Việt, nhưng nếu lễ là quy luật sống, thì nó mới thực là lễ nghĩa.
Như mọi người đều thấy, ngay từ thời thơ ấu, chúng ta đã được đào tạo phải giữ đạo nghĩa,
mà đạo nghĩa thường không phải chi khác hơn là chính lễ nghĩa. Lễ phép, lễ độ, lễ nghĩa, lễ
nghi, lễ phục… là những quan niệm, hay nói đúng hơn là những quy luật (codes), những
cách thế (manners), những biểu tượng (expressive symbols), những chuẩn mực (criteria) đo
lường con người Việt. Chúng ăn sâu vào trong tâm não, chúng nằm chặt trong mạch máu,
đến độ chúng ta đồng hóa lễ với giá trị, với nền đạo đức, và với tất cả cuộc sống của người
Việt. Chúng ta đánh giá một người, một phụ nữ, một quan chức, một giáo chức và ngay cả
một người học sinh tùy theo hành vi lễ độ, lễ phép của họ. Ta xem họ có giữ lễ và hành vi,
ngôn ngữ, cách xử thế của họ có đúng lễ hay không: cha phải ra cha, con phải ra con, thầy
phải ra thầy, trò phải ra trò.[7] Chúng ta kính trọng một người nào đó cũng là vì họ giữ lễ
giữ nghĩa. Chúng ta coi thường những người “vô lễ”, “vô phép, vô tắc”, “vô lương”, những kẻ
“bất nghĩa”, “bất tín”, “bất trung”, “bất hiếu”, “bất nhân”,[8] những người mà ta thường đùa
cợt cho là người không ra người, ngợm không ra ngợm.[9]
3. Lễ và Cuộc Sống Theo Lễ.
Nếu lễ biểu hiện nhân cách con người, nếu lễ biểu hiện cuộc sống xã hội của con người, và
nếu lễ là những phương cách kiềm chế và giáo hóa con người trong Nho giáo, thì trong lối
sống Việt, lễ còn quan trọng hơn cả thế nữa. Lễ hiện thực tất cả cuộc sống. Lễ biểu tả cả
một thế giới sống Việt. Chính vì vậy mà lễ được dúng như là sinh hoạt mang tính chất toàn
diện, cũng như cao cả nhất như từng biểu hiện trong ngôn ngữ, sinh hoạt tôn giáo, và trong
cách tổ chức xã hội.
Trong ngôn ngữ Việt, lễ hiển diện một cách rõ rệt, hơn bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới.
Lối xưng hô với cùng một người luôn thay đổi tùy theo địa vị, tùy theo liên hệ, tùy theo sự
cách biệt, tùy theo tầm quan trọng. Lối xưng hô như vậy là một ví dụ điển hình ngôn ngữ
Việt dựa theo lễ: với một người không quen, ta có thể xưng với người đó: thưa, bẩm, nói
với… cụ, ông, bác, chú, ngài, cậu, mày, vân vân. Với một ngừơi mà ta kính trọng, lễ đòi
buộc phải tôn kính hơn: kính thưa, trọng kính đức cha (đức ông), cụ, ngài. Trong ngôn ngữ
tôn giáo, ta dùng những động từ như: kính, bái, vái, lạy, thờ, quỳ lạy, phủ phục, vân vân.
Rồi đối với thánh nhân, thần linh, và ngay ma qủy chúng ta cũng có những ngôn ngữ khác
nhau để biểu tả cái lễ (tâm tình) của mình. Lối xưng tụng “Đức” biểu tả cái lễ ta dành cho
những vĩ nhân, những đại anh hùng dân tộc, và đặc biệt cho các bậc Giáo chủ và thần
thánh. Trong xã hội Việt, từ “Đức” chỉ dành riêng xưng tụng thần thánh, các nhà lãnh đạo
tôn giáo, hay những bậc thánh nhân, những vị anh hùng, những đại triết gia mà thôi,[10]
thí dụ Đức Khổng, Đức Phật, Đức Kitô, Đức Bà, Đức Mẹ, Đức Chúa, Đức Trần Hưng Đạo
(Thánh Trần), Đức Giáo Hoàng, vân vân.
Nếu trong ngôn ngữ, chữ lễ giữ một tầm quan trọng như vậy, thì trong chính sinh hoạt tôn
giáo, nó càng rõ rệt hơn. Trong tất cả các đạo giáo ở Việt Nam, từ những đạo giáo du nhập
từ ngoại quốc như Phật, Khổng, Lão và Thiên Chúa giáo cho tới những tôn giáo được coi như
là thuần túy dân tộc như đạo Dân Gian, đạo Thờ Ông Bà, và gần đây, hai đạo Cao Đài, Hòa
Hảo, ta thấy lễ mang một vai trò quan trọng khác thường, mang tính chất toàn diện và siêu
nhiên: lễ chỉ những buổi hội họp quan trọng để tưởng nhớ, để mừng vui, để nhận nhau, để
cổ võ, để hiệp thông, và để hướng về tương lai. Lễ cũng nói lên những hành vi mà người
Việt theo và giữ, để ứng xử với Trời, Đất và đồng loại, tùy theo tôn ti trật tự (nghi lễ). Lễ
càng chỉ ra những cách thế, những quy luật, những “tục”, những “tắc”, những “quán”, tức
những phương thế hữu hiệu, những cách thế dân tộc được truyền qua bao thế hệ. Và lẽ dĩ
nhiên, lễ với nghĩa nói lên cái nhân cách của con người “đỉnh thiên lập địa”, khiến con người
đồng hàng với Trời, với Đất.
Người công giáo Việt đã dùng chữ lễ để nói lên sinh hoạt tôn giáo, thờ phụng Thiên Chúa
của họ. Đối với họ, đi lễ, xem lễ, dự lễ, rồi kính các thứ lễ (lễ kính Đức Mẹ, lễ kính Các
Thánh, vân vân) không chỉ nói lên hành vi tham dự một cuộc tụ họp, hay một bữa tiệc, hay
của một cuộc hội họp (theo nguyên nghĩa của missa, messe) mà còn hơn thế nữa, nói lên
chính cuộc sống kết hợp với giới linh thiêng. Tương tự, tín đồ Phật giáo Việt cũng đã có
những lối nhìn tương tự, khi họ “lễ hóa” các nghi thức, lối sống cũng như ngay cả cách tổ
chức như thấy trong Giáo hội Phật giáo Đại thừa. Tuy chưa có giờ và tài liệu tra cứu xem cha
ông chúng ta đã dịch chữ missa ra từ lễ vào thời nào,[11] nhưng tôi biết chắc, lối dịch này
phản ảnh trọn vẹn tâm tư và lối sống của người Việt chúng ta.[12] Lễ nơi đây không chỉ là
lễ nghi, hay nghi thức phụng vụ, mà phải là lễ nghĩa, tức chính cuộc sống của con người đối
với Thượng Đế qua ngôn ngữ, hành vi, phẩm phục, hay qua những nghi thức. Tương tựỉ, lễ
đã biến thành một phần bất khả phân li trong cuộc sống của Phật đồ. Phật đồ lễ (bái, tế)
Phật. Họ có những buổi lễ như lễ Vu Lan, lễ Phật đản, và nhiều lễ tương tự. Lễ đối với họ nói
lên việc họ sống chính cuộc sống của mình bằng cách hiệp nhất với tinh thần của đức Phật.
Và quả thật, Công giáo hay Phật giáo Việt đã phản ảnh lối sống của họ trong hành vi lễ, bái,
kính, tôn. Bái (xá) tổ tiên, làm lễ giỗ tổ, thờ kính ông bà, bái những bậc tiền bối, vân vân,
tuy vốn không hợp với nghi thức hay luật phụng vụ của Kitô giáo và có lẽ cả của Phật giáo,
chúng lại phản ánh trung thực cái tinh thần đúng lễ của các đạo giáo trên.[13]
Trong đạo dân gian, chúng ta có rất nhiều lễ, từ Thanh Minh (tảo mộ, tưởng niệm người quá
cố), tới Thánh Gióng (anh hùng dân tộc), từ (lễ) Hội tới (lễ) Làng, từ lễ giỗ (Tổ) tới lễ “ăn
mừng”, “khao vọng”… Nơi đây, lễ không chỉ dành cho thần thành, mà cho tất cả mọi người,
mọi vật. Kẻ thánh có lễ của kẻ thánh, người dân thường có lễ cuả người dân thường,
phường trộm cắp cũùng có cái lễ của phường trộm cắp.
Nói tóm lại, trong bất cứ tôn giáo nào ở Việt Nam, trong bất cứ lối sống nào của dân Việt,
chúng ta đều thấy là, chữ lễ mang tính chất toàn diện của cuộc sống con người. Và do đó,
chúng ta có thể tạm trả lời cho câu hỏi, nếu lễ là quy luật, thì nó phải là quy luật sống, chứ
không phải chỉ là những loại luật pháp, như hình luật, hay loại luật không hẳn liên quan tới
cuộc sống con người.
Trong lối tổ chức xã hội Việt, lễ cũng giữ một vai trò quan trọng kkhông kém. Từ thôn xóm
tới làng xã, rồi từ đô thị tới kinh đô, tất cả đều theo một “tôn ti trật tự” biểu hiện qua các lễ
phép. Bổng lộc được trả theo cái tôn ti này. Lễ phục, phẩm phục cũng tùy theo phẩm trật.
Và có một thời ngay cả kiến trúc, nhà ở cũng theo một quy luật rõ rệt. Trong phẩm quan, từ
đệ nhất phẩm xuống tới cửu phẩm; trong dân gian, từ dân đinh lên tới lý trưởng ta thấy có
những nghi lễ quy định. Thời bình là một thời mà người ta trọng lễ và giữ lễ, trong khi trong
thời loạn, mới thấy sự sa đoạ của tôn ti trật tự, và thiếu lễ nghĩa mà thôi.
Từ những nhận định trên, chúng ta có thể thấy là: thứ nhất, chính ở sự nhận thức ra sự
khác biệt giữa lễ như là một loại luật pháp, và lễ như là quy luật của cuộc sống, mà người
Việt luôn dùng chữ lễ đi với chữ nghĩa: lễ nghĩa. Đây là một điều mà chúng tôi ít thấy trong
nền văn hóa phương Bắc.[14] Thứ tới, người Việt đã Việt hóa những quan niệm triết học của
người phương Bắc (Hán, Tống, Minh, Thanh) bằng chính lối sống của họ. Đối với họ, lễ biểu
hiện một cuộc sống toàn diện, ăn sâu vào trong cuộc sống hàng ngày cuả mỗi người. Và
như thế, lễ không chỉ dành cho một giới, một giai cấp, hay một nhóm người nào. Lễ là cái
dấu ấn, là tín hiệu và là hình thức cuả con người Việt. Và chỉ như vậy, người Việtỉ đã tạo ra
một đạo Nho (Việt Nho) cho riêng mình. Việt Nho không hoàn toàn đồng nhất với Hán Nho,
Tống Nho, Minh Nho, Thanh Nho, vân vân. Nó mang tính chất đặc thù cuả người Việt, của
thế giớùi Việt. Để chứng minh lối nhìn rất hay này, tức những cố gắng Việt hóa đạo Nho, rồi
đạo Phật, cũng như đạo Kitô giáo của người Việt, chúng tôi bắt đầu với quan niệm lễ trong
những kinh điển của Nho giáo, đặc biệt các bộ Luận Ngữ, Lễ Ký[15] cũng như phần nào
trong tư tưởng của Tuân Tử. Phải bắt đầu với những tư tưởng trên, bởi lẽ tư tưởng Việt của
chúng ta đã từng bị ảnh hưởng của họ. Và phải hiểu nội dung của chữ lễ trong các kinh điển
trên, chúng ta mới thấy được sự khác biệt giữa tư tưởng phương Nam và phương Bắc. Sau
phần tìm hiểu, phần thứ hai sẽ phân tích chữ lễ trong nền văn hóa Việt, mục đích để tìm ra
sự biến đổi của những nền tư tưởng trên khi nhập vào đất Việt.
4. Chữ Lễ trong Nho Giáo
Lễ không có đồng nhất, hay chỉ có một ý nghĩa duy nhất trong quá trình diễn biến của Nho
giáo.[16] Với diễn tiến lịch sử, chữ lễ đã biến đổi, từ thời Chu tới thời Tống Minh, và như
chúng tôi muốn chứng minh, từ tư tưởng phương Bắc tới tư tưởng phương Nam.[17] Như sẽ
trình bày qua những đoạn sau, chữ lễ trong Luận Ngữ không phản ánh một cách thấu triệt
quan niệm lễ nghĩa thấy trong Mạnh Tử, y hệt lễ trong Lễ Ký không hẳn lột hết được ý nghĩa
của chữ lễ mà chúng ta hiểu ngày nay.[18] Có rất nhiều lý do giải thích sự biến đổi của lễ
nghi, và ngay cả tinh thần của lễ, từ việc đức Khổng coi lễ như là bản tính khiến con người
khác với vạn vật, cho tới những nhà Tống nho chỉ coi lễ như là một công cụ; từ việc lễ luôn
gắn liền với cuộc sống của mọi người, cho tới lễ chỉ là lối sống của giai cấp thống trị, vân
vân. Thế nên để độc giả có một cái nhìn tổng quát về sự biến đổi của lễ, và nhất là sự biến
hóa của lễ trong đời sống người Việt, chúng tôi sẽ trình bày một cách ngắn gọn quan niệm
về lễ qua các sách kinh điển: Lễ trong Luận Ngữ, lễ nơi Tuân Tử và lễ trong Lễ Ký.
4.1. Lễ trong Luận Ngữ
Trong Luận Ngữ, Khổng Tử thường nhắc rất nhiều đến chữ lễ. Có thể nói, trong mỗi chương
đều có nhiều đoạn bàn về lễ, có khi chủ động giảng giải, có khi thụ động trả lời câu hỏi của
các đồ đệliên quan tới lễ. Chúng tôi xin tạm phân chia ý nghĩa của lễ trong Luận Ngữ theo
những phạm trù sau:
Thứ nhất, lễ là một phương cách biểu tả hòa khí, và như vậy nó có thể giúp tề gia, trị quốc.
Hữu Tử, một đồ đệ của Khổng Tử nói: “Lễ chi dụng, hòa vi quý. Tiên vương chi đạo, tư vi
mỹ; tiểu đại do chi. Hữu sở bất hành. Tri hòa nhi hòa, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành
giã”.[19]
Thứ hai, lễ biễu hiện chính nền đạo đức. Theo Khổng Tử, căn bản của lễ không có chi khác
hơn là chính nền đạo đức. Đạo nhân, đạo nghĩa (như thấy sau này nơi Mạnh Tử), đạo tín
(tức chân thành), vân vân, là những đức tính căn bản của lễ.[20] Một người thiếu lễ, không
thể là người quân tử. Trung, hiếu thực ra chỉ là những quy tắc tất yếu xây dựng trên nhân,
nghĩa, và tín, trong khi lễ là một phương thế biểu hiện những đức tính trên.[21]
Thứ ba, lễ là những nghi thức mà ta phải theo, tùy theo nơi chốn, tùy theo địa vị, tùy theo
tương quan giữa chúng ta với những người ta gặp. Trong chương Thuật Nhi, Khổng Tử đặc
biệt nhấn mạnh tới nghi thức cũng như thái độ ta phải có khi cúng tế, khi thụ tang, khi gặp
thiên tai, vân vân. Chính vì ngài nhấn mạnh tới nghi thức cũng như thái độ mà đa số nho
gia đã hiểu lễ như là nghi lễ, nghi thức, hay quy luật ta phải theo khi cúng tế, khi tổ chức
hôn lễ, khi tham gia vào việc công (làm quan, triều yết), khi sinh con đẻ cái, khi có tang,
vân vân (quan, hôn, triều, sinh, tang, tế).[22]
Thứ tư, ngay từ thời Khổng Tử, đã có một số nho gia theo lối nhìn thứ ba, đặc biệt chú trọng
tới lễ, nhạc coi như là nghi lễ, nghi thức và nghi pháp. Ngay cả thầy Tử Lộ cũng đã hiểu
nhầm Khổng Tử, khi thầy thấy Thầy mình hình như không giữ một số lễ nghi (chuyện Khổng
Tử tiếp một phụ nữ). Cho tới thời Tuân Tử, và nhất là tới thời học trò của họ Tuân, nhất là
thời Pháp gia, nho gia thường gắn lễ liền với pháp, như chúng ta thấy từ ngữ hay dùng: “lễ
pháp” (tiếng Việt gọi trại đi là “lễ phép”), tức quy tắc mà ta bắt buộc phải theo. Thực ra,
như chúng tôi muốn nhấn mạnh, Khổng Tử không nghĩ như vậy, bởi vì theo ngài lễ là cả một
lối sống toàn diện, tức lối sống mà ta phải theo để có thể bảo tồn sự sống và xã hội. Thành