Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu Luận Đường Lối Đối Ngoại và Hội Nhập Quốc Tế của Đảng Ta Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.07 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo từ năm 1986 đến nay đã trải qua hơn 30 năm. Đó là một công trình vĩ đại của
Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Ngay từ thời điểm đó cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo
công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn xác định đúng đắn đường lối, chủ trương đổi mới,
hình thức, bước đi và cách tiến hành phù hợp; trong đó phải kể đến một yếu tố đặc
biệt quan trọng là nhiệm vụ đối ngoại. Có thể nói, đó là bản lề để mở ra nhiều cơ
hội cho đất nước ta phát huy nội lực, tranh thủ ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo
ra các mối quan hệ có lợi để phát triển đất nước.
Nhìn lại chặng đường công cuộc đổi mới do Đảng ta phát động có thể thấy
đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, chính sách đối ngoại rộng mở theo tư duy
mới, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng và sự bao vây cấm vận của các lực
lượng thù địch, giải tỏa những bế tắc trong quan hệ với các nước láng giềng
(ngoài Đông Dương) và hầu hết với các nước lớn, các tổ chức khu vực và liên
khu vực. Quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN được khai thông, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập ASEAN và hội nhập khu vực sau đó.
Đặc biệt quan trọng là việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và từng
bước cải thiện quan hệ với Mỹ tiến đến việc bình thường hóa và thiết lập quan hệ
ngoại giao giữa hai nước.
Vì vậy, bằng đường lối đối ngoại có chiến lược, linh hoạt, khôn khéo, chúng
ta đã có những đột phá trong việc thiết lập các mối quan hệ quốc tế ngày càng
sâu, rộng qua đó nâng tầm Việt Nam trên trường quốc tế. Đảng và Nhà nước ta
luôn coi trọng và chủ trương chủ động, tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn
song phương, đa phương, tham gia vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực,
góp phần nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước ta, làm cho cộng đồng quốc tế
hiểu rõ hơn về Việt Nam tạo những điều kiện thuận lợi cho đất nước ta hội nhập
và phát triển
1



Tuy nhiên, đường đối ngoại và hội nhập quốc tế, bên cạnh những thời cơ,
vận hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn. Trong bối
cảnh đó, việc nghiên cứu, vận dụng đường lối đối ngoại và chủ trương hội nhập
quốc tế là rất cần thiết. Vì vậy, em đã chọn vấn đề: “Đường lối đối ngoại và chủ
trương hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay”, để viết bài
thu hoạch của mình.

2


NỘI DUNG
1. Cơ sở hoạch định và quá trình hình thành, phát triển đường lối đối
ngoại thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
1.1. Cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã thông qua đường lối đổi
mới toàn diện, trong đó có đổi mới lĩnh vực hoạt động đối ngoại. Đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đổi mới được hoạch định trên những cơ sở
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi vì:
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ
nam cho hành động của Đảng ta. Những nội dung có tính khoa học và cách mạng về
thời đại, về vấn đề dân tộc và quốc tế, về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân tư tưởng cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị
- xã hội khác nhau, về quyền dân tộc tự quyết trong quan hệ quốc tế… trong học
thuyết Mác - Lênin luôn được Đảng ta chú trọng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo
trong bối cảnh thế giới mới và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình, bắt
nguồn từ Đại hội VI của Đảng (12/1986) và tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn
thiện ở các Đại hội Đảng tiếp theo đó. Có thể chia quá trình này thành hai giai
đoạn sau:

1.2.1. Giai đoạn từ Đại hội VI (12/1986) đến Đại hội VII của Đảng (6/1991)
Đây là giai đoạn hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, thể hiện qua các
Văn kiện sau:
- Đại hội VI của Đảng (12/1986) khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, đồng thời cũng mở đầu quá trình hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ đổi
mới. Đại hội xác định nhiệm vụ hàng đầu là: “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.
3


- Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khoá VI (5/1988) là bước ngoặt, có tính đột
phá về đổi mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự hình thành bước đầu chính sách đối
ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá.
- Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (3/1989) là sự phát triển tiếp theo của đổi
mới tư duy đối ngoại. Hội nghị đã nhận thức nhiều vấn đề đối ngoại cần phải giải
quyết, trong đó một lần nữa tái khẳng định: Đối ngoại phải chuyển từ chính trị- an
ninh là chủ yếu sang chính trị - kinh tế là chủ yếu; thúc đẩy quá trình bình th ường
hoá quan hệ với Trung Quốc; xác định lộ trình cải thiện quan hệ với các nước
ASEAN; xác định lộ trình rút quân khỏi Campuchia; tiếp cận lộ trình bình thường
hoá quan hệ với Mỹ…
- Đại hội VII của Đảng (6/1991) là bước phát triển mới trong việc hình thành
chính sách đối ngoại đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hoà
bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng đưa ra
phương châm chiến lược trong chính sách đối ngoại “Việt Nam muốn là bạn với
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”,
đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá của Nhà nước Việt Nam.
1.2.2. Giai đoạn từ Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đến nay
Đây là giai đoạn tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đối ngoại đổi mới, cụ

thể như sau:
- Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đối
ngoại đổi mới. Trên cơ sở thế và lực mới của nước ta, Đại hội lần đầu tiên nêu
nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo hướng “xây dựng nền kinh tế
mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đây là điểm khởi
đầu quan trọng cho một chủ trương đối ngoại lớn và xuyên suốt của Đảng là hội
nhập kinh tế quốc tế (và đến nay là hội nhập quốc tế). Đại hội này cũng đồng thời
tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
4


- Đại hội IX của Đảng (4/2001) bổ sung làm rõ thêm chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Tại Đại hội
này, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực” theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Phát triển quan
điểm mở rộng quan hệ đối ngoại của Đại hội VII và VIII, Đại hội IX nêu rõ: “Việt
Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
- Đại hội X (4/2006) của Đảng tiếp tục bổ sung đường lối đối ngoại thời kỳ
đổi mới với tuyên bố: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”, “Đưa
các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững”. Đại hội
cũng bổ sung quan điểm hội nhập quốc tế với chủ trương “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế”.
- Đại hội XI của Đảng (01/2011) đường lối đối ngoại tiếp tục bổ sung, hoàn
thiện. Tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng xác định mục tiêu hàng đầu của đối ngoại
là “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Như vậy, lợi ích quốc gia dân tộc là tiêu chí hàng

đầu để xác định hợp tác và đấu tranh, là đối tác và đối tượng ”. Cũng tại Đại hội
này, trên cơ sở thế và lực mới của Việt Nam trên trường quốc tế, Đảng đưa ra chủ
trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế…”. Như vậy, Đảng đã chuyển nội dung
trọng tâm của đối ngoại từ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế sang hội nhập
quốc tế một cách toàn diện.
- Đại hội XII của Đảng (01/2016), trên cơ sở kế thừa những nội dung đối
ngoại của các Đại hội trước đó, Đại hội XII nhấn mạnh mục tiêu hàng đầu của đối
ngoại là phải “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc”, xác định nhiệm vụ
đối ngoại là phải “nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực

5


hội nhập quốc tế, kiên quyết,kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… ”.
2. Đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là hệ thống quan điểm về mục
tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động của
nước ta với bên ngoài nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc chân chính, đồng thời
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời đại
là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.1. Mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ, phương châm đối ngoại
2.1.1. Mục tiêu
Bảo đảm lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”; “góp phần vào sự nghiệp hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.1.2. Nguyên tắc
Có hai loại nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại: nguyên tắc cơ bản, xuyên
suốt, bao trùm và các nguyên tắc cụ thể:

- Nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm trong đường lối đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta là hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng
thời, phải sáng tạo, năng động, linh hoạt trong xử lý các tình huống, phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể, với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới
và khu vực, phù hợp với đặc điểm của từng đối tác. Trong xử lý tình huống, cần ba
tránh: tránh bị cô lập; tránh xung đột; tránh đối đầu.
- Các nguyên tắc cụ thể:
+ Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau.
+ Không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
+ Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình.
+ Tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
6


2.1.3. Nhiệm vụ đối ngoại
Thứ nhất, nhiệm vụ đối ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích tối cao quốc
gia - dân tộc, tạo lập được môi trường hoà bình để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới,
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo vệ Tổ quốc
bao gồm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, các hoạt động đối ngoại được triển khai phải góp phần nâng cao vị
thế của nước ta trên trường quốc tế. Đây cũng là tiền đề quan trọng để trên cơ sở
đó, chúng ta có thể huy động được nguồn lực bên ngoài cùng với nguồn lực bên
trong phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đặt lợi ích dân tộc là tối cao, Việt Nam không từ bỏ chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân, mà trái lại Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định
nhiệm vụ của đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh vì mục tiêu của thời đại là
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhiệm vụ đối ngoại theo tinh thần của Đại hội XII nhằm đạt được ba lợi ích

có quan hệ mật thiết với nhau: Phát triển - An ninh - Vị thế, trong đó vấn đề phát
triển là quan trọng nhất. Phục vụ cho phát triển đất nước được coi là nhiệm vụ
hàng đầu của đối ngoại vì chỉ có phát triển mới tạo nên nền tảng vật chất cho việc
thực hiện mục tiêu an ninh và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Tuy nhiên,
không thể có sự phát triển và phát huy được ảnh hưởng quốc tế nếu không giữ
vững được chủ quyền, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
2.1.4. Phương châm đối ngoại
- Phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa và phát
huy nội lực là chính, tranh thủ tối đa ngoại lực.
- Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
- Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
- Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả
3. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
7


3.1. Về mục tiêu
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hoà
bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh
và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức
mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần
tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
3.2. Quan điểm chỉ đạo
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của
Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa;
- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn toàn dân và của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực.
- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo
thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, thúc đẩy phát triển văn hoá, xã hội.
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích
quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi
vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh
của bên này chống bên kia.
- Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ
động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế
và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế.
3.3. Nội dung chủ động và tích cực hội nhập quốc tế

8


Quan điểm“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” thể hiện bước đi và lộ
trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Hội nhập quốc tế được triển
khai đồng bộ và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đưa các quan hệ đã được thiết
lập đi vào chiều sâu, bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
- Chủ động và tích cực hội nhập trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh
- Chủ động và tích cực hội nhập trên các lĩnh vực khác
3.4. Một số giải pháp chủ yếu về "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế"
Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định
hướng đối ngoại của Đại hội XII, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá
trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các cấp, các ngành, các địa phương.
Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần

đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ với 15 đối tác
chiến lược và 10 đối tác toàn diện, đảm bảo môi trường hoà bình, ổn định của đất
nước, thúc đẩy quan hệ trên tất cả các lĩnh vực, tạo thuận lợi cho phát triển đất
nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ
các cam kết quốc tế, theo đó, Việt Nam cần tăng cường công tác phổ biến các cam
kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình
triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân nhận thức đúng thách thức cũng
như cơ hội mà họ có được từ quá trình hội nhập quốc tế để họ tham gia một cách
chủ động và tích cực, biến quá trình hội nhập quốc tế chủ yếu là các hoạt động của
các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của
bộ ngành, từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp và người dân.
Thứ tư, trong quá trình triển khai các định hướng lớn về hội nhập quốc tế được
xác định trong Văn kiện Đại hội XII, Việt Nam cần tập trung thực hiện Chiến lược
tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030 và các Đề án, Kế hoạch
triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế; khẩn trương
9


hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập quốc tế; tăng cường công tác đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập để đến năm 2020, mức độ hội nhập
trên các lĩnh vực của Việt Nam ở mức độ cao của các nước ASEAN.
Thứ năm, trong hội nhập kinh tế, Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn
đề sau:
- Các bộ, ngành và địa phương cần chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch
toàn diện và cụ thể thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, trong đó xác định vai trò
trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình hội nhập trong quan điểm,
nhận thức và hành động.
- Gắn kết hội nhập kinh tế quốc tế với cải cách trong nước, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu

chính trị - ngoại giao và mục tiêu chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng mức độ cam
kết và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, đồng thời có các điều chỉnh
thương mại trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để có hiệu quả
cao nhất trong việc thực hiện các cam kết thương mại.
- Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cư chế, chính sách nhằm thực thi có
hiệu quả các cam kết hội nhập, tạo môi trường kinh doanh b ình đẳng, minh bạch,
ngày càng phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị
trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm;
- Tăng cường nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh
giá và dự báo các vấn đề mới liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là
việc triển khai thực hiện ở mức độ cao hơn các cam kết, các FTA để chủ động điều
chỉnh chính sách và biện pháp phù hợp...
4. Thành tựu, hạn chế và bài học trong thực hiện đường lối đối ngoại
thời kỳ đổi mới
10


4.1. Thành tựu
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã thu được
nhiều thành tựu hết sức quan trọng, thể hiện trên các vấn đề lớn như sau:
Thứ nhất, đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế
đối với nước ta, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia, kể cả các nước lớn
và các trung tâm hàng đầu thế giới. Trong giai đoạn từ 1986 - 1995, thông qua các
hoạt động ngoại giao tích cực, trong đó có việc phối hợp với tất cả các bên để đi tới
một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Việc ký Hiệp định về Campuchia
(10/1991) đã chấm dứt tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa Việt Nam với một số

nước lợi dụng vấn đề Campuchia để bao vây, cô lập Việt Nam, góp phần khai
thông quan hệ giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài; đẩy mạnh các hoạt động
ngoại giao, trong đó có chuyến thăm không chính thức Trung Quốc của đoàn đại
biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam (1990), Việt Nam và Trung Quốc đã
bình thường hóa quan hệ vào tháng 11/1991; chủ động mở quan hệ với các nước
ASEAN; đấu tranh đòi Mỹ phá bỏ cấm vận và tiến tới bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam… Có thể nói, việc xác định đúng khâu then chốt là vấn đề Campuchia và
với các bước đi cụ thể, tích cực, đến năm 1995, Việt Nam đã phá thế bị bao vây,
cấm vận, cô lập và mở rộng quan hệ với các nước và các Tổ chức quốc tế. Đến
năm 2016, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 185 nước; đã thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược với 15 quốc gia và đối tác toàn diện với 10 quốc gia. Lần đầu tiên
trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ hợp tác tốt với tất cả nước lớn, trong đó có 5
nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Thứ hai, đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát
triển kinh tế - xã hội.Thông qua các hoạt động ngoại giao cụ thể, tích cực, đặc biệt
là chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác chủ chốt, thúc đẩy hợp tác
kinh tế quốc tế và bắt đầu hội nhập chặt chẽ vào nền kinh tế khu vực và thế giới,
Việt Nam đã tranh thủ được nguồn ngoại lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Bên cạnh thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, Việt Nam thúc đẩy quan
hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả châu lục; đẩy mạnh hội
11


nhập quốc tế, tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều
lĩnh vực, thu hút một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo thống kê của
Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến hết năm 2016, cả nước đang có 22.590 dự án FDI
còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký đạt gần 293,25 tỷ USD, có 116 quốc gia và
vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất
với tổng vốn đăng ký trên 50,7 tỷ USD.
Thứ ba, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,

đồng thời từng bước giải quyết được nhiều vấn đề về biên giới trên bộ và trên biển
với các nước có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để quản lý biên
giới, bảo vệ chủ quyền, mở rộng hợp tác quốc tế, góp phần củng cố hòa bình, ổn
định trong khu vực. Cho đến nay, thông qua các hoạt động ngoại giao, Việt Nam và
Trung Quốc đã ký Hiệp định biên giới trên bộ và hoàn thành việc phân giới cắm
mốc trên bô; ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá Vịnh Bắc
Bộ; ký thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển.
Công tác phân giới cắm mốc giữa Việt Nam với Lào và Campuchia đang được
tích cực triển khai trên cơ sở những Hiệp định biên giới đã ký kết. Ngoài ra, Việt
Nam đã ký các Thỏa thuận song phương về hợp tác giải quyết vùng chồng lấn trên
biển với từng nước trong khu vực như với Malaixia, Inđônêxia, Philíppin, Thái Lan
trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tạo điều kiện thuận lợi việc mở rộng và tăng
cường hợp tác.
Thứ tư, có những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm và mang tính
xây dựng cho xu thế hòa bình, hợp tác. Thông qua các hoạt động cụ thể như tổ
chức thành công nhiều Hội nghị quốc tế: Hội nghị cấp cao Pháp ngữ, Hội nghị cấp
cao ASEM, APEC; Chủ tịch luân phiên của ASEAN, Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, đang là nước chủ nhà Hội
nghị thượng đỉnh APEC 2017…, Việt Nam cũng đã tham gia giải quyết nhiều vấn
đề lớn của thế giới và khu vực, trong đó có việc Việt Nam cùng các nước khác
trong ASEAN ký Tuyên bố về ứng xử các bên trên Biển Đông (DOC) giữa
ASEAN và Trung Quốc (11/2002) và gần đây là ký kết Khung Bộ Quy tắc ứng xử
12


ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (8/2017) - bước tiến tích cực cho tiến
trình đàm phán thực chất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), góp phần duy trì
hòa bình và ổn định ở khu vực. Với những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách
nhiệm và mang tính xây dựng (đặc biệt Sáng kiến của Việt Nam về “Xây dựng
niềm tin chiến lược” tại Diễn đàn an ninh Shanggri- La cách đây không lâu, tiếng

nói của Việt Nam được cộng đồng quốc tế coi trọng, lắng nghe, qua đó mà không
ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
4.2. Hạn chế
Một là, yếu kém trong công tác nghiên cứu cơ bản và dự báo chiến lược.
Công tác này trong những năm qua tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp
ứng tốt yêu cầu, có lúc còn thiếu tính chủ động, thiếu sự phối hợp điều hành
thống nhất.
Hai là, chưa đưa các quan hệ được thiết đi vào chiều sâu, bền vững. Cho đến
nay, Việt Nam đã mở rộng đáng kể quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chưa đưa mối quan hệ đó phát triển chiều sâu,
bền vững do chưa xây dựng các khuôn khổ quan hệ hoặc chưa cụ thể hóa các thỏa
thuận đã ký kết.
Ba là, những hạn chế trong công tác chỉ đạo, quản lý . Trong những năm
qua, hoạt động đối ngoại là khá sôi động, song không ít các hoạt động tính
hiệu quả thấp, thậm chí còn gây lãng phí. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp,
sự quản lý công tác đối ngoại trong nhiều trường hợp vẫn còn thiếu nhịp
nhàng, ăn khớp…
4.3. Một số bài học trong thực hiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
Từ thực tiễn hoạt động đối ngoại hơn 30 năm qua với những thành tựu và hạn
chế của nó, có thể rút ra một số bài học sau:
Thứ nhất, mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia dân tộc với
mục tiêu chiến lược là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
và chế độ xã hội chủ nghĩa trong sự kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi
13


trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ”.
Thứ hai, kết hợp hài hòa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dân tộc với

quốc tế. Trong sự kết hợp này, sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định, được thể
hiện ở sức mạnh tổng hợp cả về vật chất lẫn tinh thần.
Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm
lịch sử của cách mạng Việt Nam cho thấy rằng, chỉ có thể thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng khi Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên
định tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định công việc của mình.
Thứ tư, kiên định về nguyên tắc chiến lược nhưng mềm dẻo, cơ động, linh hoạt,
sáng tạo trong xử lý tình huống theo tinh thần”dĩ bất biến, ứng vạn biến”;
Thứ năm, triển khai hoạt động đối ngoại một cách toàn diện. Trong thế giới
ngày nay, quá trình toàn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó,
hoạt động đối ngoại sẽ diễn ra trên mọi lĩnh vực và đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ
giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân nhằm tạo ra sức
mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của
Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước.
Trên cương vị công tác hiện nay, để góp phần thực hiện đường lối đối ngoại
và nhiệm vụ hội nhập quốc tế tôi cần tập trung tuyên truyền sâu rộng trong toàn thể
cán bộ, đảng viên và nhân dân của huyện nhà về đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu
của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống nhất trong nhận
thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế và
thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại. Cụ thể hóa các nội dung của đường lối đối
ngoại, quán triệt sâu sắc những bài học trong thực hiện chính sách đối ngoại để
toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện đúng và hiệu quả. Đồng thời với
cải thiện môi trường thu hút đầu tư từ nước ngoài vào tỉnh, vào địa bàn huyện ngày
càng tốt hơn.
14


KẾT LUẬN


Trong suốt 32 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng mở rộng
và tăng cường quan hệ đa dạng với các chính đảng, các quốc gia thế giới, tích cực
tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế. Từ chỗ chỉ có quan hệ với các
nước trong hệ thống XHCN, bị bao vây, cô lập; Với đường lối đối ngoại đúng đắn
đến nay đã bình thường hóa quan hệ với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ, có
nhiều đối tác quan trọng là các nước lớn. Vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế ngày càng được đánh giá cao. Việt Nam luôn tích cực trong các hoạt động
quốc tế nhằm thực hiện các cam kết, biểu lộ sự ủng hộ đối với các xu hướng tiến
bộ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển “Đây là kết quả của quá trình cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, trong đó
có tư duy đối ngoại là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại hiện nay”. Chủ trương mở rộng
quan hệ song phương, đa phương với các nước trên thế giới trong tình hình hiện
nay là đúng đắn, là cần thiết, nhằm tạo nên sự đồng thuận và cổ vũ cho đường lối
đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với vị thế ngày càng nâng cao trên trường
quốc tế, cơ hội rất lớn và thách thức cũng không nhỏ. Đường lối đối ngoại đổi mới
của Đảng qua các kỳ Đại hội nhất là Đại hội XII đã thể hiện sự nhất quán, sáng tạo
và hệ thống với tầm cao mới. Chúng ta tin tưởng rằng, đường lối đối ngoại đúng đắn
của Đảng, trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta sẽ
đạt được nhiều thành tựu to lớn, giữ vững môi trường hòa bình và phát huy ngoại
lực sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

15



×