BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
STT HỌ VÀ TÊN
MSV
NHIỆM VỤ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1
1
ĐÁNH GIÁ
CỦA GIÁO
VIÊN
ĐÁNH GIÁ
CỦA NHÓM
MỤC LỤC
2
2
MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân quen với hầu
hết người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở quán nước trên hè phố, thậm chí cả ở
thôn quê, người ta đều sử dụng nó một cách rất thông dụng. Tuy vậy, nhưng không phải
ai cũng thực sự hiểu khái niệm này; đặc biệt, hiểu nó một cách đầy đủ và ngọn nghành thì
chẳng có mấy người. Giới học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu
rất khác nhau và vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế.
Ngày nay, hợp tác và liên kết kinh tế trên bình diện toàn cầu cũng như khu vực là
xu thế tất yếu. Tất cả các quốc gia, dù lớn, dù nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để hội
nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả nhất. Việt Nam đã và đang bước vào nền hội nhập
kinh tế với những lợi thế và thách thức. Gần 30 năm qua, mặc dù tình hình thế giới và
khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp nhưng trong các kỳ đại hội của Đảng,
Đảng ta luôn có những nhận thức xác đáng về thời đại, về thế giới và tình hình khu vực
để trên cơ sở đó, định hướng những chính sách đối nội và đối ngoại phù hợp, bám sát tình
hình.
3
3
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CHỦ TRƯƠNG VỀ ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
1, Khái niệm hội nhập quốc tế:
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao
động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là
động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức,
cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở
thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời
sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết
các quốc gia để phát triển.
2, Hoàn cảnh lịch sử:
a, Tình hình thế giới từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX:
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ( đặc biệt là
công nghệ thông tin ) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống
của các quốc gia, dân tộc.
Các nước xã hội chủ nghĩa lân vào khủng hoảng sâu sắc. Đến năm 1991, chế độ xạ
hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự
thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do
Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu ( trật tự thế giới hai cực ) tan rã, mở ra thời kỳ hình thành
một trật tự thế giới mới.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn
còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hòa bình và hợp tác phát triển. Các quốc gia, các
tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nôi, đối ngoại
và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của
thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát
triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính xác đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ quốc tế, mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ
4
4
vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản
xuất kinh doanh.
Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách
đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự, bằng các tiêu chí tổng hợp trong đó sức
mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trong hàng đầu.
b,Tình hình trong nước:
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của Việt Nam bắt đầu từ rất sớm
nhưng chủ yếu được đẩy mạnh từ sau khi Đảng ta phát động sự nghiệp đổi mới.
HNKTQT là nội dung trọng tâm của Hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng,
xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Các quan điểm, chủ trương của Đảng về HNKTQT
mang tính nhất quán, hệ thống, luôn được cập nhật và mang tính kế thừa qua các kỳ Đại
hội.
Ngay từ những năm 1980 của thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thức
được tính cần thiết và tất yếu của HNKTQT. Từ đó tới nay, đường lối, chủ trương hội
nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất quán, không ngừng được hoàn thiện và triển
khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp Đổi mới, phát triển đất nước
Tư tưởng mở cửa đối ngoại, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới của Đảng đã
được thể hiện rõ nét trong các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc (12/1946),
đã long trọng tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong
mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Người khẳng định: “Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho
đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của
mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và
quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh
đạo của Liên hợp quốc”. Đây là những tư tưởng quan trọng đặt cơ sở cho sự hình thành
chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung
của nước ta sau này.
5
5
3, Nội dung:
Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo:
- Mục tiêu, nhiệm vụ:
Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế- xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định nhiệm vụ của công tác đối ngoại
là: “ giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quần, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ , nâng cao vị
thế của đất nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xạ hội trên thế giới
Mở rộng đối ngoại và hội nhập quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu
phát của đất nước, kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực
tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong
quan hệ quốc tế.
- Tư tưởng chỉ đạo:
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế phải quan triệt đầy đủ, sâu sắc các quan
điểm:
Đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt
Nam
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy
mặt hợp tác nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối
tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy và thế cô lập
6
6
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt
chế độ chính trí xạ hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác với khu vực, chủ động tham
gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập quốc tế
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài, xay dựng nên kinh tế độc đáo, tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế
II. Quá trình hình thành chủ trương... qua các kì đại hội từ 1986-nay
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của Việt Nam bắt đầu từ rất sớm
nhưng chủ yếu được đẩy mạnh từ sau khi Đảng ta phát động sự nghiệp đổi mới.
HNKTQT là nội dung trọng tâm của Hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng,
xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Các quan điểm, chủ trương của Đảng về HNKTQT
mang tính nhất quán, hệ thống, luôn được cập nhật và mang tính kế thừa qua các kỳ Đại
hội.
Ngay từ những năm 1980 của thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thức
được tính cần thiết và tất yếu của HNKTQT. Từ đó tới nay, đường lối, chủ trương hội
nhập kinh tế của Đảng đã được đề ra nhất quán, không ngừng được hoàn thiện và triển
khai tích cực, phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp Đổi mới, phát triển đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đề ra đường lối Đổi mới toàn diện và sâu sắc
mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Sự nghiệp Đổi mới của Việt Nam được tiến hành trong bối
cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một cục diện, trật tự thế giới mới đang hình
thành, trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác. Đảng
đã nhận thức rõ rằng bối cảnh đó là điều kiện để chúng ta phát triển đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ và rộng mở. Từ cuối nhiệm kỳ đại hội VI, Đảng đã có những hoạt động
đẩy mạnh quá trình khôi phục và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, đánh dấu
7
7
bằng việc ký kết bản Tuyên bố chung, thoả thuận khôi phục quan hệ bình thường giữa hai
Đảng và hai Nhà nước vào tháng 11 năm 1991.
Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 xác định rõ chủ trương “độc lập tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”,
đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta. Nhờ chủ
trương này, Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập của các thế lực thù địch,
không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương sau
khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã. Một cơ chế hợp tác mới ra đời, vận hành
theo những quy luật mà hôm nay chúng ta đã rất quen thuộc: cơ chế thị trường. Chính
sách đối ngoại của Việt Nam “phát huy những điểm đồng, hạn chế những điểm bất đồng”
và nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó nhấn mạnh“cố
gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)..., mở rộng hợp
tác với các tổ chức khu vực, trước hết là ở Châu Á - Thái Bình Dương”.
Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 xác định sự cần thiết phải xây dựng một nền
kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu. Từ đó, Đảng
đưa nhiệm vụ đối ngoại lên một tầm cao mới: “Nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn tới là
củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước” và “đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế”. Đây là lần đầu tiên Nghị quyết của Đảng đề cập đến việc đẩy
nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu phục vụ sự nghiệp phát triển của
đất nước. Nó đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản trong nhận thức về nhu cầu cần tích
cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 đã khẳng định tính tất yếu, đánh giá bản chất
của toàn cầu hoá và cơ hội cũng như thách thức đối với Việt Nam khi tham gia quá trình
này: "Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh".
Một trong những mặt tiêu cực của toàn cầu hoá được Đảng ta chỉ rõ là chủ nghĩa tư bản
8
8
hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường. Toàn cầu hoá đang
là xu thế khách quan nhưng đang bị chi phối bởi các nước tư bản phát triển và các tập
đoàn tư bản xuyên quốc gia, do đó việc cần nhấn mạnh quan điểm độc lập tự chủ trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đảng ta cũng nhận thức
rõ hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội phát triển cho đất nước. Đảng chỉ rõ
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một
trong bốn nguy cơ và chúng ta có thể tận dụng những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại để tránh khỏi nguy cơ này.
Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006 tiếp tục cụ thể hóa, đưa ra các chủ trương “chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu cao nhất”,
“hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song
phương”, “chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các Hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương”. Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
vào tháng 1 năm 2007, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 08NQ/TW ngày 5 tháng 2 năm 2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO.
Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó nhấn mạnh việc “không ngừng tăng cường tiềm lực
kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu
rộng và có hiệu quả”, và “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế...; tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước”.
Nghị quyết Đại hội XI đã nâng chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” lên thành “chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng với chủ đề của Đại hội là "Tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân
chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở
9
9
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Đây là một cột mốc lịch sử quan trọng
trong tiến trình đổi mới toàn diện và đồng bộ được tiến hành từ năm 1986. Đại hội XII
của Đảng thành công đúng dịp kỷ niệm 86 năm Ngày thành lập Đảng là niềm tự hào,
niềm vui lớn; và một mùa Xuân mới đang về mang theo những điều tốt lành cho cả dân
tộc.
Quá trình HNKTQT của Việt Nam trong 40 năm qua đã có những bước tiến quan
trọng. Từ nhu cầu thực tế phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ
chức quốc tế để phá thế bị bao vây, cô lập ở những năm đầu thập kỷ 90, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đến nay đã mang một sắc thái mới. Chúng ta đã tích cực, chủ động
để mở rộng thị trường ra nước ngoài và từng bước khẳng định vai trò của mình trong nền
kinh tế khu vực và quốc tế.
III. Hội nhập quốc tế trong thương mại hiện nay
1. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
Xóa bỏ từng bước rào về thương mại và đầu tư của các nước đối với nước ta, mở
rộng thị trường ngoài nước, phát huy lợi thế của mình và tiếp nhận công nghệ tiên tiến
hiện đại, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới để nâng cao tính
cạnh tranh thị trường.
Tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế, phân bố nguồn lực hiệu quả đổi mới cơ cấu
kinh tế, nâng cao mức sống dân cư, mở rộng giao thương, thu hút được nhiều tài chính và
khoa học-kĩ thuật, công nghệ, ý tưởng. Chỉ có cơ hội hội nhập kinh tế mới khai thác hết
được nội lực sẵn có của đất nước, để tạo ra những thuận lợi để phát triển kinh tế, đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đặc biệt thu hút đầu tư nước ngoài, mang vốn và
công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên có sẵn của nước ta để sản xuất,
đồng thời giúp các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn hiệu có hiệu quả
hơn, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn kĩ năng cho các nhà quản lí trong nhiều lĩnh vực.
Tạo ra các mối quan hệ giữa các nước với nhau để cùng nhau phát triển nền kinh
tế. Đối với các nước phát triển họ có thể đấy mạnh hoạt động thương mại, đầu từ và
chuyển giao công nghệ ra nước ngoài mở rộng quy mô sản xuất, tận dụng và khai thác
được các nguồn lực từ bên ngoài như tài nguyên thiên nhiên, lao động và thị trường …
10
10
cũng như gia tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị của mình trên thị trường quốc tế.
Còn đối với các nước đang phát triển,được mở rộng thị trường cho hang hóa xuất khẩu,
tiếp nhận vốn, tranh thủ được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến thông qua đầu tư trực tiếp,
nhờ đó sẽ tạo ra công ăn việc làm, đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được trình độ và
kinh nghiệm quan lí…
2. Thực trạng hiện nay
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một trong
những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa với thế giới là đi
ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái lại mở cửa hội nhập
kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát
triển của mỗi nước. Xu hướng toàn cầu hóa được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của
nền kinh tế thế giới.
Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày càng tăng. Từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai, giá trị trao đổi trên thị trường toàn cầu tăng 12 lần. Cơ cấu
kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo cho Việt Nam phát
triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội mà hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng
được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc
năm châu.
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt
Nam. Nội dung của hội nhập là mở cửa cho nhau, vì vậy khi Việt Nam gia nhập các tổ
chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang các nước thành viên
cũng đã tăng đáng kể. Năm 1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6 triệu
USD, nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm
năng mở rộng thị trường hàng hóa Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta
có bán được hàng ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu
mã… hay nói cách khác là sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam ra sao.
11
11
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã có những bước
tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất,
sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. Tình
trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám sát nhu cầu thị
trường. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nhà nước chưa cao, tỉ lệ số doanh
nghiệp thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp thực sự
đáng lo ngại; nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của các doanh
nghiệp chiếm 133% tổng số vốn nhà nước các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không
xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ của nhà nước, chưa
tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Điều đáng lo ngại nữa hiện nay là mặc dù thời điểm hội nhập với khu vực và thế
giới đang gần , song tư tưởng đòi bảo hộ, chưa tích cực chuẩn bị còn phổ biến ở nhiều
doanh nghiệp. Theo điều tra của phong Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam mới có
84% doanh nghiệp điều tra trả lời là có nhận được tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp
chưa có hiểu biết về qua trình hội nhập. Trong các doanh nghiệp sản xuất hàng công
nghiệp chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng hóa xuất khẩu; 13,7% doanh nghiệp có triển
vọng xuất khẩu và 62,5% doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Việc
Trung Quốc,Đài Loan gia nhập WTO, việc 6 nước thành viên ASEAN cũ thực hiện AFTA
từ 1/1/2002 và gần đây Nhật bản kí thỏa thuận với Singapo về thành lập khu vực tự do
thương mại giữa hai nước, cũng như kế hoạch thành lập khu vực tự do thương mại giữa
Trung Quốc và ASEAN vào 2010 và sẽ tạo ra thuận lợi, song sẽ làm tăng cạnh tranh gay
gắt về kinh tế giữa các nước trong khu vực cũng như đối với nước ta về thương mại, đầu
tư.
3. Thuận lợi, thành tựu, ý nghĩa
a. Thuận lợi
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi trong thị trường xuất nhập
khẩu.Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các
chees độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường
thế giới. tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai.
12
12
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chúng ta đã và
sẽ tiếp tục thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Với cơ chế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lí theo quy định của
WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rẩ
quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà
còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học , công
nghệ tiên tiến.Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế , với đường lối đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp nhận vốn, tiếp thu tri thức
khoa học , công nghệ ,các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý của nước ngoài.
Hội nhập quốc tế (gia nhập WTO) sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế
về kinh tế , chính trị, ngoại giao.. Thực tế cho thấy vai trò của nước ta trong các hoạt
động của WTO, ASEAN, APEC,.. và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
b. Thành tựu:
Đường lối đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 xác lập đã tạo
ra sinh lực mới cho kinh tế đất nước tăng tốc phát triển trong mọi lĩnh vực. Từ một đất
nước bị chiến tranh tàn phá, trong vòng 25 năm qua, Việt Nam đã trở thành một trong
những nước thành công về phát triển kinh tế tại châu Á. Kể từ khi bắt đầu công cuộc cải
cách được biết đến với tên gọi “Đổi mới” vào năm 1986, Việt Nam đã liên tục dỡ bỏ
những rào cản đối với hoạt động thương mại và sự di chuyển của dòng vốn, mở rộng
cánh cửa và tạo sự bình đẳng cho khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động kinh tế.
Sự thay đổi ấn tượng của Việt Nam trong những năm qua nhờ những chính sách
đổi mới, mở cửa, hội nhập còn được phản ánh qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tích cực từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Trong vòng 10 năm qua, tỷ trọng việc làm nông nghiệp đã giảm đi 13%, trong khi tỷ
trọng việc làm công nghiệp và dịch vụ tăng thêm lần lượt là 9,6 và 3,4%. Tỷ trọng nông
13
13
nghiệp trong GDP giảm 6,7%, trong khi tỷ trọng các ngành công nghiệp lại tăng thêm
7,2%. Tốc độ tăng giá trị gia tăng trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã theo kịp mức
bình quân của nền kinh tế, tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ trong GDP luôn duy trì tương đối
ổn định.
Trên chính trường quốc tế, từ nước bị bao vây cấm vận, hầu như bị cô lập, Việt
Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, Liên hợp quốc,… nay Việt Nam đã trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hàng hóa Việt Nam vươn ra
hơn 100 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam trở thành một trong những chuỗi giá trị toàn
cầu, đáp ứng nhiều mặt hàng thiết yếu cho thị trường thế giới, thay vì phải nhập khẩu mọi
thứ như hai thập niên trước đây. Hoạt động xuất khẩu các sản phẩm cũng được hưởng lợi
về thuế và thị trường rộng lớn.
Trước đây, các hoạt động xúc tiến thương mại qua những trung tâm hội chợ triển
lãm chỉ do một số ít tổ chức của Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực xuất khẩu tham gia nhưng đến nay đã trở thành một hoạt động không thể
thiếu đối với tất cả doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước, kể cả
những tổ chức nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay, cả nước đã có 16 trung tâm hội chợ
triển lãm tại 14 tỉnh, với tổng diện tích là 815.667m2.
Các tập đoàn phân phối như Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Parkson
(Malaysia), Lotte của Hàn Quốc... đã và đang tiếp tục mở rộng phạm vi hoạt động với các
mô hình phân phối hiện đại, quản lý tiên tiến, vừa tạo sức cạnh tranh, vừa góp phần phát
triển hệ thống phân phối Việt Nam ngày càng văn minh, hiện đại.
Hàng hóa được cung ứng tương đối đầy đủ, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
của nhân dân. Đồng thời, gia tăng đầu tư đã giúp nâng cao tổng lượng vốn của Việt Nam,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tiếp cận với nguồn vốn, trang thiết bị và hạ tầng
cơ sở với số lượng và chất lượng tốt hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng sản xuất.
c. Ý nghĩa:
Hội nhập kinh tế trong lĩnh vực thương mại là mở cửa thị trường cho nhau, thực
hiện thuận lợi hàng hóa, tự do hóa thương mại và đầu tư: - Về thương mại hàng hóa: Các
14
14
nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu…, biểu
thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thỏa thuận… - Về thương
mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với các bốn phương thức: cung cấp
qua biến giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh
4. Hạn chế, nguyên nhân, giải pháp:
a. Hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong những năm qua còn bộc lộ không ít những khó khăn và hạn chế. Cụ thể:
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị
động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.
Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng
quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ,
gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức quốc tế.
Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực
chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế. Chưa hình
thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lý
cho việc thực hiện các cam kết. Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và
hiệu quả. Tình trạng phát triển dàn trải, không có trọng tâm của nền kinh tế trong điều
kiện các nguồn lực hạn chế đang kìm hãm khả năng tăng trưởng vượt bậc và bền vững.
Khả năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn rất khiêm
tốn, biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của đa số doanh
nghiệp còn khá lạc hậu.
Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ;
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các
ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao
hơn các nước khác trong khu vực. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh
15
15
nghiệp nước ngoài, dẫn đến một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc
mở cửa thị trường, nhập khẩu tăng mạnh, song thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm,
… Năng suất lao động tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi phí
mặt bằng rẻ, chi phí năng lượng thấp đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, sản phẩm.
Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội
ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Đội ngũ cán bộ
lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng;
cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng
trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch
mạnh sang hàng chế biến, chế tạo, nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; nhập siêu vẫn là nguy cơ, còn không ít bất cập trong cơ cấu nhập
khẩu. Về cơ bản nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng thương mại, vào khai thác
tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp và gia
công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá trị (dệt may, da giày, điện tử…).
Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, như: “Công tác nghiên cứu, dự báo
chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại
giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa
đối ngoại chưa thật đồng bộ”.
b. Giải pháp:
Để khắc phục những hạn chế, vượt qua những thách thức, thực hiện thành công
các mục tiêu và nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế, trước hết, cần tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa X “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”
trong tình hình mới gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất
là nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng.
16
16
Trước mắt, trên cơ sở nhận thức sâu rộng trong toàn Đảng, mọi tầng lớp nhân dân
về yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, về các cơ hội và thách thức, cần tập trung vào các
nhóm giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò các cơ quan quản
lý nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, tập hợp sức mạnh toàn dân, bảo đảm an ninh
chính trị, an ninh cơ sở, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh.
Tiếp tục thực hiện các chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô một cách kịp thời, linh
hoạt, hợp lý và củng cố, ổn định hệ thống và thị trường tài chính. Lựa chọn mục tiêu tăng
trưởng hợp lý trong từng thời kỳ dựa trên thông tin tích cực và dự báo chính xác, có căn
cứ khoa học để từ đó đưa ra chính sách phù hợp.
Thứ hai là, rà soát, củng cố, hoàn thiện một cách căn bản thể chế thực thi và giám
sát thực hiện các nghị quyết, chủ trương liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế (như Nghị
quyết số 22-NQ/TW, Nghị quyết số 31/NQ-CP), gắn các chủ trương này với kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và việc xử lý nhanh nhạy các vấn đề cấp bách nảy sinh trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp, nhằm thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh
vực. Tăng cường phổ biến và làm cho các doanh nghiệp, người lao động nắm vững các
chính sách, pháp luật, nhất là những nội dung liên quan đến thương mại và hội nhập kinh
tế quốc tế, về những cơ hội và thách thức khi gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế song
phương và đa phương.
Thứ ba là, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối
tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn
khổ quan hệ đã được xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa nước ta
với các đối tác; chủ động và tích cực hơn trong việc tham gia các thể chế đa phương. Xu
hướng đàm phán, ký kết FTA giữa các nước với nhau là một xu hướng ngày càng phát
triển trên toàn cầu, vì vậy, nếu Việt Nam không tham gia các thỏa thuận này thì khả năng
hàng hóa, dịch vụ của ta tiếp cận vào một số thị trường sẽ gặp khó khăn.
17
17
Thứ tư là, đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia.
Tổ chức tốt công tác thông tin thương mại quốc tế, dự báo thị trường để có giải pháp điều
hành phù hợp, hiệu quả. Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xúc
tiến thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm.
Thứ năm là, tiến hành cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, nâng cao trách
nhiệm quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước. Tăng cường chế tài và áp dụng
xử phạt hành chính đối với các trường hợp vi phạm. Chú trọng hơn công tác kiểm tra,
giám sát quá trình thực hiện chính sách.
Thứ sáu là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Phát triển mạnh hệ thống đào tạo nghề và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
phù hợp với nhu cầu thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch lao động
theo cung cầu của thị trường lao động; đẩy mạnh xuất khẩu lao động, khuyến khích
người lao động tự kiếm việc làm, tạo cơ hội bình đẳng về đào tạo và lựa chọn việc làm
cho người lao động.
Thứ bảy là, rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế
so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành
chính. Trên cơ sở các quy hoạch và kế hoạch được phê duyệt, tập trung các nguồn lực của
Nhà nước và các thành phần kinh tế để đầu tư, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt
là kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị và xây dựng nông thôn mới. Chuyển đổi căn bản cấu
trúc kinh tế truyền thống theo hướng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.
Thực hiện sản xuất và tiêu dùng sạch, bền vững, “từng bước phát triển năng lượng sạch…
Thứ tám là, có chính sách phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt Nam
có tiềm năng và lợi thế, nhất là chế biến nông sản. Chú trọng phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ để tránh phụ thuộc quá lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu và những cú sốc
khi giá nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng, đồng thời, tiết kiệm được một nguồn
ngoại tệ lớn.
Thứ chín là, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với củng cố an ninh quốc phòng. Phát
huy tinh thần chủ động, nỗ lực của các cấp, các ngành để khắc phục những tiêu cực của
18
18
cơ chế thị trường, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an ninh quốc gia.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp,
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham
gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức
liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương,
đa phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết
trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Trong giai đoạn vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo sát sao của
Chính phủ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển
khai chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế; tiến hành nghiên
cứu, đàm phán và ký kết nhiều thỏa thuận kinh tế thương mại quốc tế. Từ năm 2010 đến
nay, chúng ta đã chuyển sang giai đoạn chủ động đàm phán và ký kết các hiệp định
thương mại tự do (FTA) với nhiều nước trong khu vực và thế giới, tạo điều kiện quan
trọng cho cải cách kinh tế trong nước và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp, nâng
cao lợi thế cạnh tranh của hàng hóa. Hơn thế nữa, kết quả hội nhập kinh tế to lớn đó còn
giúp Việt Nam thực hiện chiến lược cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng
hơn, thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền
19
19
kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm. Do vậy, trong giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta phải
chủ động và tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại, vuợt qua các khó khăn thách thức, giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá
trình hội nhập.
20
20