i
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU...........................................................................................1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu........................................................1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu....................................................................6
2.1. Nghiên cứu Phê bình sinh thái trên thế giới và ở Việt Nam...............6
Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU..............................................................12
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÊ BÌNH SINH THÁI. .12
1.1. Khái niệm.............................................................................................12
1.2. Bản chất của phê bình sinh thái............................................................14
1.2.1. Tư tưởng nòng cốt của Phê bình sinh thái....................................15
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu của Phê bình sinh thái..................................16
1.2.3. Đối tượng văn bản của Phê bình sinh thái....................................17
1.2.4. Mục đích và nhiệm vụ của Phê bình sinh thái..............................19
1.3. Phương pháp nghiên cứu của phê bình sinh thái..................................20
1.3.2. Phương pháp diễn giải tác phẩm kinh điển..................................22
1.3.3. Phương pháp phân tích văn bản...................................................24
Tiểu kết chương 1............................................................................................27
CHƯƠNG 2. VẤN ĐỀ SINH THÁI TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
.........................................................................................................................28
2.1. Bức tranh thiên nhiên..........................................................................28
2.1.1. Thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt và bí ẩn..................................28
2.1.2. Thiên nhiên trù phú, đa dạng và thơ mộng....................................35
2.1.3. Thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa Nam Bộ..................................42
2.2. Quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên...................................46
2.2.1. Thiên nhiên là môi trường sống, trú ẩn và chở che con người......46
2.2.2. Thiên nhiên cung cấp nguồn sống cho con người.........................51
2.2.3. Thiên nhiên bồi đắp và thử thách phẩm chất của con người.........56
2.3. Tâm thế sống của con người giữa thiên nhiên......................................62
2.3.1. Con người gắn bó và am hiểu thiên nhiên sâu sắc........................62
2.3.2. Khai phá gắn liền với giữ gìn bảo vệ.............................................65
2.3.3. Biết ơn, tự hào và ngợi ca thiên nhiên...........................................69
Tiểu kết chương 2............................................................................................73
CHƯƠNG 3. TỰ SỰ SINH THÁI TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM. 74
3.1. Người kể chuyện sinh thái....................................................................74
3.1.1 Người kể chuyện và hành trình hình thành ý thức sinh thái...........74
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật......................................................................78
ii
3.1.3. Ngôi kể..........................................................................................80
3.2. Không gian thể hiện vấn đề sinh thái...................................................81
3.2.1. Không gian rừng............................................................................82
3.2.2. Không gian sông nước...................................................................84
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật thể hiện cảm quan sinh thái..............87
3.3.1. Ngôn ngữ.......................................................................................87
3.3.2. Giọng điệu.....................................................................................89
Tiểu kết chương 3............................................................................................93
KẾT LUẬN.....................................................................................................94
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................97
1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
1.1. Ý nghĩa, giá trị của Phê bình sinh thái
Môi trường tự nhiên là ngôi nhà chung của nhân loại, là không gian sống lí
tưởng cho tất cả sinh vật trong đó có con người. Môi trường không chỉ là nơi chứa
đựng và cung cấp tài nguyên cho đời sống sản xuất của con người mà còn là điều
kiện tiên quyết cho sự tồn tại của con người. Nói cách khác, không có môi trường
thì không có sự sống không có con người. Con người muốn duy trì sự sống và tồn
tại phải phụ thuộc rất nhiều vào môi trường vì đó là nguồn sống thiết thực và mang
lại cho đời sống con người sự phát triển phồn thịnh nhất.
Thấy được môi trường sống có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của
chúng ta như vậy ta mới thấm thía được hậu quả khôn lường nếu như môi trường
sống ấy bị ô nhiễm, bị suy thoái. Ngày nay, sự phát triển của kinh tế ngày càng
mạnh mẽ, con người quan tâm nhiều hơn đến vấn đề lợi nhuận, nguồn thu để đảm
bảo cuộc sống sinh hoạt mà vô tình hoặc cố ý xâm hại đến môi trường. Con người
sử dụng những tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, không đúng quy cách,
không chỉ làm cho những nguồn tài nguyên này trở nên cạn kiệt một cách nhanh
chóng mà còn làm cho môi trường bị ô nhiễm, khủng hoảng nghiêm trọng bởi cách
khai thác ấy. Một trong những mối hiểm họa mà con người đang phải đối mặt hiện
nay đó chính là nguy cơ sinh thái. Gần đây chúng ta liên tục phải chứng kiến những
thảm họa từ môi trường như: động đất, sóng thần, hạn hán, lũ lụt… đặc biệt là
những bệnh dịch mới xuất phát từ ô nhiễm môi trường, từ sự biến đổi khí hậu. Đã
đến lúc con người phải nhìn nhận lại cách ứng xử với môi trường và thay đổi thái
độ của mình trước khi quá muộn.
Văn học có khả năng thay đổi nhận thức của con người thông qua việc tác
động trực tiếp đến tình cảm bởi nói như Greg Garrad “Chúng ta làm gì đối với sinh
thái phụ thuộc vào quan niệm của chúng ta về quan hệ giữa con người và tự nhiên”
nên sẽ góp phần quan trọng trong việc giải trừ nguy cơ sinh thái. Vì vậy giữa thập
2
niên 90 của thế kỷ 20, Phê bình sinh thái đã ra đời. Đó là một xu hướng nghiên cứu
mang đậm tinh thần phê phán văn hóa. Phê bình sinh thái muốn hướng đến cải cách
văn hóa tư tưởng, thúc đẩy cách mạng phương thức sống, phương thức sản xuất, mô
hình phát triển, xây dựng văn minh sinh thái.
Vì vậy chú trọng nghiên cứu phê bình sinh thái trong bối cảnh nước ta hiện
nay không chỉ mang giá trị văn học mà điều quan trọng là khẳng định vai trò của
văn học đối với đời sống của con người, với những vấn đề bức thiết của xã hội. Đặc
biệt khi giảng dạy văn học trong trường phổ thông cần giáo dục cho học sinh ý thức
về việc bảo vệ và giữ gìn môi trường sinh thái là nhiệm vụ sống còn của tất cả mọi
người.
1.2. Vị trí của Đoàn Giỏi trong lịch sử văn học Việt Nam
Đoàn Giỏi là cây bút tiêu biểu của văn chương Nam Bộ thế kỉ XX. Tên thật
của ông là Đoàn Văn Giỏi. Ông sinh ngày 17/5/1925 tại xã Tân Hiệp, huyện Châu
Thành, tỉnh Tiền Giang. Ông còn có các bút danh khác như Nguyễn Hoài, Nguyễn
Phú Lễ, Huyền Tư. Đoàn Giỏi xuất thân trong một gia đình điền chủ yêu nước. Sau
khi học xong trung học ở Sài Gòn, Đoàn Giỏi từng theo học cao đẳng Mĩ Thuật Gia
Định những cuối cùng ông lại bén duyên với địa hạt văn chương. Tác phẩm đầu tay
của ông là truyện ngắn Nhớ cố hương được Hồ Biểu Chánh - cây bút kì cựu có uy
tín trong làng văn thời bấy giờ- chọn đăng trên tờ Nam Kỳ tuần báo (1943). Đây
chính là sự kiện có tính chất bước ngoặt đã làm tăng thêm động lực để Đoàn Giỏi
bước đi trên con đường mà mình đã chọn. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
Đoàn Giỏi đã trải qua nhiều biến cố và những ngã rẽ khác nhau trong nghề nghiệp
như: tham gia công tác chính trị, làm trưởng công an xã ở Châu Thành, làm phó ty
Tuyên truyền ở Mỹ Tho phụ trách mảng văn nghệ và kiêm chủ bút báo tiền Phong.
Nhưng cuối cùng ông vẫn gắn bó và trung thành với nghiệp văn, giữ chức Ủy viên
Ban chấp hành Hội nhà văn việt Nam các khóa I, II, III.
Đoàn Giỏi bắt đầu sự nghiệp văn chương từ năm 1943 nhưng phải đến khi
tập kết ra Bắc ông mới phát huy sức sáng tác dồi dào của mình. Các sáng tác của
ông phần lớn hướng về mảnh đất Nam Bộ, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Chính
3
tình yêu, sự gắn bó và niềm tự hào về mảnh đất quê hương giàu đẹp, trù phú đã khơi
nguồn cho những sáng tác của ông. Văn Đoàn Giỏi hút hồn người đọc bởi những
trang viết đặc sắc, ngồn ngộn chất liệu, hơi thở của một vùng sông nước thời kì
đang còn bị chia cắt, không mấy người tiếp cận được. Đoàn Giỏi sáng tác rất nhiều
thể loại từ truyện ngắn, truyện vừa, truyện ký đến thơ, kịch thơ. Trong đó có các tác
phẩm nổi tiếng như Cá bống mú (1956), Đất rừng phương Nam (1957), Hoa
hướng dương (1960), Ngọn tầm vông (1956), Trần Văn Ơn (1955), Khí hùng đất
nước (1948), Những dòng chữ máu Nam Kỳ (1975), Người Nam thà chết không
hàng (1947), Chiến sĩ Tháp Mười (1949), Giữ vững niềm tin ( 1954)….
Đoàn Giỏi được đánh giá là nhà văn Việt Nam đã dành cả cuộc đời
gắn bó với một vùng đất. Bởi những trang viết của ông mang linh hồn riêng và thấm
đẫm văn hóa Nam Bộ. Ông được mệnh danh là nhà Nam Bộ học, nhà văn hóa, nhà
sinh thái học của vùng đất phương Nam. Đánh giá về văn chương Đoàn Giỏi, nhà
văn Anh Đức từng nhận định: “Với một đời văn trên bốn mươi năm, nhà văn Đoàn
Giỏi đã để lại cho đời những dòng đẹp đẽ đậm sắc thái và đầy sinh thú về quê
hương, đất nước, con người ở vùng đất Nam bộ thân yêu của Tổ quốc ta. Văn của
nhà văn Đoàn Giỏi vừa mang chất trữ tình lại vừa mang tính chất lạ kỳ, sôi động”.
Hay Huỳnh Mẫn Chi khi nghiên cứu Đoàn Giỏi đã đưa ra nhiều nhận định sâu sắc
và xác đáng: “Văn chương của Đoàn Giỏi luôn mạnh mẽ, gai góc, cuồng nhiệt như
chính cá tính của ông”[6,21]. Huỳnh Mẫn Chi còn nhìn về giá trị văn chương của
Đoàn Giỏi xuất phát từ cái nhìn về tính cách con người của nhà văn. Chính cá tính
của Đoàn Giỏi đã chi phối các trang viết: “Một Đoàn Giỏi phóng khoáng hào hiệp
và luôn luôn sâu nặng với miền đất phương Nam. Tác phẩm của Đoàn Giỏi thường
đậm chất nghĩa khí và hào hùng. Dù có sinh sống, công tác và hoạt động ở đâu, ông
cũng luôn luôn hướng về về vùng đất Nam Bộ”[6,21]. Với những đóng góp thiết
thực và lớn lao trên các lĩnh vực hoạt động từ chính trị đến văn hóa, văn học. Đoàn
Giỏi đã được Nhà nước vinh danh với nhiều giải thưởng có giá trị như: Huy hiệu
Thành đồng Tổ quốc; Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng II; Huân chương
kháng chiến chống Mĩ cứu nước hạng I, Huy chương vì thế hệ trẻ; Huân chương
4
Độc lập hạng III…Đoàn Giỏi không chỉ là một tài năng lớn của văn chương Nam
Bộ mà còn là một trong những nhà văn có vị thế quan trong trong thi đàn văn học
nước nhà cuối thế kỷ XX.
1.3. Cảm quan sinh thái trong Đất rừng phương Nam
Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự
nghiệp sáng tác của Đoàn Giỏi. Cuốn sách được hoàn thành năm 1957 theo đơn đặt
hàng của nhà xuất bản Kim Đồng.
Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam không chỉ có giá trị sâu sắc về văn
hóa, văn học, lịch sử, địa lí…. mà đặc biệt đây là tác phẩm có nhiều yếu tố sinh thái.
Trong tác phẩm, nhà văn Đoàn Giỏi như một nhà sinh thái học đã đưa người đọc
khám phá một vùng đất Nam Bộ trải dài suốt từ hai triền sông Tiền, sông Hậu vào
đến tận rừng U Minh, mũi Cà Mau. Đó là một bức tranh thiên nhiên còn giữ được
nguyên dạng những nét hoang dã, sơ khai nhất của một thuở “mang gươm đi mở
cõi”.Một không gian với những sông ngòi kênh rạch chằng chịt, những cánh rừng
tràm, rừng đước bạt ngàn. Đặc biệt là sự phong phú đa dạng của các sản vật tự
nhiên trên rừng, dưới sông từ hổ, báo, hươu nai, chim, ong… đến tôm cua, ốc, cá,
rắn, rùa, cá sấu…Những trang viết của Đoàn Giỏi thấm đẫm hơi thở của rừng cây,
sông nước, những câu chuyện kì bí của thiên nhiên Nam Bộ hoang sơ. Vì thế trong
một bài nghiên cứu về Đoàn Giỏi, Đỗ Thành Nam đã gọi ông là Nhà văn của núi cả
cây ngàn. Hay như Huỳnh Mẫn Chi trong bài viết về Đoàn Giỏi và áng văn của đất,
của rừng phương Nam đã nhận xét rằng: “Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam chính
là tác phẩm nổi bật nhất trong quá trình sáng tác của Đoàn Giỏi, bởi bối cảnh câu
chuyện rất đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ. Với rừng tràm bạt ngàn, dòng sông
mênh mông, con đò bập bềnh, tôm cá đầy đàn, Đoàn Giỏi như gửi trọn vào tác
phẩm của mình. Đất rừng phương Nam đã mang đến người đọc nhiều thú vị về bối
cảnh, con người, tập tục văn hóa của vùng nông thôn Nam Bộ. Nội dung câu
chuyện cũng vậy, Đoàn Giỏi chỉ xoay quanh ở vùng đất Nam Bộ. Ông mượn hình
ảnh một cậu bé bị lưu lạc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ để giới
thiệu Đất rừng phương nam. Nơi đó, một vùng đất vô cùng giàu có, hào phóng và
5
hùng vĩ với những con người trung hậu, trí dũng, một lòng một dạ theo kháng chiến.
Tác phẩm gần như tập hợp tất cả đất rừng và người phương Nam. Có thể nói, Đất
rừng phương Nam của Đoàn Giỏi như một xã hội của miền sông nước Tây Nam Bộ
thu nhỏ. Bởi ở nơi đó, người đọc đã tìm thấy hình ảnh người dân của vùng đất
phương Nam từ sông Tiền, sông Hậu trải dài đến Kiên Giang- Rạch Giá, rồi xuống
tận rừng U Minh, sau đó dừng lại ở Năm Căn, Cà Mau. Bối cảnh trong Đất rừng
phương Nam là cả một đất trời thiên nhiên ưu đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông,
sóng nước rì rầm, rừng rậm bạt ngàn trù phú, thú rừng hoang dã muôn loài. Sự tài
tình của Đoàn Giỏi đã tái tạo lại bối cảnh sông nước, con người của thuở ông cha ta
còn mang gươm mở cõi”[6;18].
Yếu tố sinh thái trong Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi không chỉ
thể hiện ở việc làm sống dậy một thiên nhiên hoang sơ, khắc nghiệt, trù phú, đa
dạng mang đậm dấu ấn văn hóa Nam Bộ mà đặc biệt Đoàn Giỏi còn chú trọng đến
mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Trong tác phẩm, thiên nhiên
vừa là môi trường sống, là nơi trú ẩn và chở che cho con người. Thiên nhiên cung
cấp nguồn sống cho con người. Chính thiên nhiên đã bồi đắp và thử thách phẩm
chất của con người Nam Bộ. Có thể thấy trong tác phẩm, môi trường thiên nhiên
được khắc họa bằng một giọng điệu ngợi ca, tôn kính.. Nó như một người mẹ vừa
nghiêm khắc vừa hiền hòa bao dung và vô cùng nhân hậu đối với con người.
Đáng nói hơn trong tác phẩm này, nhà văn Đoàn Giỏi đã nhấn mạnh
được tâm thế sống, lối sống, cách ứng xử của con người với thiên nhiên đầy giá trị
sinh thái tích cực, nhân văn. Các nhân vật trong tác phẩm như gia đình ông Hai, Võ
Tòng, lão Ba Ngù, thầy giáo Bẩy và biết bao người lao động khác không chỉ am
hiểu và làm chủ thiên nhiên. Họ khai phá thiên nhiên trong sự giao hòa với một thái
độ tôn kính, biết ơn và ý thức giữ gìn bảo lưu để duy trì nguồn sống. Con người trở
về với thiên nhiên không đơn giản là tìm một chốn dung thân mà tìm được sự bình
yên trong tâm hồn. Tâm thế đó khác hẳn với tư tưởng chinh phục khắc chế tự nhiên
đơn giản để thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người.
6
Một trong những yếu tố tạo nên giá trị sinh thái của tiểu thuyết Đất
rừng phương Nam phải kể đến đó là nghệ thuật tự sự sinh thái. Đó là người kể
chuyện sinh thái, những biểu tượng sinh thái và một ngôn ngữ, giọng điệu mang
đậm giá trị sinh thái nhân văn.
Từ những biểu hiện trên, có thể khẳng định tiểu thuyết Đất rừng phương
Nam của nhà văn Đoàn giỏi là một tiểu thuyết có nhiều yếu tố sinh thái, là đối
tượng phù hợp để áp dụng hướng nghiên cứu phê bình sinh thái góp phần đem đến
cái nhìn mới mẻ, toàn diện về giá trị của tác phẩm và những đóng góp của nhà văn
Đoàn Giỏi trong lĩnh vực văn học.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu Phê bình sinh thái trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của Phê bình sinh thái trên thế giới
Khuynh hướng nghiên cứu Phê bình sinh thái bắt đầu hình hành trên thế
giới từ khoảng những năm 1970 của thế kỉ XX. Ban đầu, một số nhà nghiên cứu văn
học và văn hóa đã bắt đầu phát triển lí thuyết và phê bình ở góc độ sinh thái. Có thể
coi những nghiên cứu của họ là “nghiên cứu trước tác về tự nhiên” được định hình
bằng các tên gọi khác nhau như: chủ nghĩa đồng quê, chủ nghĩa địa phương, sinh
thái học con người, tự nhiên trong văn học, khoa học và văn học…Vào khoảng năm
1974, nhà nghiên cứu Joseph W. Meeker cho ra đời chuyên luận Sinh thái học của
văn học. Từ đó, thuật ngữ “sinh thái học văn học” lần đầu tiên xuất hiện, hình thành
một hướng nghiên cứu mới khai thác mối quan hệ giữa con người với các yếu tố
của tự nhiên. Tiếp sau đó là rất nhiều những công trình và chuyên luận của các nhà
phê bình nghiên cứu về vấn đề sinh thái ra đời và đã dần hình thành một hệ thống lí
thuyết về Phê bình sinh thái tuy chưa thực sự hoàn thiện nhưng đã tạo ra những tiền
đề căn bản cho hướng nghiên cứu này. Đến năm 2005 nhà nghiên cứu Lawrence
Buell đã công bố chuyên luận Tương lai của phê bình môi trường: khủng hoảng môi
trường và tưởng tượng văn học. Chuyên luận đã đề xuất hướng nghiên cứu phê bình
sinh thái trong mối tương quan với văn học và văn hóa. Hiện nay, Phê bình sinh thái
7
không chỉ nghiên cứu tự nhiên hay hiện hữu tự nhiên trong tác phẩm văn học mà
còn quan tâm đến tất cả các yếu tố liên quan tới sự biến đổi môi trường. Có thể
khẳng định, phê bình sinh thái đã vượt khỏi giới hạn của văn học. Phê bình sinh thái
đang là một khuynh hướng nghiên cứu văn học có sự phát triển mạnh mẽ trên toàn
thế giới.
2.1.2. Sự phát triển phê bình sinh thái ở Việt Nam
Ở nước ta, phê bình sinh thái mới bắt đầu xuất hiện khoảng năm năm
gần đây. Năm 2011, trong Hội thảo quốc tế về “Tiếp cận văn học châu Á từ lí thuyết
phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ hội” Karen Thornber
đã giới thiệu khái quát và đem đến những khái niệm cơ bản nhất về bản chất, ý
nghĩa và phương thức của nghiên cứu văn chương môi trường và những vấn đề cốt
lõi phê bình sinh thái đang hướng đến. Năm 2012 tiến sĩ Đỗ Văn Hiểu có bài: Phê
bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu mang tính cách tân và Phê bình sinh thái
- cội nguồn và sự phát triển đã đem đến cái nhìn bao quát về hướng nghiên cứu phê
bình sinh thái trên thế giới, đồng thời chỉ ra nguồn gốc tư tưởng của phê bình sinh
thái. Bản dịch của Trần Ngọc Hiếu Những tương lai của phê bình sinh thái và văn
học đã khẳng định khả năng phát triển của phê bình sinh thái. Năm 2013 Nguyễn
Thị Tịnh Thy có bài viết Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc. Bài viết
đã thể hiện cảm quan hậu hiện đại thể hiện rõ nét ở đặc điểm giải cấu trúc qua
những đặc trưng: tản quyền, lệch tâm, cái chết của chủ thể, tính đối thoại, lật đổ và
tái thiết… Đến năm 2017, Nguyễn Thị Tịnh Thy lại cho ra đời cuốn sách Rừng khô,
suối cạn, biển độc và văn chương, do NXB Khoa học Xã hội xuất bản. Cuốn sách là
chuyên luận khái quát lịch sử phát triển của phê bình sinh thái, chỉ ra cơ sở hình
thành và tình hình ứng dụng lí thuyết phê bình sinh thái hiện nay. Tháng 6 – 2017,
Đỗ Văn Hiểu công bố công trình nghiên cứu Phê bình sinh thái – khuynh hướng
nghiên cứu văn học mới và ứng dụng ở Việt Nam. Công trình đã hệ thống hóa lí
thuyết phê bình sinh thái, chỉ ra những đặc trưng riêng biệt, đồng thời cho thấy khả
năng phát triển của phê bình sinh thái ở nước ta trong tương lai. Bên cạnh những
chuyên luận, những công trình nghiên cứu chuyên sâu, sự phát triển của hướng
8
nghiên cứu văn học này còn thể hiện ở các luận văn, luận án. Năm 2015 trong luận
văn thạc sĩ của Lê Thị Huệ nghiên cứu Tu từ học sinh thái trong Truyện Kiều đã thể
hiện một cảm quan sinh thái về môi trường và đề xuất khuynh hướng đạo đức sinh
thái đang rất cần thiết trong thời điểm hiện tại. Luận án tiến sĩ của Trần Thị Ánh
Nguyệt với đề tài Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc
nhìn phê bình sinh thái đã bước đầu kiến lập cảm quan đạo đức sinh thái. Trong sự
so sánh với các trào lưu, khuynh hướng nghiên cứu khác thì phê bình sinh thái trên
thế giới và cả Việt Nam vẫn là một hướng đi khá mới mẻ, chưa có sự hoàn thiện về
mặt lí thuyết cũng như còn hạn chế trong ứng dụng. Đẩy mạnh nghiên cứu văn học
theo hướng phê bình sinh thái sẽ góp phần thiết thực làm thay đổi nhận thức của con
người trong vấn đề môi trường sinh thái.
2.2. Về tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam là tác phẩm tiêu biểu đã khiến tên tuổi
của nhà văn Đoàn Giỏi trở nên thân thuộc với bạn đọc cả nước qua nhiều thế hệ.
Tác phẩm đã thu hút sự quan tâm không chỉ của bạn đọc mà còn trở thành đề tài
khai thác và nghiên cứu cho các nhà văn, nhà phê bình. Đầu tiên phải kể đến các bài
viết của các nhà nghiên cứu như tác giả Huỳnh Mẫn Chi với bài viết về Đoàn Giỏi
và áng văn của đất, của rừng phương Nam. Trong đó, người viết đã thâu tóm tất cả
vẻ đẹp hoang sơ, trầm tịch của vùng đất phương Nam và tính cách giản dị và mộc
mạc của chính Đoàn Giỏi, đồng thời đưa đến nhiều nhận định sâu sắc và xác đáng.
Huỳnh Mẫn Chi đã nhìn nhận giá trị văn chương của Đoàn Giỏi xuất phát từ tính
cách và con người của nhà văn để làm nổi bật sự chi phối của cá tính nhà văn qua
từng trang viết. Nhà văn Văn Hồng trong Hiệp sĩ Đất rừng phương Nam cũng đã
nhấn mạnh vai trò của Đoàn Giỏi trong việc tái hiện bức tranh hoành tráng, chân
thực về mảnh đất và con người Nam Bộ. Tác giả Lưu Hồng Sơn có bài nghiên cứu
Đoàn Giỏi - người lưu giữ huyền thoại phương Nam cũng giúp chúng ta hiểu rõ vai
trò to lớn của Đoàn Giỏi khi viết về vùng đất phương Nam với tư cách là người lưu
giữ huyền thoại. Vẫn là nghiên cứu Đoàn Giỏi trên cái nhìn gắn liền với vùng đất và
con người Nam Bộ nhưng Lưu Hồng Sơn đã đi sâu hơn vào bút pháp nghệ thuật
9
độc đáo để lột tả hết các kì bí, hấp dẫn, lôi cuốn của thời kỳ khai hoang vùng đất
phương Nam. Lưu Hồng Sơn làm nổi bật tài năng quan sát và lối viết tài hoa của
Đoàn Giỏi đã làm sống dậy cả linh hồn của núi rừng, sông nước vùng đất phương
Nam. Đặc biệt, Lưu Hồng Sơn còn đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật huyền thoại
hóa với nhưng cái li kì huyền bí của thiên nhiên. Tác giả còn chỉ ra những nguyên
nhân khách quan và chủ quan để lí giải vì sao Đoàn Giỏi lại chuyên tâm đầu tư vào
Đất rừng phương Nam xuất sắc đến thế. Bài viết Sinh thái nghệ thuật trong văn
xuôi Đoàn Giỏi của Nguyễn Thị Quế Vân và Lâm Hoàng Phúc đăng trên tạp chí
Khoa học của Đại học Văn Hiến đã bàn về vấn đề giải huyền thoại nhân văn chủ
nghĩa và tiến đến quan điểm tự nhiên trung tâm luận dựa trên sự xem xét mối quan
hệ giữa con người và thiên nhiên trong sinh giới qua các tác phẩm của Đoàn Giỏi.
Ngoài những bài viết của những nhà thơ nhà văn, nhà nghiên cứu và phê
bình chuyên nghiệp, tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi còn trở thành
đề tài được lựa chọn để nghiên cứu của rất nhiều những luận văn, luận án thạc sĩ,
tiến sĩ trong lĩnh vực văn học như: đề tài Thiên nhiên và con người Nam Bộ trong
Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi trong luận văn thạc sĩ của Lê Thế Hải- Đại
học Tây Đô; hay Phương ngữ Nam bộ trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của
Đoàn Giỏi của Nguyễn Thị Thị Yến Ly- Đại học Cần Thơ; luận văn của Nguyễn
Thị Hoa Hải với đề tài Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của
Đoàn Giỏi và ý nghĩa giáo dục với học sinh tiểu học; luận văn Đặc điểm nội dung
tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi của Lê Thị Bảo Trân- Đại
học Cần Thơ và đề tài Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi dưới góc
nhìn địa văn hóa của Bùi Thị Xuân Quyên- Đại học Quốc Gia Hà Nội….Nhìn
chung, có rất nhiều bài chuyên luận, nghiên cứu về nhà văn Đoàn Giỏi và tiểu
thuyết Đất rừng phương Nam ở các góc độ khác nhau nhưng chủ yếu xoay quanh
các giá trị nội dung, nghệ thuật và văn hóa vì vậy lựa chọn đề tài Tiểu thuyết Đất
rừng phương Nam của Đoàn Giỏi từ góc độ phê bình sinh thái, người viết hướng
đến tìm hiểu về hệ sinh thái đa dạng mang đặc trưng của vùng Nam Bộ, đặc biệt là
10
mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên nơi đây để làm rõ những giá trị sinh thái
ẩn tàng trong tác phẩm và đem đến một góc nhìn mới về cuốn sách giá trị này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
- Hệ thống những vấn đề cơ bản của Phê bình sinh thái
- Chỉ ra và phân tích, đánh giá vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết Đất rừng
phương Nam
- Chỉ ra và phân tích, đánh giá giá trị nghệ thuật của Đất rừng phương Nam
trong việc thể hiện vấn đề sinh thái.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm nổi bật một số vấn đề cơ bản của phê bình sinh thái như:
Những luận điểm mang tính chất lí luận về sinh thái như: khái niệm, bản chất của
Phê bình sinh thái, phương pháp nghiên cứu của Phê bình sinh thái.
- Làm rõ các vấn đề sinh thái và nghệ thuật thể hiện vấn đề sinh thái trong
Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Một số vấn đề cơ bản của Phê bình sinh thái.
- Vấn đề sinh thái và nghệ thuật thể hiện vấn đề sinh thái trong Đất rừng
phương Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tài liệu nghiên cứu bằng tiếng Việt về Phê bình sinh thái.
- Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, Nhà xuất bản
Văn hóa- Thông tin. [2008]
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi vận dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu sau:
11
5.1. Phương pháp liên ngành (văn hóa học)
Phê bình sinh thái thể hiện rõ nét hướng nghiên cứu văn hóa, kết hợp phân
tích văn bản văn học. Vì vậy, trong luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên
cứu liên ngành. Nghiên cứu tác phẩm văn học trong mối liên hệ với các ngành khoa
học xã hội như: Xã hội học, nhân chủng học, ngôn ngữ học…
5.2. Phương pháp tự sự học: Đất rừng phương Nam thuộc thể loại tiểu thuyết nên
phương pháp tự sự học sẽ làm rõ nghệ thuật thể hiện vấn đề sinh thái trong tác
phẩm.
5.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phê bình sinh thái không xa rời tác phẩm
văn học. Phân tích những yếu tố nghệ thuật thuộc nội tại văn bản là cơ sở để
đưa ra kết luận về tư tưởng sinh thái trong tác phẩm.
5.4. Phương pháp hệ thống: Nghiên cứu biểu hiện của các yếu tố sinh thái trong
tiểu thuyết Đất rừng phương Nam cần có cái nhìn hệ thống để có cái nhìn toàn
diện và sâu sắc hơn.
5.5. Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu tác phẩm văn học gắn liền với bối cảnh lịch
sử mà nó ra đời đồng thời nhìn nhận phê bình sinh thái ở sự vận động của nó
trong dòng thời gian, cũng như đặt nó trong những thời điểm lịch sử cụ thể để
có được những đánh giá khách quan về cống hiến của nó đối với nghiên cứu
văn học.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn của tôi gồm ba
chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản của Phê bình sinh thái.
Chương 2: Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong tiểu thuyết Đất rừng
Phương Nam.
Chương 3: Tự sự sinh thái
12
Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÊ BÌNH SINH THÁI
1.1. Khái niệm
Phê bình sinh thái là hướng nghiên cứu văn học vẫn còn mới mẻ so với
những trào lưu, khuynh hướng nghiên cứu khác, vì vậy hệ thống lí thuyết chưa hoàn
thiện. Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào về phê bình sinh thái.
Tuy nhiên trong suốt quá trình hình thành, phát triển để đi đến hoàn thiện xu hướng
nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra rất nhiều những định
nghĩa thể hiện quan điểm và cách nhìn nhận về Phê bình sinh thái. Tiêu biểu là một
số định nghĩa sau:
Thứ nhất, định nghĩa của James S. Hans: “Phê bình sinh thái là khảo sát
văn học (và các loại hình nghệ thuật khác) trong bối cảnh xã hội và trái đất. Văn học
không tồn tại riêng biệt và tách biệt với thế giới bên ngoài, vì thế nếu chúng ta chỉ
giới hạn bàn luận về văn học ở bàn luận về tính văn học thì sẽ làm đứt quan hệ vô
cùng quan trọng giữa văn học với các hệ thống khác, mà chính những quan hệ này
lại kết hợp sự biểu đạt quan niệm giá trị của chúng ta”[10,21]. Với quan niệm trên,
James S.Hans đã khẳng định sự ưu việt của Phê bình sinh thái so với các khuynh
hướng nghiên cứu văn học trước đó. Bởi các phương pháp phê bình văn học trước
đó chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề thuộc nội tại của văn bản, tách
văn chương ra khỏi môi trường hình thành và phát triển thì Phê bình sinh thái lại
quan tâm tới mối liên hệ giữa tác phẩm văn chương và “thế giới bên ngoài” để
nhằm khám phá những “mối quan hệ vô cùng quan trọng” và phát hiện ra những giá
trị phong phú của nó mà một số phương pháp nghiên cứu khác đã bỏ qua.
Thứ hai là định nghĩa của Scott Slovic: “Phê bình sinh thái chỉ hai
phương diện nghiên cứu, vừa có thể sử dụng phương pháp của bất kì ngành khoa
học nào nghiên cứu tài liệu về tự nhiên; vừa có thể nghiên cứu cặn kẽ hàm nghĩa
sinh thái và quan hệ giữa con người với tự nhiên trong bất kì văn bản văn học nào,
cho dù những văn bản đó thoạt nhìn chỉ là những văn bản miêu tả thế giới phi nhân
13
loại” [10,21]. Từ định nghĩa này có thể thấy Scott Slovic đã chỉ ra sự linh hoạt trong
phương pháp nghiên cứu của Phê bình sinh thái. Khái niệm này giúp người đọc hình
dung mối quan hệ giữa Phê bình sinh thái với các lĩnh vực khoa học khác để tìm ra
mối liên hệ giữa con người và tự nhiên. Đặc biệt là khẳng định được giá trị sinh thái
tiềm ẩn trong các văn bản khác nhau. Từ đó có thể vận dụng những kiến thức khoa
học tự nhiên vào nghiên cứu văn chương.
Thứ ba là quan niệm của Cherlly Glotfelty cho rằng “Phê bình nghiên
cứu bàn luận về quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên”, “tất cả Phê bình
sinh thái đều có chung một tiền đề cơ bản, đó là quan hệ tương tác giữa văn hóa
nhân loại và thế giới vật chất, văn hóa ảnh hưởng đến thế giới vật chất, đồng thời
cũng chịu ảnh hưởng của thế giới vật chất. Phê bình sinh thái lấy quan hệ qua lại
giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là quan hệ giữa tự nhiên và tác phẩm ngôn ngữ
văn học làm chủ đề. Với tư cách là một lập trường phê bình, Phê bình sinh thái một
chân đứng ở văn học, một chân đứng ở trái đất; với tư cách là một diễn ngôn lí
thuyết, nó hài hòa giữa nhân loại và phi nhân loại”[10,22]. Có thể thấy khái niệm
của Cherlly Glotfelty dường như đưa đến cách hiểu mọi tác phẩm văn học có phản
ánh mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên thì đều có thể trở thành đối tượng
của phê bình sinh thái. Quan điểm trên đã khẳng định mối quan hệ giữa văn học và
thế giới tự nhiên. Mặc dù trong sáng tác văn học rất nhiều tác phẩm xuất hiện yếu tố
tự nhiên hoặc phản ánh mối quan hệ giữa tự nhiên và con người nhưng không phải
là đối tượng của phê bình sinh thái. Tuy nhiên ta vẫn có thể xem xét tác phẩm ở một
góc độ nào đó để thấy được ý nghĩa sinh thái nhân văn.
Thứ tư, định nghĩa của nhà nghiên cứu người Trung Quốc Vương Nặc
“Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên cứu bàn luận về quan hệ giữa văn
học và tự nhiên dưới sự chỉ đường của tư tưởng chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là của
chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Nó phải làm rõ tư tưởng sinh thái ẩn tàng trong tác
phẩm văn học tức là phê bình sinh thái phải làm rõ tư tưởng sinh thái tiềm ẩn trong
tác phẩm và phơi bày những căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái
đã được phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời cũng phải khám phá giá trị
14
thẩm mĩ sinh thái và những biểu hiện nghệ thuật của nó trong văn học [10]. Có thể
thấy trong số những cách định nghĩa khác nhau của các nhà nghiên cứu về phê bình
sinh thái, định nghĩa của Vương Nặc bao quát và toàn diện hơn cả bởi không chỉ
nhấn mạnh mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên mà còn nhấn mạnh nhiệm vụ của
phê bình sinh thái thể hiện trong tác phẩm ở cả hai phương diện nội dung và nghệ
thuật.
Đặc biệt ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy trong công trình
nghiên cứu mang tên “Rừng khô, suối cạn, biển độc…và văn chương” sau khi phân
tích, đối sánh các định nghĩa về phê bình sinh thái của các nhà nghiên cứu trên thế
giới đã đưa ra một định nghĩa riêng rất rõ ràng dễ hiểu. Theo bà “Phê bình sinh thái
là phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hướng
tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm”
[29, 44].
Từ các định nghĩa trên về Phê bình sinh thái có thể xác định tư tưởng
cốt lõi của Phê bình sinh thái là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Đối tượng nghiên cứu
là mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, đặc biệt là những tác động
tiêu cực của con người đối với môi trường tự nhiên dẫn đến việc môi trường ngày
càng bị hủy hoại nghiêm trọng vì vậy nỗi niềm kính sợ của con người trước thiên
nhiên cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của xu hương phê bình này. Mục đích và
nhiệm vụ hàng đầu của phê bình sinh thái đó là nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, tiến
hành phê phán văn hóa và đồng thời chỉ ra những căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn
đến các nguy cơ sinh thái. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
phê bình sinh thái vì thế nó khiến phê bình sinh thái trong những ngày đầu mang
đậm tính chất phê phán văn hóa.
1.2. Bản chất của phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu mới nên muốn ứng dụng có
hiệu quả vào thực tế trước hết cần xác định rõ bản chất của nó thông qua việc xác
định tư tưởng nòng cốt, phạm vi nghiên cứu, đối tượng, mục đích và những nhiệm
vụ cụ thể của hướng nghiên cứu này. Từ đó có thể vận dụng vào việc nghiên cứu
15
một tác phẩm cụ thể trên cơ sở vừa kế thừa thành tựu lí thuyết của các nhà nghiên
cứu trên thế giới vừa phù hợp với thực tiễn văn học ở Việt Nam. Dựa trên nghiên
cứu của tiến sĩ Đỗ Văn Hiểu trong công trình Phê bình sinh thái – khuynh hướng
nghiên cứu văn học mới và ứng dụng ở Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên
cứu khoa học và công nghệ cấp trường, Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2017, có thể
xác định bản chất đặc thù của phê bình sinh thái qua các yếu tố sau:
1.2.1. Tư tưởng nòng cốt của Phê bình sinh thái
Để làm rõ bản chất của Phê bình sinh thái, ta cần xác định tư tưởng
nòng cốt của Phê bình sinh thái chính là Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (ecological
holism). Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái vốn là tư tưởng hạt nhân của triết học sinh
thái, nó đối lập hoàn toàn với tư tưởng nhân loại trung tâm chủ nghĩa, bởi vậy, nó đã
trở thành cơ sở quan trọng nhất của Phê bình sinh thái. Tư tưởng cốt lõi nhất của
chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái chính là việc xác lập lợi ích chỉnh thể của hệ thống
sinh thái trở thành giá trị cao nhất và coi việc việc duy trì hoàn chỉnh, hài hòa, ổn
định, cân bằng hệ thống sinh thái cũng như duy trì sự tồn tại là thước đo căn bản
nhất, là tiêu chuẩn cuối cùng để đánh giá phương thức sống của loài người, sự tiến
bộ của khoa học kĩ thuật, sự tăng trưởng của kinh tế và phát triển xã hội. Đây là yếu
tố cơ bản khiến Phê bình sinh thái có sự khác biệt so với các xu hướng nghiên cứu
văn học trước đó. Chẳng hạn như Chủ nghĩa hình thức, Chủ nghĩa cấu trúc, Chủ
nghĩa lịch sử mới, Phê bình nữ quyền, hay như Chủ nghĩa duy vật văn hóa… đều có
chung tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “nhân loại trung tâm luận”.Còn hướng Phê bình
sinh thái lại xác định tư tưởng nòng cốt là tư tưởng “sinh thái trung tâm luận”. Tư
tưởng đề cao sinh thái trung tâm luận đã thể hiện sự cân bằng và hài hòa giữa lợi ích
của con người và những lợi ích của tự nhiên. Như vậy Phê bình sinh thái vẫn coi
trọng những lợi ích của con người. Phê bình sinh thái chỉ phê phán những tư tưởng
tư tưởng và hành động cao ngạo, mù quáng tự cho phép con người có quyền tùy ý
bóc lột tự nhiên, coi việc chiếm đoạt và chà đạp tự nhiên như một cách để khẳng
định sức mạnh và khả năng chinh phục của con người. Xuất phát từ tư tưởng chung
đó, Phê bình sinh thái đã xác lập những nguyên tắc thẩm mĩ riêng. Hướng phê bình
16
này vừa lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm tư tưởng triết học làm cơ sở vừa lấy
thẩm mỹ sinh thái làm nguyên tắc chỉ đạo. Nhờ việc xác định được một nguyên tắc
mỹ học riêng cho nên phê bình sinh thái khác hẳn các hoạt động nghiên cứu môi
trường thông thường. Phê bình sinh thái phải “một chân đặt ở địa cầu, một chân đặt
ở văn học”. Nguyên tắc thẩm mỹ của phê bình sinh thái “Trước tiên, thẩm mỹ sinh
thái là thẩm mỹ mang tính tự nhiên, nó không phải là sự trừu tượng hóa trên cơ sở
kinh nghiệm thẩm mỹ cụ thể, cũng không phải là thông qua đối tượng cụ thể thể
hiện tư tưởng tình cảm, nhân cách của chủ thể thẩm mỹ. Trong thẩm mỹ sinh thái
không tồn tại quan hệ chủ thể – khách thể, con người cảm nhận tự nhiên, thiết lập
quan hệ chủ thể tương giao với đối tượng thẩm mỹ” [10,25]. Do đó thẩm mĩ sinh
thái lấy thẩm mĩ tự nhiên để làm mục đích chứ không phải thủ đoạn, các nhà văn
sinh thái thường mang niềm tôn kính yêu thương, gắn bó, say mê tự nhiên, muốn
cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên chứ họ không phải coi tự nhiên như là công cụ để
biểu hiện bản ngã, hay biểu hiện tâm thái của con người. Sẽ không phải là thẩm mĩ
sinh thái đúng nghĩa nếu như mục đích và xuất phát điểm của việc bàn luận về mối
quan hệ hòa hợp giữa tinh thần con người và tự nhiên đơn giản là vì bản thân con
người, trong khi tự nhiên lại là phương tiện, là công cụ để con người nhận thức về
bản thân mình. Bởi tự nhiên không phải chỉ tồn tại vì một mình lợi ích của con
người, mà còn vì tất cả mọi sinh vật và phi sinh vật khác. Nhận biết tự nhiên không
đơn giản chỉ để thực hiện mục đích nhận biết bản thân con người, mà quan trọng
hơn là để nhận biết và tôn trọng những quy luật của tự nhiên và cảm nhận những vẻ
đẹp của bản thân tự nhiên mới là mục đích cao cả nhất.
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu của Phê bình sinh thái
Phạm vi của phê bình sinh thái chính là mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên trong các tác phẩm văn học. Thực ra mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên đã được đề cập từ trước đó chứ không phải đến phê bình sinh thái mới được
chú ý. Tuy nhiên, các hướng phê bình khác lại tập trung chủ yếu vào việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội và có quan tâm tìm
hiểu mối quan hệ giữa nhân vật với môi trường tự nhiên, đặc biệt chú ý nghiên cứu
17
những tác động của môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến tính cách con người như
thế nào. Còn hướng phê bình sinh thái đã xác định quan hệ giữa con người và tự
nhiên là đối tượng chính trong nghiên cứu. Từ cơ sở này, phê bình sinh thái đã triển
khai đối tượng chính của mình thành các khía cạnh chi tiết hơn để tiến hành nghiên
cứu cụ thể. Chẳng hạn nghiên cứu mối quan hệ quan hệ hài hòa giữa con người với
thế giới tự nhiên, Vì thế trong văn học trung đại con người và tự nhiên là bầu bạn.
Con người chọn cách trở về với thiên nhiên, sống hòa mình vào thiên nhiên như là
cách để di dưỡng tinh thần (Cảnh ngày hè, Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi hay Nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm…) hoặc những tác phẩm về tuổi thơ ở những vùng nông
thôn hay ca ngợi vẻ đẹp của tự nhiên. Ngoài ra có thể nghiên cứu về sự tác động
tiêu cực của con người đến môi trường tự nhiên đã dẫn đến hủy hoại môi trường tự
nhiên, làm suy thoái môi trường tự nhiên chẳng hạn như hành động khai thác tài
nguyên thiên nhiên bừa bãi, sử dụng thuốc trừ sâu, hóa chất hay đánh bắt bằng
thuốc nổ, kích điện, săn bắn tận diệt động vật hoang dã, xây dựng các công trình
thủy điện không hợp lí gây động đất hoặc sử dụng vũ khí hóa học hủy hoại tàn phá
môi trường nặng nề… Hoặc cũng có thể nghiên cứu niềm kính sợ của con người
trước tự nhiên bằng cách đề cập đến thiên nhiên hiện hình lên như những thảm họa
thiên tai như lũ lụt, bão dữ, sấm chớp, động đất, núi lửa, sóng thần, đại hồng thủy…
Có thể thấy sự khác biệt cơ bản nhất của phê bình sinh thái so với
các khuynh hướng phê bình văn học trước đó là chuyển từ việc chủ yếu nghiên cứu
mối quan hệ giữa con người và con người sang nghiên cứu mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên với nhiều biểu hiện phong phú.
1.2.3. Đối tượng văn bản của Phê bình sinh thái
Đối tượng của Phê bình sinh thái thực chất không phải là tất cả các
tác phẩm văn chương có sự xuất hiện của yếu tố thiên nhiên. Tuy nhiên, việc xác
định các tiêu chí xác lập đối tượng của hướng phê bình này không phải điều đơn
giản bởi vì phê bình sinh thái khi so sánh với các phương pháp phê bình văn học
khác thực sự còn rất mới mẻ, chưa có sự hoàn thiện về mặt lí thuyết và cả phương
pháp nghiên cứu. Theo quan điểm của Vương Nhạc Xuyên “cái gọi là văn học sinh
18
thái chủ yếu là chỉ những tác phẩm mẫn cảm góp phần phơi bày nguy cơ sinh thái
sinh thái thế giới hiện đại, phê phán quan điểm giá trị chủ nghĩa nhân loại trung
tâm, phản đối với nền văn minh hiện đại dẫn đến nguy cơ sinh thái” [12,29]. Do đó
phê bình sinh thái thường nghiên cứu những tác phẩm văn học mang cảm quan sinh
thái. Những tác phẩm có thể trở thành đối tượng của phê bình sinh thái phải có sự
nhìn nhận, đánh giá lại mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên. Tác phẩm
đó phải thể hiện được sự phê phán sinh thái. Đây chính là một trong những yếu tố
quan trọng nhất để xác định tác phẩm văn học ấy có thể trở thành đối tượng của phê
bình sinh thái được không hay thiên nhiên trong tác phẩm đơn thuần chỉ là một yếu
tố phụ, yếu tố nền để văn bản sinh động hơn. Văn học sinh thái có khả năng thức
tỉnh ý thức của mọi người trong hoàn cảnh vấn đề sinh thái bị xuống cấp không còn
là nguy cơ tiềm ẩn nữa mà thực sự đã trở thành một hiểm họa lớn đối với cả xã hội
loài người. Văn học sinh thái vừa hướng tới mối quan hệ hài hòa giữa con người và
tự nhiên, vừa thể hiện sự phê phán những sai lầm trong tư tưởng và hành động của
con người đã dẫn tới hậu quả là môi trường tự nhiên bị tàn phá nghiêm trọng. Như
vây có thể khẳng định, đối tượng nghiên cứu của phê bình sinh thái thực tế không
phải là các tác phẩm phản ánh thiên nhiên một cách thuần túy mà trong đó cần phải
có tư tưởng phê phán văn hóa sinh thái. Tuy vậy, một số tác phẩm không nằm trong
dòng văn học sinh thái nhưng lại có những biểu hiện của tư tưởng sinh thái thì vẫn
có thể trở thành đối tượng nghiên cứu phù hợp của phê bình sinh thái. Trong thực tế,
Phê bình sinh thái ra đời tương đối muộn so với các hướng phê bình nghiên cứu
khác nên việc xác định đối tượng nghiên cứu còn nhiều bất cập bởi số lượng tác
phẩm viết về đề tài này chưa nhiều nên việc mở rộng đối tượng nghiên cứu sẽ mở ra
hướng phát triển của lí thuyết về phê bình sinh thái trong tương lai. Qua đó có thể
khẳng định, đối tượng của nghiên cứu phê bình sinh thái không chỉ bó hẹp ở các
sáng tác văn học sinh thái đơn thuần mà bao gồm tất cả những tác phẩm thể hiện lập
trường văn hóa sinh thái rõ ràng, hướng tới sự hài hòa giữa con người và thiên
nhiên, đặc biệt ý thức rõ về ngững nguy cơ sinh thái nhằm thức tỉnh mọi người góp
phần thay đổi cách ứng xử của con người với tự nhiên góp phần giải trừ những nguy
19
cơ sinh thái. Đó là các tác phẩm văn học sinh thái hiểu theo nghĩa rộng “có ý thức
văn hóa sinh thái... những tác phẩm này không trực tiếp nhắc đến từ khóa “sinh
thái”, thậm chí cũng không đem hậu quả của nguy cơ sinh thái đẩy đến mức độ
khiến người ta phải kinh sợ, nhưng không thiếu sự phê phán sâu sắc văn minh hiện
đại đối lập, làm xa rời con người và tự nhiên. Do đó việc xác định đối tượng nghiên
cứu của phê bình sinh thái không nên cứng nhắc mà cần phải có sự linh hoạt sẽ giúp
cho phê bình sinh thái vừa có hướng đi riêng vừa không bị mờ nhạt so với các
khuynh hướng nghiên cứu phê bình khác.
1.2.4. Mục đích và nhiệm vụ của Phê bình sinh thái
Xuất phát từ hoàn cảnh thực tế, Phê bình sinh thái ra đời trong tình
hình môi trường sinh thái đang đứng trước những nguy cơ nghiêm trọng nên có thể
thấy “mục đích nhiệm vụ hàng đầu của Phê bình sinh thái là nhìn nhận lại văn hóa
nhân loại, tiến hành phê phán văn hóa, chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến
nguy cơ sinh thái. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của phê bình sinh
thái, nó khiến phê bình sinh thái trong những ngày đầu mang đậm tính phê phán”
[10,28]. Nhưng thực tế sáng tác, các tác phẩm văn học thể hiện tinh thần phê phán
văn hóa rất ít chưa phổ biến. Nên quá trình thực hiện nhiệm vụ này còn gặp nhiều
khó khăn. Ở Việt Nam cũng như một số nước đang phát triển, các tác phẩm văn học
mang tính phê phán những nguy cơ đối với môi trường không nhiều hoặc nội dung
phản ánh chưa rõ nét. Cho nên nếu chỉ tập trung hướng tới nhiệm vụ này thì phê
bình sinh thái rất khó phát triển. Vì vậy để phê bình sinh thái có thể phát triển được
một cách rộng rãi và tham gia tích cực, phổ biến hơn trong thực tiễn văn học, chúng
ta cần có cái nhìn linh hoạt hơn về vấn đề này. Trong thực tế quá trình phát triển của
xu hướng này, các nhà nghiên cứu đã mở rộng nhiệm vụ của phê bình sinh thái đó là
hướng tới nghiên cứu những tư tưởng sinh thái. Có nghĩa là bên cạnh việc phê phán
những biểu hiện phản sinh thái được thể hiện trong các tác phẩm văn học thì phê
bình sinh thái còn chú trọng tới những tư tưởng ca ngợi sự hài hòa sinh thái, hoặc
sâu xa hơn là đề cập đến những tư tưởng về vấn đề mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên nói chung. Khi mở rộng phạm vi nhiệm vụ như vậy, phê bình sinh thái có
20
thể đề khai thác đến những tác phẩm ca ngợi mối quan hệ hài hòa giữa con người và
tự nhiên, chẳng hạn như những bài thơ viết về tình yêu thiên nhiên, môi trường tự
nhiên của một số nhà Nho ở ẩn, hay những tác phẩm viết về tự nhiên trong đó coi tự
nhiên như một nơi trú ẩn cho tâm hồn của con người. Đặc biệt có thể nghiên cứu
những tác phẩm văn học viết về niềm kính sợ của con người đối với tự nhiên và
những thảm họa môi trường do thiên tai tạo nên cho cuộc sống của con người.
Thậm chí có thể nghiên cứu một số tác phẩm mà trong đó không hề đề cập đến tư
tưởng sinh thái như là một phản đề để cho thấy sự thống lĩnh lấn át của tư tưởng
nhân loại trung tâm; hay tìm cách điều chỉnh những biểu hiện sinh thái còn rất
mong manh, mơ hồ trong tác phẩm văn học để có thể nghiên cứu những cội nguồn
văn hóa sâu xa đã dẫn đến những tư tưởng sinh thái đó. Với cái nhìn như vậy, xoay
quanh vấn đề mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, khiến cho nhiệm vụ của phê
bình sinh thái được mở rộng và ngày càng phong phú hơn.
Qua việc lí giải bản chất của phê bình sinh thái biểu hiện ở đối tượng,
phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu có thể đi đến khẳng định: phê bình sinh thái có đặc
trưng riêng, khác biệt so với với các hướng phê bình khác ở điểm nó tập trung vào
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để hướng tới xây dựng chỉnh thể sinh thái
và chống lại quan điểm nhân loại trung tâm trước đó. Một trong những tư tưởng
quan trọng của phê bình sinh thái là hướng tới sự hài hòa giữa con người và thiên
nhiên, phê phán chinh phục khắc chế thiên nhiên, đề cao kính trọng tự nhiên, phê
phán văn hóa tiêu dùng, đề cao lối sống tối giản. Có thể thấy phê bình sinh thái
mang đậm tính chất của khuynh hướng nghiên cứu văn hóa trong văn học, có sự kế
thừa các phương pháp phê bình đã có từ trước đó. Chính vì vậy phê bình sinh thái
có một độ mở rất lớn về phương pháp nghiên cứu.
1.3. Phương pháp nghiên cứu của phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu tương đối mới trên thế giới và
đặc biệt ở Việt Nam. Đối tượng và nhiệm vụ của phê bình sinh thái mang tính đặc
thù và đòi hỏi phải có sự kết hợp đặc biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự
nhiên, cho nên, phương pháp nghiên cứu của hướng phê bình sinh thái đang là một
21
vấn đề gây nhiều băn khoăn nhất là ở những nước tiếp nhận phê bình sinh thái mà
vẫn còn đang đề cao việc đi tìm đặc tính thẩm mĩ của văn chương như Việt Nam.
Bởi vậy cho nên khi nghiên cứu phê bình simh thái, ta sẽ sử dụng linh hoạt các
phương pháp chính như: phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp diễn
giải tác phẩm kinh điển và phương pháp phân tích văn bản.
1.3.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Thực chất phê bình sinh thái thuộc lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, cho
nên, nó mang những đặc tính của khoa học liên ngành. LawrenceBuell đã khẳng
định: “Phê bình sinh thái là khoa học liên ngành, người tuyên truyền chủ nghĩa hình
thức trên phương diện mĩ học hoặc tính tự đủ trên phương diện khoa học thì không
thể trở thành nhà phê bình sinh thái. Phê bình sinh thái đặc biệt hấp thu các mô hình
diễn giải của nghiên cứu khoa học, địa lí nhân văn, tâm lí học phát triển, nhân loại
học xã hội, triết học (luân lí học, nhận thức luận, hiện tượng học), sử học, tôn giáo
và nghiên cứu giới tính, chủng tộc” [10,81]. Trong thực tế việc vận dụng những
thành tựu của một số ngành khoa học khác vào lĩnh vực nghiên cứu văn học là việc
làm rất phổ biến chẳng hạn như Phê bình phân tâm học cũng vận dụng thành tựu
của Tâm lí học vào trong nghiên cứu văn học, chuyển hướng ngôn ngữ học trong
lĩnh vực nghiên cứu văn học trước tiên cũng là việc vận dụng thành quả của ngôn
ngữ học, hay Phê bình luân lí học văn học thực chất là sự vận dụng luân lí học vào
nghiên cứu văn học. Khi nghiên cứu cần đặt vấn đề sinh thái được thể hiện trong tác
phẩm vào đúng bối cảnh văn hóa đang tiếp tục phát triển để từ đó tiến hành khảo sát
thì mới có thể khám phá được nội hàm tâm lí văn hóa của dân tộc và bản chất văn
hóa của xã hội và cũng từ các góc độ khác nhau đó để làm rõ ý nghĩa quan trọng
của văn học sinh thái đối với đời sống của con người. Khi đánh giá một tác phẩm
sinh thái cụ thể cần phải đứng ở bối cảnh văn minh của nhân loại thì mới phát hiện
được những ý nghĩa sinh thái ẩn chứa trong đó. Không giống với các loại nghiên
cứu phê bình văn hóa khác, hướng phê bình sinh thái còn vượt lên cả sự hạn chế của
góc nhìn giới tính, dân tộc và giai cấp. Đặc biệt Phê bình sinh thái rất quan tâm đến
nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh những nguy cơ sinh thái, nhất là các vấn đề về tư
22
tưởng. Phê bình sinh thái hướng tới nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và tự
nhiên và khảo sát sự mất cân bằng sinh thái ở môi trường tự nhiên và trong tinh thần
văn hóa. Không những thế, nó còn xem xét nhiều vấn đề phức tạp của văn minh,
văn hóa và tư tưởng của con người trong xã hội hiện đại, và từ các nguy cơ như
nguy cơ văn minh, nguy cơ nhân tính để làm rõ bản chất thực sự của nguy cơ sinh
thái. Trong thực tế nghiên cứu, phê bình sinh thái còn phải ứng dụng phương pháp
liên ngành và hấp thu mô hình diễn giải ở địa lí nhân văn, ở tâm lí học phát triển,
triết học, sử học, nhân loại xã hội học, ở tôn giáo, giới tính, chủng tộc. Phê bình
sinh thái không chỉ liên ngành với khoa học tự nhiên mà còn liên ngành cả trong nội
bộ khoa học nhân văn. Phê bình sinh thái còn phải vận dụng đến kiến thức của
nhiều lĩnh vực như triết học, xã hội học, luân lí học, chính trị học và văn hóa học…
phải vận dụng tư tưởng, nguyên lí của chúng vào việc phân tích và diễn giải văn bản
sinh thái. Bên cạnh đó, Phê bình sinh thái còn mang tính chất liên văn minh, liên
văn hóa bởi vì vấn đề môi trường là một vấn đề rộng lớn, quan trọng không có biên
giới và nguy cơ sinh thái không phải là trách nhiệm của riêng ai mà cần được toàn
cầu tập trung thì mới có thể giải quyết được. Phê bình sinh thái còn tiến hành
nghiên cứu tổng hợp từ các góc độ khác như: lịch sử, xã hội, địa lí, tôn giáo, khoa
học kĩ thuật, kinh tế... Cuối cùng, Phê bình sinh thái cần phải đặc biệt coi trọng
nguyên tắc thẩm mĩ của phê bình, phải đảm bảo sự thống nhất giữa tính thẩm mĩ và
tính văn hóa. Bởi nếu quá coi trọng vào việc nghiên cứu bên ngoài mà coi nhẹ
nghiên cứu bên trong chắc chắn sẽ làm mất đi tính văn học của nó thậm chí sẽ biến
nó đi theo một hướng cực đoan khác. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu đòi hỏi các
nhà phê bình sinh thái bên cạnh tri thức khoa học sâu rộng thì rất cần có tu dưỡng
thẩm mĩ cao thì mới đạt hiệu quả tốt nhất.
1.3.2. Phương pháp diễn giải tác phẩm kinh điển
Trong thực tế, văn học sinh thái ra đời khi mà nguy cơ sinh thái do nền
văn minh công nghiệp gây ra đang ảnh hưởng nặng nề lên đời sống của con người.
Tuy nhiên có phải tất cả các tác phẩm lấy tự nhiên làm đối tượng phản ánh liệu có
thể trở thành tài đối tượng nghiên cứu của phê bình sinh thái hay không? Văn học
23
sinh thái chính là đối tượng chủ yếu của khuynh hướng phê bình sinh thái. Nhưng
văn học sinh thái chỉ thực sự bắt nguồn từ chủ nghĩa tư bản hiện đại bởi vì chỉ khi
xã hội phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản thì mới có khả năng tạo ra những
nguy cơ sinh thái cho toàn cầu. Tuy nhiên, đối tượng của phê bình sinh thái không
chỉ bó hẹp ở tác phẩm văn học sinh thái theo nghĩa thuần túy là trực tiếp phản ánh
sự chinh phục tự nhiên một cách thô bạo dẫn đến nguy cơ sinh thái và tình trạng
xuống cấp trầm trọng của môi trường sống… Trí tuệ sinh thái đã có từ rất lâu đời
với tư cách là nguồn gốc tư tưởng của nghiên cứu Phê bình sinh thái, bên cạnh sự
ảnh hưởng trực tiếp từ các trào lưu tư tưởng sinh thái hiện đại, tư tưởng của phương
đông hoặc trào lưu triết học phương Tây thế kỉ XVIII- XIX kêu gọi trở về với tự
nhiên trong văn minh, tư tưởng luân lí sinh thái ở đầu thế kỉ XX… Tất cả đều trở
thành tài nguyên tư tưởng cực kì quan trọng của phê bình sinh thái. Tài nguyên này
cũng đã được phản ánh ít nhiều trong văn học đương thời hoặc văn học đời sau, chỉ
có điều là trước kia khi thực hiện phân tích tác phẩm chúng ta thường bỏ qua hàm ý
sinh thái ẩn tàng trong đó. Cho nên, ta còn có thể sử dụng cả phương pháp thông
diễn để có thể diễn giải nội hàm sinh thái trong các văn bản kinh điển. Không
những thế, phê bình sinh thái cũng nên sử dụng chức năng diễn giải, chức năng
phân tích và bình giá lại các tác phẩm văn học kinh điển có miêu tả và phản ánh mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên theo cách truyền thống. Gadamer đã khẳng
định, ý nghĩa thực sự của các văn bản cổ đại không phải lúc nào cũng là dụng ý của
tác giả, mà người diễn giải có thể đứng trên lập trường hiện đại để có những lí giải
mới mẻ đối với văn bản. Do đó, diễn giải có thể trở thành hoạt động đi tìm ý nghĩa
tự do khác nhau trong phê bình văn học. Cũng cần hiểu một cách chính xác, diễn
giải không đơn thuần chỉ là trần thuật lại, mà còn là kích hoạt và thức tỉnh một cách
sáng tạo. Diễn giải giúp tìm ra các ý nghĩa đương thời và đồng thời tìm ra cả ý
nghĩa hiện đại trong văn bản. Nhưng điều quan trọng nhất của phương pháp diễn
giải vẫn là khảo sát các nhân tố sinh thái mà phê bình sinh thái cần tìm kiếm xem có
tồn tại hay không tồn tại trong văn bản kinh điển. Bên cạnh đó phê bình sinh thái
còn có thể tiến hành phân tích các tác phẩm văn học chứa đựng tinh thần của chủ