ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô
giáo, PGS. TS Nguyễn Bích Thu - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận
BÙI
THỊ
QUYÊN
tình, chu đáo và luôn động
viên
tôiXUÂN
trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Sự chỉ bảo tận tâm của cô đã mang lại cho tôi hệ thống các phương pháp,
kiến thức cũng như kỹ năng hết sức quý báu để có thể hoàn thiện đề tài một
cách tốt nhất.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường,
TIỂU THUYẾT “ĐẤT RỪNG PHƢƠNG NAM” CỦA ĐOÀN GIỎI
quý thầy giáo, cô giáo ở Phòng Đào tạo Sau đại học và thầy giáo, cô giáo
DƢỚI GÓC NHÌN ĐỊA – VĂN HÓA
khoa Văn học, trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là các
thầy cô giáo bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Văn học – những người mà
trong thời gian qua đã dạy dỗ, truyền thụ kiến thức khoa học, giúp tôi từng
bước trưởng thành.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân, gia đình và bạn
bè – những người đã hỗ trợ, tạo điều kiện để tôi có thể học tập đạt kết quả tốt
LUẬN VĂN THẠC SĨ
và thực hiện thành công luận văn này.
Chuyên
ngành: Văn học Việt Nam
Tôi xin chân thành
cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên
Bùi Thị Xuân Quyên
Hà Nội - 2017
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------LỜI CAM ĐOAN
BÙI THỊ XUÂN QUYÊN
Tôi xin cam đoan luận văn do tôi thực hiện. Những kết quả từ những
tác giả trước mà tôi sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng,
cụ thể. Không có bất kỳ sự không trung thực nào trong các kết quả nghiên
TIỂU THUYẾT “ĐẤT RỪNG PHƢƠNG NAM” CỦA ĐOÀN GIỎI DƢỚI
cứu.
GÓC NHÌN ĐỊA – VĂN HÓA
Nếu có gì sai trái, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Bùi Thị Xuân Quyên
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Bích Thu
Hà Nội - 2017
2
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô
giáo, PGS. TS Nguyễn Bích Thu - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình, chu đáo và luôn động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Sự chỉ bảo tận tâm của cô đã mang lại cho tôi hệ thống các phương pháp,
kiến thức cũng như kỹ năng hết sức quý báu để có thể hoàn thiện đề tài một
cách tốt nhất.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường,
quý thầy giáo, cô giáo ở Phòng Đào tạo Sau đại học và thầy giáo, cô giáo
khoa Văn học, trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là các
thầy cô giáo bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Văn học – những người mà
trong thời gian qua đã dạy dỗ, truyền thụ kiến thức khoa học, giúp tôi từng
bước trưởng thành.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân, gia đình và bạn
bè – những người đã hỗ trợ, tạo điều kiện để tôi có thể học tập đạt kết quả tốt
và thực hiện thành công luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên
Bùi Thị Xuân Quyên
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn do tôi thực hiện. Những kết quả từ những
tác giả trước mà tôi sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng, cụ
thể. Không có bất kỳ sự không trung thực nào trong các kết quả nghiên cứu.
Nếu có gì sai trái, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên
Bùi Thị Xuân Quyên
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 7
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................... 7
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 14
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 14
5. Phƣơng pháp nghiên cứu………………………………………………. 10
6. Cấu trúc của luận văn........................................................................................ 15
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA NHÀ VĂN ĐOÀN GIỎI ....................................................................... 16
1.1. Văn hóa và văn học........................................................................................ 16
1.1.1. Văn hóa ........................................................................................... 16
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ............................................ 16
1.2. Địa - Văn hóa và văn học ............................................................................. 18
1.2.1. Địa - văn hóa .................................................................................. 18
1.2.2. Địa - Văn hóa trong nghiên cứu văn học ....................................... 24
1.3. Hành trình sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi và tiểu thuyết Đất rừng
phương Nam ............................................................................................................ 26
1.3.1. Hành trình sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi.................................. 26
1.3.2 Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam .................................................. 25
Chƣơng 2: DẤU ẤN ĐỊA - VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT ĐẤT
RỪNG PHƢƠNG NAM ................................................................................. 29
2.1. Dấu ấn không gian và thời gian ................................................................... 29
2.1.1. Không gian ...................................................................................... 29
5
2.1.2. Thời gian ......................................................................................... 38
2.2. Dấu ấn của thiên nhiên phƣơng Nam ......................................................... 48
2.2.1. Thiên nhiên dữ dội, hoang sơ, khắc nghiệt ..................................... 48
2.2.2. Thiên nhiên trù phú, màu mỡ .......................................................... 47
2.3. Dấu ấn của con ngƣời Nam Bộ .................................................................... 48
2.3.1. Dân dã, tinh tế trong ẩm thực ......................................................... 49
2.3.2. Giản dị trong đời sống tâm linh...................................................... 56
2.3.3. Chất phác, rạch ròi trong ứng xử ................................................... 60
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT ĐẤT RỪNG
PHƢƠNG NAM TỪ GÓC NHÌN ĐỊA – VĂN HÓA .................................... 69
3.1. Biểu tƣợng văn hóa ........................................................................................ 69
3.1.1. Khái niệm về biểu tượng văn hóa ................................................... 69
3.1.2. Một số biểu tượng văn hóa trong “Đất rừng phương Nam” ......... 71
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 75
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật......................................... 75
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật................................................. 78
3.3. Kết cấu lƣu lạc ................................................................................................ 80
3.4. Ngôn ngữ ......................................................................................................... 83
3.4.1. Sử dụng hiệu quả lớp từ ngữ địa phương ....................................... 83
3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình .......................................................... 88
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 93
Tài liệu tham khảo ........................................................................................... 95
6
MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Vùng đất Nam Bộ đã cung cấp cho nền văn học hiện đại Việt Nam một
mảng đề tài phong phú và vô cùng hấp dẫn. Nhiều nhà văn xuất thân từ Nam
Bộ, viết về vùng đất này bằng tình yêu tha thiết với quê hƣơng, trở thành
những cái tên gắn liền với Nam Bộ nhƣ Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc,
Sơn Nam, Anh Đức, Nguyễn Ngọc Tƣ, Nguyễn Quang Sáng,…Tác phẩm của
họ là những tƣ liệu văn hóa đặc sắc về vùng đất phía Nam của Tổ quốc, giúp
chúng ta hình dung và lƣu giữ lại đƣợc phần nào những giá trị văn hóa mang
đặc trƣng riêng của Nam Bộ. Đoàn Giỏi cũng là một trong những cái tên đƣợc
nhắc đến đầu tiên khi nói đến văn học Nam Bộ. Cùng viết về vùng đất ấy,
những con ngƣời ấy nhƣng ông đã tạo cho mình một lối đi riêng không lẫn
với một ai khác. Đọc văn chƣơng Đoàn Giỏi, ta dễ dàng nhận thấy nguồn tƣ
liệu dồi dào, cách viết giản dị và lối miêu tả đậm chất hội họa của nhà văn.
Ông đã thổi tình yêu vùng đất vào văn chƣơng, giúp chúng ta hiểu đƣợc phần
nào những tình cảm mộc mạc, chân thực mà đầy xúc động của nhà văn với
quê hƣơng mình. Văn chƣơng của Đoàn Giỏi là tiếng nói chân tình, tha thiết
không phải chỉ của một nhà văn mà còn là của một ngƣời con viết về vùng đất
quê mẹ. Chính vì vậy mà các tác phẩm của Đoàn Giỏi có thể phù hợp với mọi
lứa tuổi, đặc biệt là học sinh - sinh viên. Trong số các nhà văn Nam Bộ thì
Đoàn Giỏi là một tên tuổi đƣợc nhắc đến khá nhiều trong các công trình
nghiên cứu. Ông cũng thƣờng đƣợc nói đến bên cạnh những tên tuổi khác
cùng viết về vùng đất Nam Bộ. Điều đó phần nào khẳng định vị thế của ông
trong dòng chảy văn học Việt Nam. Vì vậy việc nghiên cứu về nhà văn Đoàn
Giỏi là hết sức cần thiết.
7
Trong sự nghiệp sáng tác của Đoàn Giỏi thì tác phẩm Đất rừng phương
Nam là nổi tiếng nhất. Nó không chỉ phổ biến trong nƣớc, thậm chí đƣợc
dựng thành phim (Đất phương Nam) mà còn đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng trên
thế giới. Tác phẩm cho thấy độ chín trong cảm nhận và cách viết của Đoàn
Giỏi, cũng là thành tựu đáng mơ ƣớc trong sự nghiệp văn chƣơng của nhà
văn. Nói đến Đoàn Giỏi mà không nhắc đến Đất rừng phương Nam thì quả
thực là một thiếu sót lớn. Chính vì vậy nghiên cứu tác phẩm này sẽ giúp
chúng ta nhận định rõ hơn về nhà văn Đoàn Giỏi cũng nhƣ hiểu hơn về thiên
nhiên và con ngƣời Nam Bộ đƣợc nói đến trong tác phẩm.
Có thể có nhiều hƣớng nghiên cứu về Đất rừng phƣơng Nam của Đoàn
Giỏi, với luận văn này, chúng tôi triển khai từ góc nhìn địa - văn hóa. Từ lâu
nay, nghiên cứu văn học từ văn hóa đƣợc giới nghiên cứu và giảng dạy văn
học quan tâm bởi văn hóa tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống con
ngƣời, trong đó có văn chƣơng. Tiếp cận văn hóa học là một trong những
hƣớng tiếp cận đem lại những giá trị hữu ích cho việc nghiên cứu văn chƣơng.
Đặc biệt, địa - văn hóa là một hƣớng tiếp cận liên ngành chƣa đƣợc vận dụng
nhiều trong văn chƣơng. Tìm hiểu một tác phẩm văn chƣơng từ góc nhìn địa –
văn hóa tức là đã đặt tác phẩm văn chƣơng đó trở lại với chính môi trƣờng đã
sản sinh ra nó, để nhận thấy đƣợc mối quan hệ hai chiều giữa tác phẩm văn
học với đời sống. Từ tác phẩm văn chƣơng, ta sẽ hiểu hơn về một vùng đất và
từ những hiểu biết về địa – văn hóa của vùng đất đó, chúng ta sẽ nắm đƣợc
những giá trị cốt lõi của tác phẩm văn chƣơng. Vì thế chúng tôi chọn đề tài
Tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi dưới góc nhìn Địa - văn
hóa để có thêm một cái nhìn về cuốn tiểu thuyết để đời của nhà văn nặng lòng
với vùng đất Nam Bộ này.
8
2.
Lịch sử vấn đề
Nhƣ đã nói ở trên, Đoàn Giỏi đƣợc biết đến nhƣ một trong những cây
bút xuất sắc nhất của văn chƣơng Nam Bộ. Các tác phẩm của ông có mặt
trong các tổng tập lớn của văn học Việt Nam nhƣ Văn học Việt Nam thế kỷ XX
: Tiểu thuyết 1945 – 1975 của nhà xuất bản Văn học; Văn học Việt Nam 19451954 : Văn tuyển / Nam Cao, Đoàn Giỏi, Trần Đăng.. do Bùi Việt Thắng
tuyển chọn. - H. : Đại học Quốc gia Hà Nội; Thơ văn miền Nam. - H. : Văn
nghệ; Đón nhận truyện ngắn đương đại Nam Bộ = Embracing life
contemporary short fiction from southern Vietnam / Phan Thị Vàng Anh, Mạc
Can, Tiến Đạt... ; Nguyễn Thị Kiều Thu chuyển ngữ. - Tp. Hồ Chí Minh :
Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2013; Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc / Lữ
Huy Nguyên, Chu Giang b.s. - H. : Văn học. Ngoài ra, chúng ta cũng có tuyển
tập riêng tập hợp các tác phẩm của nhà văn nhƣ Tuyển tập Đoàn Giỏi. - H.
Văn học, 1997. Riêng tác phẩm Đất rừng phương Nam đã đƣợc tái bản nhiều
lần. Điều đó cho thấy giá trị và sức hút của văn chƣơng Đoàn Giỏi với bạn
đọc cả nƣớc. Chính vì vậy đã có rất nhiều những bài viết, bài đánh giá về nhà
văn này, đặc biệt là cuốn tiểu thuyết Đất rừng phương Nam. Nhà văn Huỳnh
Mẫn Chi trong bài viết Đoàn Giỏi và áng văn của đất, của rừng phương Nam
đã tóm lƣợc khá đầy đủ cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Đoàn Giỏi và kết
lại bằng nhận định “Cả cuộc đời của Đoàn Giỏi, ông cứ đi và cứ viết. Những
trang viết của Đoàn Giỏi bao giờ cũng mang đậm chất hoang sơ và tính sáng
tạo dựa trên vốn sống và cảm nhận tinh tế”. Trong cuốn Văn học và tuổi trẻ
(nxb Giáo dục, 1998), Đào Khƣơng đã có bài viết “Đoàn Giỏi - Nhà văn thân
thiết của thanh thiếu niên học sinh” kể lại một vài mẩu chuyện nhỏ về nhà
văn: “Khi Đất rừng phương Nam được in ra, điều bất ngờ là anh nhận được
nhiều thư của các em ở nhiều vùng khác nhau trên miền Bắc. Các em hỏi
thêm tác giả rất nhiều về săn cá sấu, về sân chim,…”. Còn trong cuốn Anh
9
Đức - Nguyễn Quang Sáng - Nguyên Ngọc - Đoàn Giỏi : Tuyển chọn và trích
dẫn những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà văn - nghiên cứu Việt
Nam và thế giới (Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1998) thuộc bộ sách Phê
bình – Bình luận văn học, nhà văn Đoàn Giỏi cũng đã đƣợc nhắc đến khá
nhiều với các bài viết của Anh Đức, Tô Hoài, Nguyễn Bùi Vợi với những kỉ
niệm đẹp về nhà văn. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi đã kể lại câu chuyện về sự ra
đời hết sức thú vị của cuốn Đất rừng phương Nam, một cuốn tiểu thuyết “viết
nhanh nhất mà có lẽ là hay nhất của nhà văn Đoàn Giỏi”. Nhà văn Anh Đức
thì nhận định Đoàn Giỏi là “nhà văn ưu tú của Nam Bộ” và “Với một đời văn
trên bốn mươi năm, anh đã kịp để lại cho đời những dòng đẹp đẽ đậm sắc
thái và đầy sinh thú về quê hương, đất nước, con người ở vùng đất Nam Bộ
thân yêu của Tổ quốc ta”. Trong khi đó, Tô Hoài có nhận xét về đứa con tinh
thần của nhà văn nhƣ sau: “Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi đã khơi gợi
ra bao nhiêu quang cảnh và con người khắp đất nước đáng yêu”.
Tác giả Lê Hồng Thiện cũng góp một phần công sức khi viết về Đoàn
Giỏi bằng kỷ niệm chân thành khi bàn về hoàn cảnh ra đời của Đất rừng
phương Nam. Tác phẩm ấy là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội bức bách trong
thời chiến. Vào năm 1957, khi đất nƣớc bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc,
vì thế: “Ban biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng muốn có một tác phẩm giới
thiệu về phong cảnh đất nước, con người miền Nam tươi đẹp, trù phú, giúp
bạn đọc thêm hiểu và yêu miền Nam” và có lẽ “Lúc viết tác phẩm này hình
ảnh quê hương đã ngấm vào máu, vào từng câu chữ của ông, cho nên dù viết
vội mà truyện vẫn hay”. Cùng nhấn mạnh vai trò to lớn của Đoàn Giỏi khi tái
hiện thành công và xuất sắc bức tranh hoành tráng về mảnh đất và con ngƣời
phƣơng Nam qua Đất rừng phương Nam của Lê Hồng Thiện thì còn có rất
nhiều ý kiến hay mà chuẩn xác của nhiều nhà nghiên cứu. Khi xét về khả
năng tác động của Đất rừng phương Nam đến tình cảm yêu mến một vùng đất
10
xa lạ đối với ngƣời chƣa từng biết và đến vùng đất Nam Bộ hay những con
ngƣời Nam Bộ, Ngô Văn Phú đã trình bày cảm xúc của mình khi đƣợc tiếp
cận tác phẩm: “Đọc xong Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, ta cảm thấy,
với người viết đó là mảnh đất quê hương ruột rà đầy yêu thương tự hào, còn
với ta, người đọc, thì đó là miền đất hứa”. Giá trị lớn lao mà Đất rừng
phương Nam đem lại cho kho tàng sách viết về thiếu nhi Việt Nam nói riêng
và nhiều tầng lớp độc giả nói chung đã đƣợc Đỗ Quang Hạnh ghi nhận trên
báo Lao động số 52 ra ngày 3/3/1999: “Phải thành thật nói rằng, Đất rừng
phương Nam (1957) đã lôi cuốn chúng tôi về một miền đất xa lắc, xa lơ đầy
bí ẩn và vô cùng hấp dẫn. Gần như không có cuốn sách nào của các nhà văn
Việt Nam viết cho thiếu nhi có khả năng đáng yêu đến thế!”. Nhà văn Nguyễn
Quang Sáng cũng đã bày tỏ cảm nghĩ của mình về sự tài tình của nhà văn
Đoàn Giỏi trên báo Văn nghệ, số ra ngày 3/4/1999: “Trong con mắt tôi, với
nhà văn Đoàn Giỏi, sự sáng tạo đồng nghĩa với một cuộc đấu tranh, một cuộc
đấu tranh vô cùng quyết liệt. Trong quá trình sáng tạo Đất rừng phương
Nam, tôi có cảm giác anh Năm Đoàn Giỏi đã đánh vật với từng chữ, với thân
hình của anh, tôi thấy có lúc anh mệt mỏi rồi như người vụt vùng dậy sau lúc
thua trận. Xuất thân là họa sĩ, anh vẽ thiên nhiên bằng văn chương đầy màu
sắc. Cả đời đạm bạc, đi, đọc và viết để dành cả đời cho văn chương”. Bằng
tài năng cùng với nhiệt huyết sôi nổi của mình, Đoàn Giỏi đã làm cho nhiều
ngƣời nghiêng mình thán phục, khơi gợi nơi họ bao cảm xúc dạt dào khi nghĩ
về quê hƣơng đất nƣớc. Ma Văn Kháng trong bài viết “Lời tƣởng niệm” trên
báo Văn nghệ số ra ngày 3/4/1999 đã cho rằng: “Đọc Đất rừng phương Nam,
tình yêu đất nước của chúng ta, một lần nữa giàu có thêm, vì trong văn ông,
tình yêu đất nước bắt nguồn và liên hệ bền chặt với sự độc đáo của nền văn
hóa lâu đời của dân tộc”. Theo một bài viết của Đoàn Minh Tuấn trên báo
Văn nghệ trẻ ra ngày 4/4/1999, về sự tồn tại lâu bền của con ngƣời và văn
11
nghiệp của Đoàn Giỏi trong kí ức của các bạn đọc văn chƣơng thì ông có trích
dẫn trực tiếp một nhận xét của I-Na-Zi-Mô-Nhi-Na (nhà văn Nga) dành cho
Đoàn Giỏi nhƣ sau: “Trong các nhà văn đương đại của Nam Bộ, Đoàn Giỏi
là người có cá tính. Nhân vật của ông rất dữ dội và hào hiệp, điển hình cho
vùng châu thổ Cửu Long. Đọc Đất rừng phương Nam làm tôi thích miền
Nam”. Còn trong tập tiểu luận – phê bình Tiếng vọng những mùa qua của
Nguyễn Thị Thanh Xuân lại nhận định một cách đầy trân trọng về
ngƣời cha đẻ của Đất rừng phƣơng Nam: “Có mảnh đất sinh ra những nhà
văn, và ngược lại, có nhà văn từ trang viết đã biến miền quê riêng của
mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm tưởng bao người. Với
Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hạnh phúc đó. Ông đã
đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất
mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người. Ông đã
xây dựng những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn
hóa…” [87, tr.113]. Từ rất nhiều những lời nhận định, ca ngợi của các nhà
văn, nhà nghiên cứu về nhà văn Đoàn Giỏi và tác phẩm Đất rừng phương
Nam, ta có thể thấy tác phẩm này của Đoàn Giỏi đƣợc quan tâm rất nhiều và
để lại những ấn tƣợng tốt đẹp trong lòng bạn đọc cả nƣớc.
Nghiên cứu văn học dƣới góc nhìn văn hóa không còn xa lạ với giới
nghiên cứu văn học. Vào những năm đầu thế kỉ XX, hƣớng nghiên cứu này đã
đƣợc quan tâm và đạt đƣợc những giá trị quan trọng trong các công trình
nghiên cứu của Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh,…Năm 1995,
Trần Đình Hƣợu trong cuốn Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại
(Nxb Giáo dục, 1999) đã chỉ ra những đặc điểm của văn học trung cận đại
dƣới sự tác động của Nho giáo. Điều này đã đƣợc Trần Ngọc Vƣơng cụ thể
hơn bằng cái nhìn loại hình học trong công trình Nhà nho tài tử và văn học
Việt Nam (Nxb Giáo dục 1995). Cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc
12
nhìn văn hóa (Nxb Giáo dục, 2003) của Trần Nho Thìn cũng đã cho chúng ta
một cái nhìn cụ thể về nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa. Hƣớng
nghiên cứu này còn đƣợc vận dụng khi nghiên cứu một tác giả văn học nhƣ
công trình Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực (Nxb Văn hóa thông tin,
1999) của tác giả Đỗ Lai Thúy, hay Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn
hóa của tác giả Đỗ Thị Ngọc Chi, luận án tiến sĩ, 2013,…Nhƣ vậy có thể thấy
nghiên cứu văn học từ văn hóa là một hƣớng nghiên cứu thực sự quan trọng
đã có nhiều đóng góp cho nền văn học không chỉ của riêng nƣớc ta mà còn
nhiều nƣớc trên thế giới. Trong xu thế phát triển hiện nay, văn hóa càng có
nhiều giá trị và những tác động nhất định tới mọi lĩnh vực của đời sống. Vì
vậy nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là một hƣớng nghiên cứu rất thiết
thực làm phong phú thêm cho nền văn học, bổ sung những cái nhìn mới đầy
đủ và sâu sắc hơn. Nghiên cứu từ góc nhìn địa - văn hóa bổ sung thêm một cái
nhìn liên ngành đa dạng hơn, đặt tác phẩm trở lại với môi trƣờng sản sinh ra
nó. Hƣớng nghiên cứu này đƣợc vận dụng khá thành công khi nghiên cứu văn
hóa với sự đóng góp của Trần Quốc Vƣợng trong các công trình của mình,
đặc biệt là trong cuốn Việt Nam cái nhìn Địa – Văn hóa (Nxb Văn hóa dân
tộc, 1998). Sau đó, tác giả Đặng Hiển đã vận dụng vào trong nghiên cứu văn
học với công trình Văn học dưới góc nhìn Địa – Văn hóa (Nxb Hội nhà văn,
2016).
Nhƣ vậy, điểm qua lịch sử nghiên cứu có thể thấy, nghiên cứu một tác
phẩm văn học dƣới góc nhìn địa văn hóa, đặc biệt là tác phẩm Đất rừng
phương Nam của Đoàn Giỏi chƣa đƣợc chú ý đến. Quan tâm đến đề tài này,
ngƣời viết mong muốn góp một cái nhìn mới về một tác phẩm rất giàu giá trị
địa văn hóa để ngƣời đọc hiểu thêm về sự giàu đẹp của mảnh đất phƣơng
Nam qua các trang văn của Đoàn Giỏi, cũng nhƣ thấy đƣợc tài năng và tình
cảm trân trọng nhà văn dành cho miền đất quê hƣơng.
13
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện một cách khái quát con đƣờng văn nghiệp của nhà văn Đoàn Giỏi
cũng nhƣ vị thế của nhà văn trong dòng chảy văn học Việt Nam.
- Đi sâu vào tìm hiểu tác phẩm Đất rừng phương Nam từ góc nhìn địa – văn
hóa trên cả hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó thấy đƣợc mạch
ngầm văn hóa Nam Bộ trong trƣờng hợp tác phẩm cụ thể.
4.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn
Giỏi.
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi dƣới
góc nhìn địa văn hóa
5.
Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp liên ngành
Phƣơng pháp liên ngành cần thiết trong luận văn này để nhìn nhận tác phẩm
văn chƣơng từ nhiều góc độ khác nhau, để hiểu hơn về môi trƣờng sống, hoàn
cảnh xã hội đặc trƣng làm nên diện mạo của tác phẩm.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Phƣơng pháp này hƣớng đến phân tích đặc điểm của thiên nhiên và hình
tƣợng con ngƣời đƣợc tác giả miêu tả trong tác phẩm, từ đó đƣa ra những
nhận định khái quát về những dấu ấn địa văn hóa khu vực Nam Bộ trong sáng
tác của nhà văn Đoàn Giỏi.
- Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học
Đây là phƣơng pháp quan trọng giúp làm rõ những đặc trƣng về mặt văn hóa
đƣợc thể hiện trong tác phẩm, cũng là vấn đề mà luận văn hƣớng tới.
- Phƣơng pháp thống kê
Phƣơng pháp này sẽ giúp đƣa ra những số liệu chính xác, cần thiết cho công
việc nghiên cứu khoa học.
14
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
So sánh, đối chiếu sẽ giúp đặt tác phẩm trong nền chung của văn học Nam Bộ
và từ đó thấy đƣợc giá trị của tác phẩm trong dòng chảy văn học Việt Nam
nói chung và văn học Nam Bộ nói riêng.
6.
Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung và hành trình sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi
Chƣơng 2: Dấu ấn Địa – văn hóa trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
Chƣơng 3: Đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết Đất rừng phương Nam từ góc
nhìn địa – văn hóa.
15
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA NHÀ VĂN ĐOÀN GIỎI
1.1. Văn hóa và văn học
1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống con
ngƣời. Nó là nền tảng cho mọi ngành khoa học, từ xã hội học, tâm lý học, văn
học, toán học, vật lý học, hóa học, sinh học, âm nhạc, ngôn ngữ học,
v.v…Chính vì có phạm vi lớn nhƣ vậy nên văn hóa có nội hàm rất rộng và có
nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Trong thời kì toàn cầu hóa hiện nay,
vấn đề văn hóa lại càng đƣợc đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Mỗi quốc gia
đều cố gắng giữ gìn nền văn hóa độc đáo của riêng mình trong xu thế hội
nhập toàn cầu. Cuối thế kỉ XX là thời kì bùng nổ nghiên cứu về văn hóa và
nhận đƣợc sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu trong mọi lĩnh vực. Hàng
loạt những công trình nghiên cứu về văn hóa đã ra đời, cùng với đó là việc
vận dụng nghiên cứu văn hóa trong nhiều lĩnh vực khác, đem lại những kết
quả bất ngờ, thú vị… Trong quá trình nghiên cứu, đã có nhiều định nghĩa về
văn hóa đƣợc đƣa ra. Đây là một khái niệm rộng và phức tạp, do đó, vẫn chƣa
thể khẳng định đâu là khái niệm hoàn chỉnh, chính xác nhất cho vấn đề này.
Cho đến nay, số lƣợng định nghĩa về văn hóa đang ngày càng tăng lên.
Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và
Clyde Kluckhohn trong cuốn sách Culture, a critical review of concept and
definitions (Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định
nghĩa) đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các
công trình nổi tiếng thế giới. Còn theo Phan Ngọc, tính đến hiện nay trên thế
giới đã có khoảng hơn 400 định nghĩa về văn hóa [61, tr. 7]. Trong thời kỳ Cổ
đại ở Trung Quốc, văn hóa đƣợc hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng
lớp thống trị dùng văn hóa và giáo hóa, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và
16
cảm hóa con ngƣời. Văn đối lập với vũ, vũ công, vũ uy dùng sức mạnh để cai
trị. Nghĩa gốc của văn hóa theo chữ Hán là tổng xƣng của “văn trị” và “giáo
hóa”. Ở phƣơng Tây, từ “văn hóa” trong tiếng Anh và tiếng Pháp (culture),
tiếng Đức (Kultur) có nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo,
colui, cultus với hai nghĩa: “(1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt;
(2) cầu cúng”. Các nhà khoa học phƣơng Tây đã dựa trên những cách tiếp cận
khác nhau để định nghĩa về văn hóa:
- Các tiếp cận theo phƣơng pháp miêu tả
- Cách tiếp cận theo phƣơng pháp lịch sử
- Cách tiếp cận giá trị
- Cách tiếp cận theo phƣơng pháp tâm lý học
- Cách tiếp cận cấu trúc
- Cách định nghĩa nguồn gốc
Các cách tiếp cận trên tuy khác nhau nhƣng chúng đều dựa trên những
nguyên tắc chung đó là dựa trên mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, dựa trên hình thái kinh tế xã hội và những nguyên tắc hoạt động của triết
học Mác nhƣ nguyên tắc thực tiễn để nêu lên một định nghĩa về văn hóa. Mỗi
cách tiếp cận đều cho thấy một khía cạnh ƣu việt riêng. Tuy nhiên, cách tiếp
cận văn hóa dựa trên giá trị học là một phƣơng pháp tiếp cận đã có từ lâu đời
và cho đến nay vẫn thể hiện đƣợc vai trò quan trọng, nổi trội của nó. “Cách
tiếp cận này không chỉ thâm nhập vào triết học mà còn có cả lý luận văn hóa,
mỹ học, đạo đức học cùng nhiều bộ môn khoa học khác và đã dấy lên những
cuộc tranh luận đến tận bây giờ. Quá trình phát triển của tiếp cận giá trị học
đã thể hiện sự tìm kiếm bản chất của văn hóa theo ba cấp độ đối tượng: cấp
độ vật chất, cấp độ chức năng và cấp độ hệ thống. Tương ứng với cấp độ vật
chất của đối tượng là định nghĩa mô tả văn hóa như thế giới các đồ vật được
con người sáng tạo và sử dụng trong quá trình lịch sử. Trong một công trình
17
nghiên cứu về văn hóa của mình, Iu.V.Brômlây và R.C.Pađôlưi đã khẳng
định: Văn hóa trong ý nghĩa rộng rãi nhất của từ này, đó là tất cả những cái
đã và đang được tạo ra bởi nhân loại” [83].
Trong số những định nghĩa và cách tiếp cận đó, E.B Taylor (18321917) nhà nhân học văn hóa ngƣời Anh đã đƣa ra một khái niệm văn hóa
đƣợc nhiều ngƣời đồng tình. Trong cuốn primitive culture - văn hóa nguyên
thủy , ông quan niệm văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức,
tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và tất cả những khả năng
và thói quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã
hội”.
Trong thế kỉ XX, F.Boa cho rằng khái niệm văn hóa cần đƣợc xét ở
mức độ khác biệt chứ không xét ở mức độ cao hay thấp.
A.L. Kroibơ và C.L. Klúchôn quan niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng
và ám thị đã đƣợc đúc kết và truyền lại bằng biểu tƣợng.
UNESCO đã đƣa ra khái niệm chính thức về văn hóa trong Hội nghị
quốc tế do UNESCO chủ trì tại Mexico năm 1982: “Văn hóa hôm nay có thể
coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội.
Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín
ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính
văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí
tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con
người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án
chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi
không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt
trội lên bản thân” (88, tr. 23, 24)
18
Sau đó, trong Thập kỉ thế giới phát triển văn hóa (1987-1997), Tổng
Giám đốc UNESCO đã đƣa ra định nghĩa “Văn hóa là tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị
hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc” [Thông tin
UNESCO,1.1988]
Đó là những định nghĩa tiêu biểu về văn hóa đã đƣợc nhiều nhà nghiên
cứu đồng tình. Những định nghĩa này đã giúp chúng ta có thêm nhìn nhận về
những khía cạnh mới của văn hóa.
Ở Việt Nam, tuy vấn đề văn hóa đƣợc đặt ra có muộn hơn một chút
nhƣng cũng có không ít những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và đƣa những khái
niệm về văn hóa khác nhau. Trần Quốc Vƣợng quan niệm “Văn hóa…là cái
tự nhiên được biến đổi bởi con người…để từ đó hình thành một lối sống, một
thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và
xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với hệ thống những chuẩn
mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…tạo nên phong cách
diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người.(88, tr. 35,36).
Trần Ngọc Thêm thì cho rằng “văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội của mình”. (74, tr. 25).
Đó là hai nhà nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực văn hóa. Còn rất
nhiều những định nghĩa khác nhƣng tất cả đều cho thấy mối liên quan mật
thiết của văn hóa tới mọi mặt của đời sống xã hội. Có thể thấy rằng khái niệm
về văn hóa cũng phong phú nhƣ bản thân nó vậy. Mỗi khám phá mới về văn
hóa lại cho chúng ta thêm những tƣ liệu thiết thực về đời sống con ngƣời. Và
văn học, với sứ mệnh là nhân học, là sản phẩm của con ngƣời, do con ngƣời
19
và vì con ngƣời nên sự ảnh hƣởng của văn hóa tới văn học là điều đƣơng
nhiên. Do đó, ngày càng có nhiều nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa,
giúp chúng ta có thêm những khám phá mới và làm bền vững thêm mối quan
hệ giữa văn học và đời sống con ngƣời.
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Các học giả phƣơng Tây nhƣ R. Hoggart, S. Hall đã khẳng định văn
học là bộ phận của văn hoá. Sau khi các hƣớng nghiên cứu văn học từ tác giả,
từ thi pháp,… dần dần trở nên phổ biến và để lại những hoài nghi thì hƣớng
nghiên cứu văn hóa học đem lại những khám phá mới mẻ. Khi nghiên cứu kí
hiệu học, mẫu gốc các tác giả đã đồng thời đặt văn học vào trong hệ thống
văn hóa (R. Barthes, H. White, M. Bakhtin, Ju. Lotman…). Bakhtin đã nghiên
cứu tiểu thuyết của Rabelais trong chỉnh thể văn hóa, từ các phạm trù văn hóa
trung đại và phục hƣng trong công trình “Sáng tác của Francois Rabelais với
văn hóa dân gian thời trung đại và Phục hưng”, nghiên cứu nguyên tắc đối
thoại và phức điệu trong văn học nhƣ một vấn đề văn hóa. Ông quan niệm
“Trước hết khoa học nghiên cứu văn học cần phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử
văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái bối cảnh nguyên vẹn của toàn bộ văn
hóa một thời đại trong đó nó tồn tại. Không được tách nó khỏi các bộ phận
khác của văn hóa, cũng như không được như người ta vẫn làm, và trực tiếp
gắn bó với các nhân tố xã hội – kinh tế, vượt qua đầu văn hóa. Những nhân tố
xã hội – xã hội tác động tới toàn bộ văn hóa nói chung, và chỉ thông qua văn
hóa mới tác động được tới văn học”. Bakhtin đã chủ trƣơng nghiên cứu văn
học từ góc nhìn văn hóa, trong đó chú trọng những ảnh hƣởng không chỉ của
văn hóa đƣơng đại mà cả văn hóa truyền thống tới tác phẩm văn học. Lotman
nghiên cứu kí hiệu quyển nhƣ một hiện tƣợng văn hóa, văn bản văn hóa, mã
văn hóa và giao tiếp văn hóa. H. White với chủ nghĩa tân lịch sử,… Nhiều nhà
nghiên cứu của Nga khác cũng nghiên cứu văn học theo quan điểm văn hóa.
20
Điển hình là những cái tên nhƣ M.S. Kagan đặt văn học trong hệ thống văn
hóa hay Ju. Borev nghiên cứu văn hóa nghệ thuật. Đặt văn học dƣới góc nhìn
văn hóa sẽ giúp phát hiện ra mối quan hệ đa chiều giữa văn học và văn hóa và
là một hƣớng phát triển tất yếu của nghiên cứu văn học.
Ở Việt Nam, từ đầu thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý hơn
đến cái nhìn văn hóa. Nghiên cứu văn hóa hiện nay đã đem lại rất nhiều
những công trình có giá trị. Trƣơng Tửu trong cuốn Kinh thi Việt Nam đã chủ
trƣơng đi theo hƣớng lấy văn hóa để cắt nghĩa văn học khi xem xét hiện tƣợng
Hồ Xuân Hƣơng. Hiện tƣợng thơ Hồ Xuân Hƣơng còn là đề tài nghiên cứu
của nhiều nhà nghiên cứu khác nhƣ nhà Việt Nam học ngƣời Nga N. Niculin,
nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn hay nhà văn Nguyễn Tuân. Điểm chung là các
nhà nghiên cứu này đều nhận thấy ảnh hƣởng rất rõ ràng của văn hóa dân gian
tới thơ của nữ sĩ họ Hồ, cụ thể là ở yếu tố tục. Đây cũng có thể coi là cơ sở để
Đỗ Lai Thúy nghiên cứu sâu hơn sau này trong cuốn chuyên luận Hồ Xuân
Hương, hoài niệm phồn thực.
Cũng là một ngƣời chú ý đến hƣớng nghiên cứu này, Lê Nguyên Cẩn
có những công trình nhƣ Tiếp cận văn học từ cái nhìn văn hóa hay Truyện
Kiều từ góc nhìn văn hóa đƣa ra những quan niệm sâu sắc về mối quan hệ
giữa văn hóa và văn học, đồng thời áp dụng vào phân tích một tác phẩm văn
học đã quá quen thuộc với ngƣời Việt Nam là Truyện Kiều. Ông cho rằng
“Tính văn hóa của tác phẩm văn học thể hiện trước hết qua cách nhìn nghệ
thuật mang tính dân tộc về con người và cuộc đời, qua quan niệm ứng xử
thẩm mĩ mang đặc trưng và phù hợp với chuẩn mực đời sống tâm lí đạo đức
và truyền thống dân tộc. Tính văn hóa của tác phẩm văn học còn thể hiện qua
cách thức xây dựng nhân vật, xây dựng cốt truyện, cách thức mô hình hóa
hoặc điển hình hóa. Tính văn hóa của tác phẩm văn học cũng được thể hiện
qua các hình thức ngôn từ nghệ thuật được dùng để diễn tả hình tượng mà
21
thường gặp qua các hình thức biểu đạt dân gian, qua hệ thống các hình ảnh
biểu trưng, qua các mẫu đề”.[12, tr. 23]
Nhƣ vậy, qua những nghiên cứu trên, ta hoàn toàn có thể khẳng định
rằng văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời. Nhà văn
không thể sáng tác văn học mà không dựa trên vốn văn hóa của mình, do đó
sự ảnh hƣởng của văn hóa đến văn học là điều tất yếu. Với ngƣời nghiên cứu
văn học, đây là một cơ sở vững chắc để ngày càng có nhiều nghiên cứu về các
tác phẩm văn học nhìn nhận trên góc độ văn hóa, làm phong phú thêm cho hệ
thống lí luận văn học của Việt Nam.
1.2. Địa - Văn hóa và văn học
1.2.1. Địa - văn hóa
Văn hóa là một khái niệm quen thuộc nhƣng địa văn hóa lại là một khái
niệm có phần xa lạ. Địa văn hóa là một khái niệm mới kết hợp hai ngành có
vẻ không liên quan là địa lí học (một ngành học thuộc khoa học tự nhiên, với
những dữ kiện thực tế và không gian địa lí) với văn hóa học (thuộc những giá
trị tinh thần). Văn hóa dƣờng nhƣ là phạm vi của các nhà dân tộc học, nhân
loại học, xã hội học trong khi tự nhiên và môi trƣờng là lĩnh vực của các nhà
địa lí học. Hai khái niệm không liên quan này lại đƣợc kết hợp trong một
hƣớng nghiên cứu mới khá có sức thuyết phục. Khái niệm địa văn hóa đƣợc
đề cập đến trƣớc hết ở trong lĩnh vực địa lí, là phƣơng pháp nghiên cứu liên
ngành trong địa lý học. Joel Bonnemaison là nhà địa lý học người Pháp, giáo
sư Đại học Paris IV đặc biệt chú ý đến cách tiếp cận địa văn hóa trong lĩnh
vực địa lí. Trong công trình “Culture and Space” bằng tiếng Pháp đƣợc vợ và
các học trò của ông tập hợp sau khi ông qua đời, tác giả đã cho rằng ý niệm về
địa văn hóa xuất hiện lần đầu tại Đức: Vào thế kỉ XIX, Friedrich Ratzel đã đề
cập đến địa lí nhân học, sau đó quan niệm về địa văn hóa đến Pháp thông qua
ảnh hƣởng của nhân học Mỹ với những đóng góp quan trọng về địa văn hóa
22
của Carl Sauer – một học trò của Ratzel. Theo Joel Bonnemaison “ba chiều
kích của không gian cảnh quan” trong địa văn hóa gồm:
-
Lãnh thổ: liên quan đến các cột mốc và đƣờng biên giới lãnh thổ; đến
cơ cấu chính trị với những vùng trọng điểm, trung tâm và vùng ngoại vi.
-
Môi trƣờng địa lý: một cấu trúc địa lý và sinh thái – đất trồng, thực vật,
nƣớc, khí hậu, mật độ dân cƣ, hệ thống thông tin liên lạc. Con ngƣời hoàn
toàn phụ thuộc vào hệ thống sinh thái này bởi vì toàn bộ môi trƣờng địa lý
đƣợc nhân hóa thành một quy mô nhỏ hơn hoặc lớn hơn.
-
Biểu tƣợng địa lý: cấu trúc biểu trƣng một môi trƣờng địa lý và ý nghĩa
của nó. Khái niệm này tƣơng tự nhƣ khái niệm “médiance” đã từng đƣợc
Augustin Berque đƣa ra từ năm 1990 để chỉ những tác động và những giá trị
con ngƣời đem lại cho cảnh quan. Những biểu tƣợng địa lý có ý nghĩa đều
liên quan đến đạo đức học và siêu hình học. Chúng đại diện cho giá trị tinh
thần của xứ sở mà chúng ta gọi là linh hồn của xứ sở.
Các công trình nghiên cứu của ông phản ánh mối liên hệ giữa văn hóa của
các cƣ dân và không gian địa lí, hay đúng hơn là những đặc trƣng không gian
điển hình của cƣ dân – một cảnh quan vừa đƣợc con ngƣời nhận thức vừa
mang đậm màu sắc tâm thức, tâm linh.
Nhƣ vậy, địa - văn hóa có thể hiểu là hƣớng nghiên cứu liên ngành xem
xét mối quan hệ giữa cảnh quan địa lí và đời sống văn hóa của con ngƣời,
những tác động qua lại của hai yếu tố này trong những vùng lãnh thổ nhất
định. Các yếu tố địa lí sẽ quy định cung cách sinh hoạt, ứng xử của con ngƣời
và ngƣợc lại, con ngƣời sẽ có những tác động trở lại tới cảnh quan. Đây là
một mối quan hệ khá hài hòa và sự tác động lên nhau là tất yếu. Nhìn từ
hƣớng nghiên cứu này chúng ta có thể thấy đƣợc vị trí của con ngƣời trong tự
nhiên cũng nhƣ những tác động giữa thiên nhiên và con ngƣời.
23
Ở Việt Nam, hƣớng nghiên cứu này cũng đã đƣợc vận dụng trong nghiên
cứu văn hóa, đặc biệt với sự đóng góp của giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng. Trong
công trình Việt Nam cái nhìn địa văn hóa ông đã dùng hƣớng tiếp cận địa văn
hóa để tìm hiểu và làm rõ rất nhiều địa danh quan trọng của nƣớc ta nhƣ Cao
Bằng, vùng đất tổ Phú Thọ, Bắc Ninh, Gia Lâm, Hà Nội, Côn Đảo,…Những
nghiên cứu này từ góc nhìn địa văn hóa đã làm phong phú thêm cho nguồn tƣ
liệu về văn hóa của nhiều vùng đất khác nhau, là một hƣớng nghiên cứu có
thể đƣợc ứng dụng nhiều trong nghiên cứu văn hóa các vùng đất của nƣớc ta.
1.2.2. Địa - văn hóa trong nghiên cứu văn học
Địa văn hóa là một khái niệm mới, chƣa đƣợc ứng dụng nhiều, vì vậy
trong lĩnh vực văn học, chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Phạm Tiết Khánh – TS đại học Vinh có bài viết Đặc điểm truyện cổ tích
Khmer Nam Bộ tiếp cận từ lí thuyết địa – văn hóa đăng trên tạp chí nghiên
cứu văn học, áp dụng hƣớng nghiên cứu này với văn học dân gian. Trong bài
viết, tác giả đã sử dụng lí thuyết địa-văn hóa để lí giải nguyên nhân những tác
phẩm văn học dân gian tuy có nguồn gốc khác xa nhau, không có sự giao lƣu
nhƣng vẫn có những cốt truyện giống nhau. Lí thuyết này trong nghiên cứu
văn học dân gian cũng đƣợc trƣờng phái Phần Lan áp dụng khi nhìn nhận tác
phẩm văn học dân gian từ góc độ địa lí – lịch sử và đem lại những thành tựu
đáng kể trong ngành folklore. Cụ thể hơn là cuốn tiểu luận của Đặng Hiển
Văn học dưới góc nhìn Địa – văn hóa liên quan đến vấn đề này. Đây là một
tiểu luận có ứng dụng góc nhìn địa văn hóa trong nghiên cứu văn học. Mỗi
nhà văn đều sống và viết về một vùng đất nhất định và hầu hết những yếu tố
của vùng đất đó nhƣ: địa lí tự nhiên, đời sống và tâm lí con ngƣời, tiến trình
lịch sử, các phƣơng diện văn hóa vật thể, phi vật thể,… đều đã tác động đến
nhà văn tạo nên nhiều nét riêng đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật. Hồ Biểu
Chánh gắn bó với vùng đất Nam Bộ, Tú Xƣơng với Thành Nam, Nguyên
24
Hồng với Hải Phòng, Nam Cao với làng Đại Hoàng, Hoàng Cầm với Kinh
Bắc,….Mỗi vùng đất nhƣ một mảnh đất màu mỡ nơi các nhà văn gieo trồng
tâm hồn văn chƣơng của mình, để nó bắt rễ, bám sâu vào lòng đất và vƣơn
mãi lên, phát triển và cho ra trái ngọt là các tác phẩm văn chƣơng. Chế Lan
Viên đã kể về quê hƣơng Quảng Trị, nơi ông đã lớn lên và Bình Định nơi ông
sống và sáng tác nhƣ sau: “Quê cha mẹ tôi ở ngoài Quảng Trị…cha mẹ tôi
sinh ra và lớn lên trong gió Lào và khoai sắn Bình Trị Thiên. Kí ức tôi ngược
thời gian thì nó vẫn đi về qua lại thường xuyên giữa các đồi sim mua Quảng
Trị và góc thành Bình Định. Ngỡ như tính cách tâm hồn và bút pháp thơ tôi
đều bắt nguồn từ hai nơi ấy” (Dẫn theo Đỗ An – “nhà thơ Chế Lan Viên: mẹ
là gió dịu đƣa hƣơng” – Giáo dục và thời đại, 2016). Có những nhà văn chỉ có
thể thành công khi viết về một vùng đất. Tất nhiên, những ảnh hƣởng tới nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm còn là bối cảnh đất nƣớc, thời đại, những tác
động từ bên ngoài nhƣng vẫn không mất đi những nét đặc sắc của dấu ấn
vùng đất tác giả sống và viết trong tác phẩm. Có những nhà văn đi nhiều nơi,
viết về nhiều vùng đất thì bên cạnh những hiểu biết của nhà văn về vùng đất
mới đó, những yếu tố thuộc địa – văn hóa nơi tác giả sinh ra và lớn lên vẫn
âm thầm tác động đến cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn, từ đó gián
tiếp tác động tới tác phẩm văn chƣơng. Đó cũng là lí do mà yếu tố địa văn hóa
có sự ảnh hƣởng nhất định tới tác phẩm văn học. Nghiên cứu văn học dƣới
góc nhìn địa văn hóa không có nghĩa là địa phƣơng hóa tác phẩm văn học mà
là một cách để đào sâu và mở rộng, thấy rõ những tác động của văn hóa nền
của tác giả tới tác phẩm văn chƣơng. Theo tác giả Đặng Hiển, địa văn hóa in
dấu vào văn học ở những yếu tố sau:
- Cảnh sắc thiên nhiên đi vào thơ văn thành những hình tƣợng đẹp, sắc
nét và có hồn
25