Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tum lum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.84 KB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CHƯ SÊ
TÊN ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM
NGHIÊN CỨU TRONG BÀI GIẢNG
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC
SINH
MÃ SKKN:…………….
Họ và tên người viết: TRẦN VĂN TUẤN
Đơn vị: Trường THCS KPăKLơng
NĂM HỌC: 2009 -2010

1
SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM
NGHIÊN CỨU TRONG BÀI GIẢNG
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC
SINH
PHẦN I: GIỚI THIỆU
2
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu chung của môn hoá học ở trường trung học cơ sở là giúp
cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông , cơ bản và thiết thực đầu
tiên về hoá học, hình thành ở các em một số kĩ năng phổ thông,cơ bản và
thói quen làm việc khoa học , phát triển năng lực nhận thức , năng lực hành
động chuẩn bị cho học sinh học lên và đi vào cuộc sống.
Sách giáo khoa hoá học theo chương trình cải cách bắt đầu đưa vào trường
THCS từ năm học 2004-2005 .Sách được viết phù hợp trình độ chung cho
học sinh trong cả nước, nội dung sách nâng cao vai trò của thực hành hoá
học.
Ở trường THCS lần đầu tiên các em được làm quen với bộ môn hoá
học. Vì vậy trong quá trình dạy học ,việc tạo điều kiện cho các em tiếp xúc
với dụng cụ thí nghiệm, hoá chất và tìm hiểu những thao tác cơ bản trong


thí nghiệm hoá học mang tính chất rất cần thiết . Trong những năm qua
việc trang bị các dụng cụ và hoá chất ở trường THCS tương đối đầy
đủ.Như vậy người giáo viên phải luôn chú ý tạo điều kiện cho học sinh
phát huy tính tích cực trong học tập bộ môn.
Đối với bộ môn hoá học ,thí nghiệm giữ vai trò to lớn đặc biệt quan
trọng như một bộ phận không thể tách rời quá trình dạy - học. Thí nghiệm
giữ vai trò quan trọng trong nhận thức phát triển ,giáo dục của quá trình
dạy - học. Người ta coi thí nghiệm là cơ sở của việc học hoá học và để rèn
luyện kĩ năng thực hành. Thông qua thí nghiệm , học sinh nắm kiến thức
một cách hứng thú ,vững chắc và sâu sắc hơn .Thí nghiệm hoá học được sử
dụng với tư cách là nguồn gốc , là xuất xứ của kiến thức để dẫn đến lí
thuyết hoặc với tư cách kiểm tra giả thuyết .
Thí nghiệm hoá học còn có tác dụng phát triển tư duy, giáo dục thế
giới quan duy vật biện chứng và củng cố niềm tin khoa học của học sinh,
3
giúp hình thành những đức tính tốt của người lao động mới : Thận trọng
,ngăn nắp,trật tự,gọn gàng….
Sử dụng thí nghiệm được coi là tích cực khi thí nghiệm là nguồn kiến
thức để học sinh khai thác tìm kiếm kiến thức mới dưới nhiều hình thức
khác nhau.
* Mức 1( ít tích cực nhất): Học sinh chỉ quan sát thí nghiệm do giáo
viên thực hiện để chứng minh cho một tính chất , một hiện tượng mà học
sinh đã được biết qua sách giáo khoa hoặc do giáo viên thông báo.
* Mức 2 ( ít tích cực) : Nhóm học sinh thực hiện thí nghiệm nhưng chỉ
để chứng minh cho một tính chất, một hiện tượng đã biết.
* Mức 3 (Tích cực) : Học sinh nghiên cứu thí nghiệm do giáo viên biểu
diễn: Học sinh sẽ nắm được mục đích của thí nghiệm, Quan sát mô tả được
hiện tượng, giải thích hiện tượng -> Rút ra kế luận( Tính chất của chất,một
quy luật, một kết luận về khả năng phản ứng)
* Mức 4 (Rất tích cực) : Nhóm học sinh trực tiếp thực hiện nghiên cứu

thí nghiệm
+ Học sinh nắm được mục đích của thí nghiệm
+ Nhóm học sinh làm thí nghiệm
+ Học sinh được quan sát, mô tả gần nhất
+Giải thích hiện tượng mà mình trực tiếp làm và quan sát
+Từ đó rút ra được kết luận
Như vậy tiến hành thí nghiệm bằng phương pháp nghiên cứu kích thích
hoạt động tích cực của học sinh tạo điều kiện để các em phát triển kĩ năng
làm việc độc lập, có sự phối hợp hoạt động trí óc với hoạt động chân tay
trong quá trình nhận thức của học sinh
Lí luận dạy học đã chỉ ra rằng dạy học dùng phương pháp thí
nghiệm học sinh để nghiên cứu bài mới có khả năng phát triển một cách tốt
nhât năng lực trí tuệ của học sinh, kích thích hứng thú của học sinh ,vì nó
4
rèn luyện cho học sinh nhận thức và phân tích những dấu hiệu và hiện
tượng cụ thể bằng kinh nghiệm riêng của chính mình và thu hút mọi khả
năng của học sinh vào nhận thức đối tượng.
Thực tế trong nhà trường THCS hiện nay có nhiều giáo viên còn
ngại khó,cán bộ thiết bị thiếu nên việc chuẩn bị thí nghiệm cho các nhóm
học sinh còn hạn chế ,trong khi đó chương trình SGK hóa học lớp 9 đòi hỏi
rất nhiều bài dạy có thí nghiệm hóa học đều là thí nghiệm nghiên cứu của
học sinh ( thí nghiệm dó học sinh làm)
Xuất phát từ cơ sở lí luận ở trên và tình hình thực tiễn hiện nay khi
nhà trường có đầy đủ dụng cụ hoá chất, và với yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học theo chương trình sách giáo khoa mới hiện nay .Trong năm
học vừa qua bản thân tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy bộ môn hoá học
lớp 8 và lớp 9 . Tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp dùng thí nghiệm
nghiên cứu của học sinh trong bài giảng ,tôi thấy đạt hệu quả rất cao trong
bài dạy của mình . Vì vậy mà năm học này tôi tiếp tục áp dụng giảng dạy
cho các lớp tôi trực tiếp giảng dạy và tôi muốn viết ra kinh nghiệm “Sử

dụng thí nghiệm nghiên cứu trong bài giảng nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh’’. Rất mong được chia sẽ ,đóng góp ý kiến của các bạn đồng
nghiệp.


5
PHẦN II: NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
I. Nhận thức của bản thân
1.Các hình thức thí nghiệm
* Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên
* Thí nghiệm thực hành của học sinh:
- Trong tiết lí thuyết
- Trong tiết thực hành
2. Các dạng của thí nghiệm:
* Loại thí nghiệm giáo viên làm: Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên do tự
tay giáo viên làm, các thao thác rất mẫu mực nên có tác dụng hình thành
những kĩ năng thí nghiệm đầu tiên cho học sinh một cách chính xác. Do
giáo viên biểu diễn trực tiếp nên có thể thực hiện được những thí nghiệm
phức tạp hoặc có dùng hoá chất độc , chất nổ mới có kết quả tin cậy. Thí
nghiệm do giáo viên biểu diễn tốn ít thời gian hơn đồi hỏi tốn ít dụng cụ
hoá chất hơn.
* Loại thí nghiệm dành cho học sinh: Thí nghiệm do học sinh tự làm để
nghiên cứu bài mới có ý nghĩa to lớn trong giảng dạy hoá học . Là phương
pháp dạy cho học sinh cách thức tư duy hợp lí, rèn luyện óc độc lập suy
nghĩ, phát biểu kĩ năng , kĩ xảo thí nghiệm. Thường dùng hai phương pháp
trong khi hướng dẫn học sinh tự làm lúc học bài mới đó là phương pháp
nghiên cứu và phương pháp minh hoạ. Trong kinh nghiệm dạy học bằng
phương pháp dùng thí nghiệm , tôi muốn trình bày kĩ loại thí nghiệm học
sinh thực hiện theo phương pháp nghiên cứu .Trong hoạt động này tôi
không quá đề cao yêu cầu nghiên cứu mà có ý thức triệt để tận dụng

phương pháp dùng thí nghiệm học sinh nghiên cứu trong điều kiện vật chất
cho phép, phù hợp về thời gian và nội dung thí nghiệm: Nghĩa là không quá
6
tải khi sử dụng phương pháp này mà mức độ hoá yêu cầu nghiên cứu để có
hiệu quả thí nghiệm cao.
3. Những yêu cầu sư phạm khi sử dụng thí nghiệm
a) Đối với thí nghiệm biễu diễn của giáo viên
- Yêu cầu đầu tiên và cơ bản đối với mội loại thí nghiệm hoá học là phải
đảm bảo an toàn cho học sinh . Vì thế giáo viên phải kiểm tra lại dụng cụ ,
hoá chất trước khi làm thí nghiệm và tuân thủ tất cả những quy định về bảo
hiểm.
- Các yêu cầu cụ thể khi tổ chức thí nghiệm : Luôn giữ hoá chất tinh khiết ,
dụng cụ sạch sẽ và tốt , làm đúng kĩ thuật và luôn bình tĩnh khi tiến hành
thí nghiệm . Có ý thức trách nhiệm và tính cẩn thận là những điều kiện chủ
yếu để đảm bảo an toàn cho các thí nghiệm hoá học.
- Phải đảm bảo thành công khi biểu diễn thí nghiệm . Tuyệt đối tránh tình
trạng thí nghiệm không có kết quả , làm như vậy thì uy tín giáo viên bị xúc
phạm, học sinh mất lòng tin vào giáo viên và khoa học. Muốn làm thí
nghiệm thành công giáo viên phải nắm vững kiến thức thí nghiệm, phải
tuân thủ đầy đủ và chính xác các chỉ dẫn về kĩ thuật thí nghiệm giáo viên
phải mất nhiều thời gian , công sức và phải cố gáng sáng tạo trong quá
trình chuẩn bị.
- Giáo viên phải chuẩn bị cẩn thận thí nghiệm , thử nhiều lần trước khi
hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm hoặc tự tay giáo viên làm thí nghiệm.
Phải chú ý lượng hoá chất , nồng độ hoá chất các dung dịch , nhiệt độ tiến
hành thí nghiệm thích hợp… là yếu tố có tác dung quyết định
- Khi thí nghiệm thất bại giáo viên cần bình tĩnh suy nghĩ tìm ra nguyên
nhân và giải quyết : Uy tín của giáo viên sẽ bị giảm sút nhanh chóng nếu
lừa dối học sinh hoặc bắt ép học sinh phải công nhận trong khi làm thí
nghiệm không thành công. Ngược lại nếu giáo viên đủ kinh nghiệm có kiến

thức …. và bình tĩnh để xử lí thất bại thì lại có tác dụng giáo dục rất lớn có
7
cơ hội để học sinh biết sai lầm , biết các nguyên nhân khoa học làm thí
nghiệm không thành công từ đó tránh những sai lầm và có thể tình huống
sai lầm đó lại khắc sâu kiến thức đúng cho học sinh. Đồng thời là cơ hội để
giáo viên thể hiện vai trò chủ động trong kiến thức của người thầy trong tiết
học.
- Thí nghiệm phải rõ ràng , học sinh phải được quan sát đầy đủ , thí nghiệm
phải đơn giản, dụng cụ phải gọn gàng ,dễ sử dụng, đảm bảo mĩ thuật và có
tính khoa học .
- Số lượng thí nghiệm vừa phải, không tham nhiều quá tốn thời gian không
cho phép thậm chí còn loãng sự chú ý của học sinh.
b) Đối với thí nghiệm nghiên cứu của học sinh
Trong chương trình hóa học 9 thì có rất nhiều bài trong đó đều sử dụng thí
nghiệm do học sinh làm ( Thí nghiệm nghiên cứu của học sinh) nhưng
trong quá trình giảng dạy thì tôi thấy rằng cứ sách giáo khoa yêu cầu thí
nghiệm đó giáo viên phải tổ chức cho học sinh làm thì phải để cho học sinh
làm ,như vậy mới phát huy được tính tích cực của học sinh, nhưng sẽ mất
nhiều thời gian ,như vậy giáo viên phải
-Bố trí thời gian cho hợp lý
-Chuẩn bị dụng cụ và hóa chất đầy đủ cho các nhóm.
- Nếu bài dạy có nhiều thí nghiệm thì nên chọn lọc thí nghiệm,có thể thí
nghiệm do nhóm học sinh làm,hoặc do đại diện một học sinh làm
- Tốt nhất sắp xếp bài dạy nào có đử thời gian nên cho các nhóm học sinh
làm và trong mỗi nhóm các em được thay phiên nhau làm thí nghiệm tránh
chỉ để một em làm biễu diễn cho các em khác xem.
-Chọn các thí nghiệm dễ làm và an toàn ,không độc hại đối với các em
4. Những hình thức cơ bản được phối hợp để tiến hành thí nghiệm có
hiệu quả
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×