Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chiến lược biển việt nam năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.54 KB, 18 trang )

Một số vấn đề cơ bản của chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
Nước ta có một vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần
diện tích đất liền; có bờ biển dài 3.260 km. Trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, biển có vai trò, vị trí rất quan trọng, gắn bó mật thiết và ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, bảo vệ môi trường của nước ta. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã
không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những
đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ
những quan điểm cơ bản của Nghị quyết này, cùng với việc tiếp tục nhấn
mạnh chủ trương lớn xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển,
phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu
cầu bảo vệ đất nước, có thể thấy rõ hơn chủ trương rất quan trọng là: cần đặt
kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với các
vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị
lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã thông qua Nghị
quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”, trong đó nhấn mạnh “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại
dương”. Nghị quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020:
Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển
trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành,
nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền
vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm
quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa
phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo


hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi
trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có
hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh
các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền,
quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu
mạnh. Mục tiêu cụ thể là xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh;
phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-
55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một
bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển; có thu nhập bình
quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả
nước. Cùng với xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực,
hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu kinh tế
mạnh ở ven biển; xây dựng cơ quan quản lý tổng hợp thống nhất về biển có
hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.
Nghị quyết cũng đã xác định sát đúng và cụ thể về phát triển kinh tế
biển đến năm 2020 trên lĩnh vực kinh tế - xã hội; chiến lược quốc phòng, an
ninh, đối ngoại; phát triển khoa học - công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ
tầng biển.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02
năm 2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 137/2007/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8 năm 2007 Phê duyệt

Đề án tổ chức thông tin phục vụ công tác phòng, chống thiên tai trên biển;
Quyết định số 1041/QĐ-TTg ngày 22/7/2009 Phê duyệt Đề án đảm bảo
mạng lưới thông tin biển, đảo; Quyết định số 373/QĐ-TTG ngày 23/3/2010
Phê duyệt Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát
triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam... Các cơ quan ở Trung ương và địa
phương đã chủ động xây dựng kế hoạch, trực tiếp triển khai chương trình
hành động cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, toàn dân và đã đạt
được những kết quả quan trọng: Kinh tế biển, ven biển được quan tâm đầu
tư, phát triển theo hướng khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên biển kết
hợp phát triển lâm nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ
sản gắn phát triển nuôi trồng với nâng cao hiệu quả khai thác, đánh bắt; tăng
nhanh các ngành dịch vụ du lịch; kết hợp phát triển kinh tế biển bền vững
với đảm bảo an ninh quốc phòng vùng biển; xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế
đứng chân ổn định, vững chắc, sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp
xảy ra trên biển; xây dựng hệ thống nhà ở, tường, kè chống xói lở trên các
đảo thuộc quần đảo; quy hoạch, triển khai xây dựng cụm công nghiệp ven
biển; công tác quản lý Nhà nước về biển và công tác Cải cách hành chính
phục vụ phát triển kinh tế cảng và du lịch được quan tâm đẩy mạnh; thiết lập
các dự án, công trình nâng cao chất lượng môi trường ven biển, cải thiện
môi trường ven biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội mang tính bền
vững...
Để góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc
gia trên biển, đảo của Tổ quốc, Bộ Tư pháp quán triệt về " Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020" theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá X và
Đề án "Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền
vững biển và hải đảo Việt Nam" ban hành theo Quyết định số 373/QĐ-TTg
ngày 23/3/2010 của Thủ tướng chính phủ trong đó Bộ Tư pháp và cơ quan
Tư pháp địa phương cần tăng cường phối hợp với các Bộ, Ngành về công tác
tập huấn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, bảo vệ và

phát triển bền vững biển, hải đảo; phổ biến, cập nhật những văn bản chuyên
ngành trong nước về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên và
môi trường biển, hải đảo cho cán bộ, công chức, đơn vị vũ trang thực thi
nhiệm vụ trên khu vực biển, hải đảo; tìm hiểu, phân tích và phổ biến về
những khác biệt của hệ thống pháp luật chuyên ngành liên quan đến hoạt
động trên biển của Việt Nam so với pháp luật một số nước trong khu vực;
nâng cao nhận thức cộng đồng về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và
bảo vệ môi trường vùng ven biển, hải đảo; tăng cường tuyên truyền, phổ
biến kiến thức phòng ngừa, ứng phó, kiểm soát và khắc phục hậu quả thiên
tai, sự cố môi trường biển (nhất là đối với công chức tư pháp cấp xã,
phường, thị trấn vùng ven biển, hải đảo); nâng cao nhận thức về vị thế quốc
gia biển và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong quản lý, bảo vệ và phát
triển bền vững biển, hải đảo...
Năm 2010, Bộ Tài Nguyên và Môi trường chủ trì phát động “Tuần lễ
Biển và Hải đảo Việt Nam” với ý nghĩa là Tuần lễ quốc gia với chủ đề Ngày
Đại dương thế giới năm nay đã được Mạng lưới Đại dương toàn cầu lựa
chọn là “Đại dương của sự sống” (Ocean of Life) và thế kỷ XXI là thế kỷ
của Đại dương. Lễ Mít tinh kỷ niệm Ngày Đại dương thế giới (08/6) sẽ được
kết hợp cùng Ngày Môi trường thế giới (05/6) trong khuôn khổ Festival
Biển và hải đảo Việt Nam 2010 (dự kiến tổ chức tại thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình từ 04 - 06/6/2010).
Việt Nam là một quốc gia biển nằm ven bờ Biển Đông (biển Việt Nam rộng
gấp 3 lần diện tích đất liền) với đường bờ biển kéo dài trên 3.260km (không
kể bờ các đảo) và nhiều đảo (trên 3.000 đảo lớn nhỏ), trong đó có hai quần
đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa. Các đảo ven bờ và hai quần đảo
ngoài khơi là những “điểm tựa” chính yếu đối với phát triển kinh tế biển,
đảo và bảo đảm quốc phòng an ninh, vùng biển ở nước ta. Tài nguyên, đặc
biệt là dầu khí, thủy sản và tiềm năng du lịch cho phép có thể xây dựng
nhiều đảo thành các trung tâm kinh tế biển - đảo và dịch vụ cho các hoạt
động khai thác biển xa...

Câu hỏi tham khảo tham khảo Luật biển Quốc tế
Câu hỏi 1: Luật Biển quốc tế là gì? theo Công ước của Liên Hợp quốc về
Luật Biển năm 1982, Việt Nam có những vùng biển nào?
Trả lời:
a. Luật Biển quốc tế là gl?
Luật Biển quốc tế được hiểu một cách đơn giản nhất, là tổng hợp các
qui phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh hoạt động của các quốc gia trên
thế giới liên quan đến biển.
Công ước quốc tế về Luật Biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (sau đây
gọi tắt là Công ước 1982), có hiệu lực năm 1994 và Việt Nam là thành
viên của Công ước này (Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã chính
thức phê chuẩn ngày 23/6/1994), là một văn kiện quốc tế tổng hợp, toàn
điện, bao quát những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển
và đại dương thế giới, quy định những quyền và nghĩa vụ về nhiều mặt
của mọi loại quốc gia (có biển, không có biển, không phân biệt chế độ
kinh tế, chính trị, xã hội cũng như trình độ phát triển) đối với các vùng
biển thuộc phạm vi quốc tế, cũng như những vùng biển thuộc quyền tài
phán quốc gia.
b. Các vùng biển theo Công ước l982
Theo Công ước 1982, Việt Nam có quyền ở 5 vùng biển với phạm vi và
chế độ pháp lý khác nhau. Đó là: Nội thủy, Lãnh hải, Vùng tiếp giáp,
Vùng đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa. Tháng 5/1977, Chính phủ
nước CHXHCN Việt Nam ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tháng 11/1982, Chính phủ ra Tuyên
bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Hai văn
bản qui phạm pháp luật nói trên, mặc dù ban hành trước khi Công ước
1982 ra đời, nhưng đã phù hợp với Công ước, thể hiện được chủ trương,
chính sách của Nhà nước ta sớm nắm bắt tinh thần và xu hướng trong
tiến trình xây dựng Công ước từ trước đó.
Câu hỏi 2: Đường cơ sở Việt Nam được xác định như thế nào?

Trả lời:
Là đường cơ bản quốc gia ven biển có thể đơn phương xác định đùng làm
căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác.
Có hai loại đường cơ sở:
+ Đường cơ sở thông thường: Sử dụng ngấn nước triều thấp nhất ven bờ
biển hoặc đảo.
+ Đường cơ sở thẳng: Nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của bờ biển lục địa
hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển bị chia
cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển. Việt Nam có chuỗi
đảo dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định đường cơ sở thẳng.
Năm 1982 Chính phủ ta ra tuyên bố xác định đường cơ sở thẳng ven bờ lục
địa Việt Nam, gồm 10 đoạn nối 11 điểm (trừ phần trong Vịnh Bắc bộ và
vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia do ta còn đàm phán phân
định biển với Trung Quốc lúc đó và chưa tiến hành đàm phán phân định biển
với Campuchia).
Việt Namcũng không vạch đường cơ sở cho hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, vì hai quần đảo này không được hưởng quy chế quốc gia quần
đảo theo điều 46 của Công ước này.
Câu hỏi 3: Thế nào là vùng nước nội thủy? Việt Nam có quyền gì trong vùng
nước nội thủy của mình?
Trả lời:
Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối với Nội thủy, cũng như bầu
trời phía trên giống như trên lãnh thổ đất liền.
Vùng nước nội thuỷ là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải, tại đó các quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền
hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền đối với tàu thuyền
cộng đồng có tổ chức và đáp ứng các qui tắc riêng biệt.
Vùng nước nội thuỷ bao gồm: Các vùng nước cảng biển, vũng tàu, cửa sông,
vịnh, các vùng nước nằm giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở đùng để tính
chiều rộng lãnh hải.

Câu hỏi 4: Lãnh hải là gì? Quy chế pháp lý của nó như thế nào?
Trả lời:
Lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) tính từ đường cơ
sở, có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của
lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền của các
quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại và thường đi theo
tuyến phân luồng giao thông biển của nước ven biển.
Lãnh hải của nước CHXHCN Việt Namrộng 12 hải lý theo tuyên bố năm
1982 của Chính phủ Việt Nam.
Câu hỏi 5: Thế nào là vùng tiếp giáp lãnh hải? Chế dộ pháp lý vùng nước
này như thế nào?
Trả lời:
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với
lãnh hải, rộng 12 hải lý tính từ danh giới ngoài của lãnh hải, hợp với lãnh hải
Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Trong vùng tiếp giáp, nước ven biển
có quyền qui định biện pháp ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm đối
với luật lệ về nhập cư, thuế khóa, y tế, thậm chí cả an ninh, xảy ra trong lãnh
thổ hay lãnh hải của mình.
Câu hỏi 6: Vùng đặc quyền kinh tế là gì? Chế độ pháp lý của nó như thế
nào?
Trả lời:
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở
(188 hải lý tính từ ranh giới ngoài lãnh hải, 176 hải lý tính từ ranh giới ngoài
của vùng tiếp giáp).
Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định riêng biệt, được hình thành từ nhu
cầu quản lý tài nguyên, bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc gia ven biển.
Trong vùng biển này, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán
đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai
thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán đối với các

hoạt động nghiên cứu khoa học bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt
những công trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự
do hàng hải và đặt dây cáp và ống đẫn ngầm.
Vùng đặc quyền kinh tế của nước CHXHCN Việt Nam tiếp liền lãnh hải
Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải
lý kể từ đường cơ sở, đùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam theo tuyên
bố của Chính phủ Việt Nam năm 1977.
Câu hỏi 7: Thế nào là thềm lục địa, chế dộ pháp lý của nó như thế nào?
Trả lời:
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất đước đáy biển nằm bên ngoài
lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo đài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền của quốc gia này cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc tới giới hạn 200
hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải, khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng
cách gần hơn.
Tuy nhiên bề rộng tối đa của thềm lục địa tính theo bờ ngoài của rìa lục địa
không được vượt quá giới hạn 350 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải hoặc
không quá 100 hải ý bên ngoài đường đẳng sâu 2.500 m.
Thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam, bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển, thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam, mở rộng ra
ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, cách đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý theo tuyên
bố của Chính phủ Việt Nam năm 1977.
Câu hỏi 8: Khác nhau cơ bản giữa khái niệm thềm lục dịa và vùng đặc quyền
kinh tế là gì?
Trả lời:
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh
hải của quốc gia ven biển trên phần kéo đài tự nhiên của lãnh thổ đất liền
của quốc gia.
Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định riêng biệt áp dụng cho cột nước
phía trên đáy biển.

Câu hỏi 9: Thế nào là một Vịnh theo Công ước 1982?
Trả lời:
Vịnh là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền, chiều sâu của vùng lõm đó so
sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó
được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ
biển, diện tích của Vịnh ít nhất cũng bằng điện tích một nửa hình tròn có
đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm, đường khép
cửa vào tự nhiên của cửa vịnh không vượt quá 24 hải lý.
Như vậyVịnh có thể là của riêngmột quốc gia hoặc vịnh do bờ biển của
nhiều quốc gia bao bọc như:
Vịnh Bắc Bộ là Vịnh nằm giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND
Trung Hoa; Vịnh Thái Lan (còn gọi là Vịnh Xiêm) là một biển nửa kín, giới
hạn bởi bờ biển của 4 nước: Thái Lan (1.560 km2), Việt Nam (230 km2),
Malaixia (150 km2) và campuchia (460 km2).
Công ước năm 1982 không quy định về Vịnh lịch sử hay vùngnước lịch
sử,tuy nhiên theo tập quán và thựctiễnquốc tế, một vịnh được coi là lịch sử
khi có sự:
+ Thực hiện chủ quyền một cách thực sự của quốc gia ven biển.
+ Thực hiện việc sử dụng vùng biển này một cách liên tục, hòa bình và lâu
dài; không vấp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.

×