Tọa đàm :“WTO – cơ hội, thách thức và
hành động của chúng ta”
Tổng hợp và giới thiệu: Phạm Văn Kim
Phần 1
WTO- Lịch sử hình thành và nguyên tắc hoạt
động
Nguồn gốc
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO-World Trade
Organization ), được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1995, kế
tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ
chức tiền thân của nó là Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT).
GATT ra đời sau Đại chiến Thế giới lần thứ 2 trong trào lưu
hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp
tác kinh tế quốc tế, mà điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết
và Phát triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới
(World Bank) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay. Với ý
tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho
thương mại quốc tế điều tiếtcác lĩnh vực về công ăn việc làm,
về thương mại hàng hoá, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng
buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã
cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại
và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành
lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là cơ
quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước
này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan
và xử lý các biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan
trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30, nhằm thực
hiện mục tiêu tự do hoá mậu dịch, mở đường cho kinh tế và
thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập
và đời sống của nhân dân các nước thành viên.
1
Hiến chương thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nói
trên đã được thoả thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương
mại và việc làm ở Havana từ 11/1947 đến 24/3/1948, nhưng do
một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc thành
lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện
được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích
lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế đầu tiên là 45.000 ưu đãi
về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm
khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã
cùng nhau ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và Thương
mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về
thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ Hiệp uruguay
(1986- 1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát triển,
nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về
thuế quan mà còn tập chung xây dựng các Hiệp định hình thành
các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề về hàng rào phi
quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các
biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương mại
hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp.
Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở
rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT) với tư cách là một sự thoả thuận có nhiều nội dung ký
kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày
15/4/1994, tại Marrakesh (Marốc), kết thúc Hiệp định uruguay,
các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển
sự nghiệp của GATT. Theo đó, WTO chính thức được thành
lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt
động từ 1/1/1995.
Chức năng
WTO có các chức năng sau:
2
• Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO
• Diễn đàn đàm phán về thương mại
• Giải quyết các tranh chấp về thương mại
• Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
• Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát
triển
• Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
Đàm phán
Phần lớn các quyết định của WTO đếu dựa trên cơ sở đàm
phán và đồng thuận. Mỗi thành viên của WTO có một phiếu
bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc đồng thuận có ưu điểm
là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất
được tất cả các thành viên chấp nhận. Nhược điểm của nó là
tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có được một quyết
định đồng thuận. Đồng thời, nó dẫn đến xu hướng sử dụng
những cách diễn đạt chung chung trong hiệp định đối với
những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các
hiệp định gặp nhiều khó khăn.
Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra không phải qua sự
nhất trí của tất cả các thành viên, mà qua một quá trình đàm
phán không chính thức giữa những nhóm nước. Những cuộc
đàm phán như vậy thường được gọi là "đàm phán trong
phòng Xanh" (tiếng Anh: "Green Room" negotiations), lấy
theo màu của phòng làm việc của Tổng giám đốc WTO tại
Geneva, Thụy Sỹ. Chúng còn được gọi là "Hội nghị Bộ
trưởng thu hẹp" (Mini-Ministerials) khi chúng diễn ra ở các
nước khác. Quá trình này thường bị nhiều nước đang phát
triển chỉ trích vì họ hoàn toàn phải đứng ngoài các cuộc đàm
phán như vậy.
Richard Steinberg (2002) lập luận rằng mặc dù mô hình đồng
thuận của WTO đem lại vị thế đàm phán ban đầu dựa trên nền
3
tảng luật lệ, các vòng đàm phán thương mại kết thúc thông
qua vị thế đàm phán dựa trên nền tảng sức mạnh có lợi cho
Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, và có thể không đem đến sự
cải thiện Pareto. Thất bại nổi tiếng nhất và cũng gần đây nhất
trong việc đạt được một sự đồng thuận là tại các Hội nghị Bộ
trưởng diễn ra ở Seattle (1999) và Cancún (2003) do một số
nước đang phát triển không chấp thuận các đề xuất được đưa
ra.
WTO bắt đầu tiến hành vòng đàm phán hiện tại, Vòng đàm
phán Doha, tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 4 diễn ra tại Doha,
Qatar vào tháng 11 năm 2001. Các cuộc đàm phán diễn ra
căng thẳng và chưa đạt được sự nhất trí, mặc dù đàm phán
vẫn đang tiếp diễn qua suốt Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5 tại
Cancún, Mexico vào năm 2003 và Hội nghị Bộ trưởng lần thứ
6 tại Hồng Kông từ ngày 13 tháng 12 đến ngày 18 tháng 12
năm 2005.
Giải quyết tranh chấp
Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại,
WTO còn hoạt động như một trọng tài giải quyết các tranh
chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng
quy định của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế
khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc thực thi các
quyết định của mình thông qua việc cho phép áp dụng trừng
phạt thương mại đối với thành viên không tuân thủ theo phán
quyết của WTO. Một nước thành viên có thể kiện lên Cơ
quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ tin rằng
một nước thành viên khác đã vi phạm quy định của WTO
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm hai cấp: sơ
thẩm và phúc thẩm. Ở cấp sơ thẩm, tranh chấp sẽ được giải
quyết bởi một Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp. Ban hội
thẩm này thông thường gồm 3 chuyên gia trong lĩnh vực
4
thương mại liên quan. Ban hội thẩm sẽ nghe lập luận của của
các bên và soạn thảo một báo cáo trình bày những lập luận
này, kèm theo là phán quyết của ban hội thẩm. Trong trường
hợp các bên tranh chấp không đồng ý với nội dung phán
quyết của ban hội thẩm thì họ có thể thực hiện thủ tục khiếu
nại lên Cơ quan phúc thẩm. Cơ quan này sẽ xem xét đơn
khiếu nại và có phán quyết liên quan trong một bản báo cáo
giải quyết tranh chấp của mình. Phán quyết của các cơ quan
giải quyết tranh chấp nêu trên sẽ được thông qua bởi Hội
đồng Giải quyết Tranh chấp. Báo cáo của cơ quan giải quyết
tranh chấp cấp phúc thẩm sẽ có hiệu lực cuối cùng đối với
vấn đề tranh chấp nếu không bị Hội đồng Giải quyết Tranh
chấp phủ quyết tuyệt đối (hơn 3/4 các thành viên Hội đồng
giải quyết tranh chấp bỏ phiếu phủ quyết phán quyết liên
quan).
Trong trường hợp thành viên vi phạm quy định của WTO
không có các biện pháp sửa chữa theo như quyết định của Hội
đồng Giải quyết Tranh chấp, Hội đồng có thể ủy quyền cho
thành viên đi kiện áp dụng các "biện pháp trả đũa" (trừng phạt
thương mại). Những biện pháp như vậy có ý nghĩa rất lớn khi
chúng được áp dụng bởi một thành viên có tiềm lực kinh tế
mạnh như Hoa Kỳ hay Liên minh châu Âu. Ngược lại, ý
nghĩa của chúng giảm đi nhiều khi thành viên đi kiện có tiềm
lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có tiềm lực kinh
tế mạnh hơn, chẳng hạn như trong tranh chấp mang mã số DS
267 về trợ cấp bông trái phép của Hoa Kỳ.
Cơ cấu tổ chức
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội
đồng, ủy ban của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các
Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban đặc thù.
Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng
5
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng
diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của
tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một
nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng
đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối
với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương
của WTO.
Cấp thứ hai: Đại Hội đồng
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ
quan: Đại Hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội
đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau,
nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều
bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương)
của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là
chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau
của WTO.
1. Đại Hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO
tại Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng
bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương)
của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết
định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai
năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO.
2. Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem
xét và phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp
do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ trình. Hội
đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp
đại sứ hoặc tương đương).
3. Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại được nhóm
họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của
các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương
mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc
rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với
6
những thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành
cách quãng hơn.
Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội
đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại
Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các
khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương
mại. Mội hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương
tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất
cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn
có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo
cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và
phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và
các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm
Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các
nước xin gia nhập WTO.
1. Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với
các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên
quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa.
2. Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với
các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về
Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên
quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ.
3. Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên
quan đến Thương mại chịu trách nhiệm đối với các hoạt
động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của
Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS),
cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong
lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan
7
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các
lĩnh vực chuyên môn riêng biệt.
1. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1
nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc thù.
2. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm
công tác, và 2 ủy ban đặc thù.
3. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban
Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha,
WTO đã thành lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc
Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm
phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan
đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Các nguyên tắc
• Không phân biệt đối xử:
1. Đãi ngộ quốc gia: Không được đối xử với hàng hóa và
dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các
hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho
các đối tượng tương tương tự trong nước.
2. Đãi ngộ tối huệ quốc : Các ưu đãi thương mại của một
thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được
áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO.
• Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán
• Tính Dự đoán thông qua Liên kết và Minh bạch: Các quy
định và quy chế thương mại phải được công bố công khai
và thực hiện một cách ổn định.
• Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển: Giành những
thuận lợi và ưu đãi hơn cho các thành viên là các quốc gia
đang pháp triển trong khuôn khổ các chế định của WTO.
Các hiệp định
8
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác
nhau điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các
hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc
Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại
Marrakesh, Maroc vào ngày 15 tháng 4 năm 1994. Bốn phụ
lục đó bao gồm các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ
trong thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ
chế rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên,
các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số vấn
đề không đạt được đồng thuận tại diễn đàn chung. Các nước
muốn trở thành thành viên của WTO phải ký kết và phê
chuẩn hầu hết những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa thuận
tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của WTO:
• Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994
(GATT 1994)
• Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)
• Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của
Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS)
• Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương
mại (TRIMS)
• Hiệp định về Nông nghiệp (AoA)
• Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC)
• Hiệp định về Chống bán Phá giá
• Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống Trợ cấp
• Hiệp định về Tự vệ
• Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu
• Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS)
• Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại
(TBT)
• Hiệp định về Định giá Hải quan
• Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển
• Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO)
• Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp
9
Thành viên
Đến ngày 7 tháng 11 năm 2006, WTO có 150 thành viên .
Việt Nam
[1]
là thành viên mới nhất của WTO.
• Albania - 8 tháng 9
2000
• Angola - 23 tháng 11
1996
• Antigua và Barbuda
- 1 tháng 1 1995
• Argentina - 1 tháng 1
1995
• Armenia - 5 tháng 2
2003
• Australia - 1 tháng 1
1995
• Áo - 1 tháng 1 1995
• Bahrain - 1 tháng 1
1995
• Bangladesh - 1 tháng
1 1995
• Barbados - 1 tháng 1
1995
• Bỉ - 1 tháng 1 1995
• Belize - 1 tháng 1
1995
• Bénin - 22 tháng 2
1996
• Bolivia - 12 tháng 9
1995
• Botswana - 31 tháng
5 1995
• Brasil - 1 tháng 1
1995
• Kuwait - 1 tháng 1 1995
• Kyrgyzstan - 20 tháng 12
1998
• Latvia - 10 tháng 2 1999
• Lesotho - 31 tháng 5 1995
• Liechtenstein - 1 tháng 9
1995
• Litva - 31 tháng 5 2001
• Luxembourg - 1 tháng 1
1995
• Macao - 1 tháng 1 1995
• Madagascar - 17 tháng 11
1995
• Malawi - 31 tháng 5 1995
• Malaysia - 1 tháng 1 1995
• Maldives - 31 tháng 5 1995
• Mali - 31 tháng 5 1995
• Malta - 1 tháng 1 1995
• Mauritania - 31 tháng 5
1995
• Mauritius - 1 tháng 1 1995
• Mexico - 1 tháng 1 1995
• Moldova - 26 tháng 7 2001
• Mông Cổ - 29 tháng 1 1997
• Maroc - 1 tháng 1 1995
• Mozambique - 26 tháng 8
1995
• Myanma - 1 tháng 1 1995
• Namibia - 1 tháng 1 1995
• Nepal - 23 tháng 4 2004
10
• Brunei - 1 tháng 1
1995
• Bulgaria - 1 tháng 12
1996
• Burkina Faso - 3
tháng 6 1995
• Burundi - 23 tháng 7
1995
• Cambodia - 13 tháng
10 2004
• Cameroon - 13 tháng
12 1995
• Canada - 1 tháng 1
1995
• Cộng hoà Trung Phi
- 31 tháng 5 1995
• Tchad - 19 tháng 10
1996
• Chile - 1 tháng 1
1995
• Trung Quốc - 11
tháng 12 2001
• Colombia - 30 tháng
4 1995
• Cộng hoà Congo - 27
tháng 3 1997
• Costa Rica - 1 tháng
1 1995
• Côte d'Ivoire - 1
tháng 1 1995
• Croatia - 30 tháng 11
2000
• Cuba - 20 tháng 4
1995
• Hà Lan (và Antilles thuộc
Hà Lan) - 1 tháng 1 1995
• New Zealand - 1 tháng 1
1995
• Nicaragua - 3 tháng 9 1995
• Niger - 13 tháng 12 1996
• Nigeria - 1 tháng 1 1995
• Na Uy - 1 tháng 1 1995
• Oman - 9 tháng 11 2000
• Pakistan - 1 tháng 1 1995
• Panama - 6 tháng 9 1997
• Papua New Guinea - 9
tháng 6 1996
• Paraguay - 1 tháng 1 1995
• Peru - 1 tháng 1 1995
• Philippines - 1 tháng 1
1995
• Ba Lan - 1 tháng 7 1995
• Bồ Đào Nha - 1 tháng 1
1995
• Qatar - 13 tháng 1 1996
• Romania - 1 tháng 1 1995
• Rwanda - 22 tháng 5 1996
• Saint Kitts và Nevis - 21
tháng 2 1996
• Saint Lucia - 1 tháng 1
1995
• Saint Vincent và
Grenadines - 1 tháng 1
1995
• Ả Rập Saudi - 11 tháng 12
2005
• Sénégal - 1 tháng 1 1995
• Sierra Leone - 23 tháng 7
11
• Kypros - 30 tháng 7
1995
• Cộng hoà Séc - 1
tháng 1 1995
• Cộng hoà Dân chủ
Congo - 1 tháng 1
1997
• Đan Mạch - 1 tháng
1 1995
• Djibouti - 31 tháng 5
1995
• Dominica - 1 tháng 1
1995
• Cộng hoà
Dominicana - 9
tháng 3 1995
• Ecuador - 21 tháng 1
1996
• Ai Cập - 30 tháng 6
1995
• El Salvador - 7 tháng
5 1995
• Estonia - 13 tháng 11
1999
• Cộng đồng châu Âu -
1 tháng 1 1995
• Fiji - 14 tháng 1
1996
• Phần Lan - 1 tháng 1
1995
• Macedonia - 4 tháng
4 2003
• Pháp - 1 tháng 1
1995
1995
• Singapore - 1 tháng 1 1995
• Slovakia - 1 tháng 1 1995
• Slovenia - 30 tháng 7 1995
• Quần đảo Solomon - 26
tháng 7 1996
• Cộng hoà Nam Phi - 1
tháng 1 1995
• Tây Ban Nha - 1 tháng 1
1995
• Sri Lanka - 1 tháng 1 1995
• Suriname - 1 tháng 1 1995
• Swaziland - 1 tháng 1 1995
• Thụy Điển - 1 tháng 1 1995
• Thụy Sĩ - 1 tháng 7 1995
• Trung Hoa Đài Bắc - 1
tháng 1 2002
• Tanzania - 1 tháng 1 1995
• Thái Lan - 1 tháng 1 1995
• Togo - 31 tháng 5 1995
• Trinidad và Tobago - 1
tháng 3 1995
• Tunisia - 29 tháng 3 1995
• Thổ Nhĩ Kỳ - 26 tháng 3
1995
• Uganda - 1 tháng 1 1995
• Các Tiểu Vương quốc Ả
Rập Thống nhất - 10 tháng
4 1996
• Vương quốc Liên hiệp Anh
và Bắc Ireland - 1 tháng 1
1995
• Hoa Kỳ - 1 tháng 1 1995
• Uruguay - 1 tháng 1 1995
12
• Gabon - 1 tháng 1
1995
• Gambia - 23 tháng
10 1996
• Gruzia - 14 tháng 6
2000
• Đức - 1 tháng 1 1995
• Ghana - 1 tháng 1
1995
• Hy Lạp - 1 tháng 1
1995
• Grenada - 22 tháng 2
1996
• Guatemala - 21
tháng 7 1995
• Guinée - 25 tháng 10
1995
• Guiné-Bissau - 31
tháng 5 1995
• Guyana - 1 tháng 1
1995
• Haiti - 30 tháng 1
1996
• Honduras - 1 tháng 1
1995
• Hồng Kông - 1 tháng
1 1995
• Hungary - 1 tháng 1
1995
• Iceland - 1 tháng 1
1995
• Ấn Độ - 1 tháng 1
1995
• Indonesia - 1 tháng 1
• Venezuela - 1 tháng 1 1995
• Việt Nam - 7 tháng 11
2006
• Zambia - 1 tháng 1 1995
• Zimbabwe - 5 tháng 3 1995
13
1995
• Ireland - 1 tháng 1
1995
• Israel - 21 tháng 4
1995
• Ý - 1 tháng 1 1995
• Jamaica - 9 tháng 3
1995
• Nhật Bản - 1 tháng 1
1995
• Jordan - 11 tháng 4
2000
• Kenya - 1 tháng 1
1995
• Hàn Quố c - 1 tháng
1 1995
,17h chiều ngày 7 tháng 11 năm 2006, ông Chủ tịch Đại hội
đồng WTO đã gõ búa chính thức xác nhận VN là thành viên
thứ 150 của tổ chức này. Nhưng phải đến ngày 28/11 tới,
Quốc hội Việt Nam sẽ xem xét, thảo luận việc Việt Nam gia
nhập WTO. 30 ngày sau khi WTO nhận được quyết định phê
chuẩn của Quốc hội Việt Nam, VN sẽ trở thành thành viên
đầy đủ của tổ chức này.
Ph ầ n 2
C ơ h ộ i và nh ữ ng thách th ứ c c ủ a Vi ệ t nam khi
gia nh ậ p WTO và hành đ ộng của chúng ta
Trước hết phải trả lời câu hỏi VN gia nhập WTO
để làm gì?
Vào làm chi?
14
Một nước muốn phát triển thì phải gia tăng mức sản xuất về hàng hóa
và dịch vụ để ai cũng có công ăn việc làm, đồng lương khấm khá, có
mua có sắm, có để dành cho con cháu.
Muốn vậy phải trao đổi hàng hóa và dịch vụ của mình với các nước
khác; mua nguyên liệu của họ, bán sản phẩm của mình hay ngược lại.
Nếu khi mình phải mua bán như thế mà bị 1, 2 nước nào đó ách lại; chỉ
cho hàng mình nhập vào họ theo hạn ngạch, hay phải có giấy phép khi
nhập khi xuất, hay đánh thuế quan cao (các biện pháp bảo hộ mậu
dịch) thì việc thương mại sẽ bị kẹt.
WTO hiện có 149 nước hội viên, họ mua bán với nhau theo các nguyên
tắc tối huệ quốc, đối xử quốc gia mà mình cứ đứng ngoài thì sẽ bị bỏ
rơi về mặc kinh tế và phát triển. Do vậy khi nền kinh tế của quốc gia
phát triển đến mức nào đó thì phải gia nhập để được chơi chung.
Phải làm gì?
Là hội viên của WTO, chính phủ ta phải 2 việc: tiếp tục các chính sách
kinh tế mà dù có là thành viên hay không vẫn phải làm; xin gọi là chính
sách cơ bản: thứ nữa, phải thực hiện một số công tác mới trong tư cách
hội viên của WTO; đó là chính sách đáp ứng. Hai công tác này hỗ trợ
nhau, cái sau thúc đẩy cái trước và cái trước tạo điều kiện cho cái sau.
Doanh nghiệp làm chi?
Dùng hình ảnh biển ở Vũng Tàu để chỉ 149 nước trong WTO, VN ta là
sông Sài Gòn và DN là các loại thuyền bè đi lại trên sông Sài Gòn. Các
doanh nghiệp của ta đang làm ăn thì chính phủ ta khai rộng bờ và đào
sông sâu, theo yêu cầu của WTO, khiến nước từ biển ùa vào; sông hòa
với biển. Trong tình cảnh này, các DN thấy bị “sóng đánh” từ 4 phía:
- Do việc chính phủ tạo dẹp bớt rào cản, thị trường bớt rào cản, một môi
trường kinh doanh cạnh tranh mở ra cho mọi DN; hàng hóa và dịch vụ
từ các nước ngoài ùa vào và doanh nhân thấy hàng hóa của mình bị
cạnh tranh khốc liệt, liên tục gỉam giá, tăng mức chiết khấu, kéo dài
khuyến mãi mà bán mãi chưa hết, thu tiền về khó hơn trước. Đó là tác
động của cạnh tranh.
- Do việc các nước khác mở cửa thị trường của họ cho mình, mức thuế
quan thấp, bỏ hạn ngạch cho hàng của mình bán sang bên đó; lấy
ngoại tệ về; thu lời lãi để tái đầu tư mở rộng. Tác động gia tăng xuất
khẩu.
15
- Do chuyện đầu tư nước ngoài bây giờ không còn phải trả tiền thuê đất
cao hơn, tiền trả cho điện nước cũng không khác gì với giá dành cho
DN trong nước nên DN thấy có các DN của người nước ngoài xuất
hiện, biến mình thành nhà cung cấp hay mua hàng của họ, hay hàng
của họ cạnh tranh với hàng mình. Tác động của sự sầm uất.
- Cuối cùng, một ngày nào đó trong mội trường cạnh tranh và bình đẳng
bỗng thấy nhãn hiệu hàng hóa của mình đã đăng ký bị người khác bắt
chước hay bỗng nhiên thấy hàng mình đang bán bị quản lý thị trường
ách lại vì có ai thưa mình vi phạm nhãn hiệu hàng hóa của họ hay bắt
chước kiểu dáng của họ. Tác động về tăm tiếng.
Trong từng tác động một DN sẽ phải hành động khác nhau. Tuy nhiên,
điểm đáng lưu ý sau khi gia nhập WTO là bây giờ các DN phải đóng vai
trò chính; chính quyền chỉ hỗ trợ ; không thể bao biện hay quản lý như
trước.
Còn DN phải tự chống chỏi và chính quyền chỉ còn - và bị luật WTO
buộc - đứng ngoài việc đi lại của các con tàu. Nhiệm vụ của chính
quyền bây giờ là giữ cho lòng sông sâu, giữ cho bờ sông rộng; tạo cho
luồn gió thổi trên cả dòng sông; nghĩa là bảo đảm cho môi trường kinh
doanh phân minh, bình đẳng cho tất cả tàu thuyền. Hoàn cảnh kinh tế
mới của chúng ta là như thế. Gia nhập WTO có ý nghĩa như vậy
Căng thẳng trong đàm phán
Thứ trưởng Lương Văn Tự cho biết, đàm phán gia nhập WTO, một
trong những nguyên tắc khó khăn nhất chúng ta phải vượt qua là để
các nước hiểu thực tế VN và công nhận VN là nước đang phát triển ở
trình độ thấp và nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
Nhưng có một nghịch lý là mặc dầu VN có mức thu nhập bình quân đầu
người chưa đầy 1.000 USD/năm và theo quy định của WTO những
nước kém phát triển là nước có thu nhập dưới 1.000 USD song VN
không được xếp vào nước kém phát triển vì Liên hợp quốc công nhận
VN là nước đang phát triển (khi xem xét có cộng thêm các tiêu chí về y
tế, văn hóa, giáo dục). Về kinh tế thu nhập chúng ta thấp vì vậy chúng
ta phải thương lượng để được công nhận ở trình độ thấp.
Cuối cùng chúng ta cũng được công nhận là một nước đang phát triển
ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi. Điều này rất quan
trọng vì chúng ta đã được WTO chấp thuận một thời gian chuyển đổi
khi thực hiện một số cam kết WTO trong vấn đề thuế TTĐB, trợ cấp phi
nông nghiệp, quyền kinh doanh.
16