Quy chế nền kinh tế phi thị trường và vấn đề minh bạch để ứng
phó với các vụ kiện bán phá giá
Dương Anh Sơn -TS Luật, Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề: Trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới Việt Nam có
nhiều cơ hội trong việc tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành
viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở
cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều
đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự
lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài
biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch
xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo
đảm tăng trưởng
1
. Mặt khác việc chính thức trở thành thành viên của WTO cũng đặt ra
cho chúng ta không ít thách thức. Ngoài những thách thức mà chúng ta đã nói đến rất
nhiều, ngay cả trong bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân sự kiện Việt
Nam gia nhập WTO. Một trong những vấn đề mà chúng ta phải đối mặt và đương đầu đó
là hàng Việt Nam bị kiện vì bán phá giá ở thị trường nước ngoài. Thách thức này là hệ
qủa trực tiếp của cơ hội nói trên. Một điều chắc chắn rằng, khi đã là thành viên của
WTO, hàng hoá Việt Nam được tiếp cận thị trường nước ngoài dễ dàng hơn và vì vậy
khả năng bị kiện vì bán phá giá sẽ cao hơn. Trước đây, khi chưa phải là thành viên của
WTO, trong các vụ kiện hàng Việt Nam bán phá giá ở nước ngoài, chúng ta thường bị
thua kiện vì rất nhiều lý do khác nhau, trong số đó: i) Không được đối xử bình đẳng,
không được xét xử theo luật chung; ii) Việt Nam chưa được công nhận là quốc gia có nền
kinh tế thị trường. Hiện nay, một vấn đề được các nhà hoạch định chính sách, giới luật
học, các nhà kinh tế, các doanh nghiệp là khả năng thắng kiện trong các vụ kiện hàng
Việt Nam bán phá giá ở nước ngoài cao hay thấp?
Gia nhập WTO, chúng ta đã giải quyết được vấn đề thứ nhất. Rõ ràng từ nay,
trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế, chúng ta sẽ được đối xử bình đẳng hơn,
được xét xử theo luật chung của WTO. Không như trước đây, kể từ nay chúng ta hoàn
toàn khiếu kiện các quyết định của quốc gia nhập khẩu về việc áp dụng thuế chống bán
phá giá đối với sản phẩm của chúng ta nếu chúng ta không đồng ý với các quyết định đó.
Vấn đề thứ hai, Việt Nam chưa được công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị
trường trong vòng 12 năm kể từ ngày gia nhập WTO. Rõ ràng điều này có sự ảnh hưởng
không nhỏ đến các vụ kiện hàng Việt Nam bán phá giá ở nước ngoài. Nhiều chuyên gia
và các nhà hoạch định chính sách của chúng ta coi đây là một bất lợi cho Việt Nam. Phải
ý thức được rằng, việc một quốc gia nào đó kiện hàng Việt Nam bán phá giá trên thị
1
Xem: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Gia nhập WTO, cơ hội- thách thức và hành động của
chúng ta. Website của Chính phủ, ngày 7.11.2006
1
trường của họ là theo pháp luật của họ, tuy nhiên pháp luật về chống bán phá giá của các
quốc gia thành viên WTO về nguyên tắc phải phù hợp với Điều VI GATT 94 và Hiệp
định AD của WTO. Theo nguyên tắc, để xác định sản phẩm nhập khẩu có bán phá giá
hay không cần phải so sánh giá của sản phẩm đó được bán ở nước nhập khẩu với giá trị
thông thường của sản phẩm trong cùng điều kiện thương mại. Về vấn đề này pháp luật về
chống bán phá giá của các nước được xây dựng trên cơ sở Điều 2 của Hiệp định về
chống bán phá giá của WTO (Hiệp định AD). Tuy nhiên các cách thức xác định giá trị
thông thường của sản phẩm bị cho là bán phá giá được quy định tại Điều 2 của Hiệp định
AD chỉ được áp dụng cho sản phẩm có xuất xứ từ các nước có nền kinh tế thị trường.
Còn đối với sản phẩm nhập khẩu có xuất xứ từ các quốc gia không có nền kinh tế thị
trường thì có thể không sử dụng các cách thức nói trên để xác định giá trị thông thường
để xác định biên độ phá giá. Mặc dù GATT 94 và Hiệp định AD trực tiếp không quy
định cho phép các quốc gia thành viên được sử dụng cách thức xác định giá trị thông
thường bằng cách so sánh với sản phẩm của nước thứ 3 có trình độ phát triển tương tự,
tuy nhiên Điểm 2 Đoạn 1 Bổ sung Điều VI Phụ lục I của GATT 94 (Điều khoản bổ sung
thứ 2 đối với khoản 1, Điều VI) - Ghi chú và các quy định bổ sung, một cách gián tiếp
cho phép điều đó.
Theo quy định của Điều khoản bổ sung thứ 2 đối với khoản 1, Điều VI GATT 94,
trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu từ một nước mà thương mại hoàn toàn mang tính
chất độc quyền hay hầu như độc quyền hoặc toàn bộ giá trong nước do Nhà nước định
đoạt, việc xác định tính so sánh của giá cả nhằm mục đích xác định giá trị thông thường
của sản phẩm có thể có những khó khăn đặc biệt và trong những trường hợp đó, các bên
ký kết là nước nhập khẩu có thể thấy cần tính đến khả năng rằng, việc so sánh chúng với
giả cả trong nước của nước xuất khẩu không phải lúc nào cũng thích đáng. Có thể nói
rằng, quy định tại điều khoản bổ sung thứ 2 đối với khoản 1, Điều VI GATT 94 chỉ đơn
giản nêu lên một thực tế, và không đưa ra bất cứ hướng dẫn nào về các hành động mà các
cơ quan thẩm quyền điều tra cần tiến hành để xử lý các trường hợp phá giá liên quan tới
các nền kinh tế phi thị trường. Không những thế, Điều khoản bổ sung thứ 2 đối với
khoản 1, Điều VI cũng không đưa ra một danh sách các nước thuộc loại này. Không có
một nước nào trên thế giới ngày nay, ngoại trừ Bắc Triều Tiên, hội đủ tiêu chí như là độc
quyền hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn của Nhà nước. Thế nhưng thực tiễn cho thấy
rằng, quy định này được các quốc gia thành viên, đặc biệt là các nước phát triển như Hoa
Kỳ, EU…sử dụng triệt để nhằm mục đích bảo hộ tối đa ngành sản xuất trong nước của
họ
2
. Theo luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và của EU, các nhà sản xuất ở các nước
chuyển đổi phải chứng tỏ rằng họ hoạt động theo những điều kiện thị trường. Nước nhập
2
Xem: Các quy định thương mại tuỳ tiện: Chống bán phá giá và quy chế nền kinh tế phi thị trường áp
đặt cho Việt Nam. Tài liệu đối thoại chính sách của UNDP 2006/4.
2
khẩu (khiếu nại) không có trách nhiệm cung cấp bằng chứng. Tuy nhiên, Hoa Kỳ và EC
xác định quy chế phi thị trường căn cứ vào luật riêng của họ hơn là căn cứ vào những
tiêu chuẩn được thoả thuận quốc tế. Các nền kinh tế chuyển đổi ít có cơ hội bảo vệ mình
trong một khoảng thời gian hạn chế để cho việc cung cấp bằng chứng về các cơ chế kinh
tế thị trường dưới dạng trả lời các câu hỏi. Hơn nữa, không rõ là chính xác thì các nền
kinh tế chuyển đổi phải thoả mãn những yêu cầu gì để đạt kinh tế thị trường.
Luật của Hoa Kỳ cũng như luật của EU dựa trên giá cả ở các nước có nền kinh tế
thị trường được dùng để thay thế để xác định giá trị thông thường cho nước không có nền
kinh tế thị trường đang bị điều tra. Trong các vụ chống hàng Việt Nam bán phá giá nhập
khẩu vào thị trường của họ, cả Hoa Kỳ lẫn EU đều bỏ qua giá cả và chi phí trong nước ở
Việt Nam mà xác định giá trị thông thường bằng cách sử dụng một nước thứ ba là nước
có nền kinh tế thị trường để thay thế. Theo nguyên tắc, bất kỳ chính phủ nào cũng phải
bảo vệ lợi ích của các nhà sản xuất trong nước của họ, chính vì lẽ đó nên chính phủ các
nước nhập khẩu chọn nước thay thế để xác định giá đúng ở nền kinh tế phi thị trường
luôn luôn có lợi cho họ. Sự tuỳ tiện trong việc chọn nước thay thế tạo ra một lợi thế to
lớn cho bên nhập khẩu bởi vì họ có thể chọn những nước nào đem lại kết quả mong
muốn trong các điều tra chống bán phá giá. Như vậy, trong các vụ kiện chống bán phá
giá mà Việt Nam là bị đơn, việc so sánh hàng hóa do chúng ta sản xuất với giá thành của
một nước thứ ba có cùng điều kiện đúng là bất lợi cho chúng ta, bởi vì nước so sánh do
nguyên đơn lựa chọn, chúng ta hoàn toàn bị động trong vấn đề này. Ví dụ, trong vụ cá
basa nước thay thế là Bănglađet, trong vụ tôm đông lạnh nước thay thế là Ấn Độ, Trong
vụ giầy da nước thay thế là Braxin
3
.
Có thể nói rằng, việc xác định giá trị thông thường để tính biên độ bán phá giá
bằng cách so sánh giá bán ở nước nhập khẩu với giá của một nước thứ ba có nền kinh tế
thị trường có trình độ phát triển tương tự sẽ dẫn tới biên độ phá giá bị phóng đại qua việc
làm tăng giá trị thông thường một cách giả tạo. Thông thường giá của sản phẩm của nước
thứ ba được chọn để so sánh thường cao hơn giá sản phẩm được sản xuất ở quốc gia bị
đơn. Điều này được chứng minh qua các vụ kiện mà Việt Nam là bị đơn. Trong thực tiễn,
giá cá basa ở Băng la đét là cao hơn giá cá basa của Việt Nam, Giầy da do Braxin sản
xuất có giá thành cao hơn giá thành của giầy da do Việt Nam sản xuất…kết quả là trong
các vụ hàng Việt Nam bị kiện bán phá giá ở nước ngoài thì biên độ bán phá giá thường là
rất cao.
Rõ ràng việc Việt Nam bị coi là quốc gia không có nền kinh tế thị trường là điều
bất lợi cho chúng ta trong các vụ kiện hàng Việt Nam bán phá giá ở nước ngoài, tuy
nhiên Luật chống bán phá giá của các nước cũng như theo cam kết của Việt Nam khi gia
nhập WTO, “nếu Việt Nam khẳng định được rằng các điều kiện của kinh tế thị trường đã
3
Xem: Các quy định thương mại tuỳ tiện: Chống bán phá giá và quy chế nền kinh tế phi thị trường áp đặt
cho Việt Nam. Tài liệu đối thoại chính sách của UNDP 2006/4
3
tồn tại tại một ngành cụ thể chiểu theo luật quốc gia của nước nhập khẩu là thành viên
WTO, các quy định trong tiểu mục (a) liên quan tới kinh tế chưa phải là kinh tế thị
trường sẽ không còn áp dụng được cho ngành đó”
4
. Điều này có nghĩa là, cho dù Việt
Nam có bị coi là nước có nền kinh tế phi thị trường thì các nhà sản xuất/xuất khẩu của
chúng ta vẫn có quyền yêu cầu được sử dụng các phương pháp được quy định tại Điều 2
của Hiệp định AD để xác định giá trị thông thường nếu chứng minh được rằng, họ hoạt
động trong những điều kiện của nền kinh tế thị trường và không bị can thiệp quá nhiều từ
Chính phủ. Nếu cơ quan điều tra của nước nhập khẩu chấp nhận thì việc tính toán biên
độ phá giá của riêng các nhà sản xuất/xuất khẩu này sẽ được dựa trên giá cả và chi phí
sản xuất tại chính nước xuất khẩu mà không cần sử dụng nước thay thế. Theo pháp luật
của Hoa Kỳ và EU, một trong những tiêu chí để xác định khu vực kinh tế hay ngành sản
xuất nào đó có hoạt động theo cơ chế thị trường hay không là những chi phí chính đầu
vào (kể cả vật chất và phi vật chất) của việc sản xuất hàng hoá phải được thanh toán theo
giá thị trường. Điều này cũng có nghĩa là doanh nghiệp phải chứng minh được rằng, hoạt
động tài chính của họ phải minh bạch, rõ ràng. Như vậy, việc Việt Nam bị coi là quốc gia
có nền kinh tế phi thị trường không làm cho các doanh nghiệp của chúng ta mất đi cơ hội
được đối xử như các quốc gia có nền kinh tế thị trường trong các vụ kiện chống bán phá
giá. Để đạt được điều này các doanh nghiệp của chúng ta phải chứng tỏ được sự minh
bạch trong hoạt động của mình.
Theo quan điểm của chúng tôi, có lẽ cần phải xác định, có hay không sự minh
bạch trong hoạt động của các doanh nghiệp của Việt Nam, hay nói chính xác hơn là độ
minh bạch thể hiện ở mức độ cao hay thấp. Có thể nói rằng, hiện nay hoạt động của các
doanh nghiệp chúng ta chưa có sự minh bạch, rõ ràng. Hệ thống kế toán còn chưa phù
hợp với các chuẩn mực của kế toán quốc tế, hệ thống hai sổ sách vẫn là hiện tượng phổ
biến kể cả đối với doanh nghiệp dân doanh và đối với doanh nghiệp nhà nước. Thực tiễn
cho thấy rằng, các doanh nghiệp Việt Nam thường vi phạm các nguyên tắc về tổ chức kế
toán, bao gồm cả tổ chức bộ máy và tổ chức công tác kế toán nhất là về phân cấp hạch
toán. Việc sử dụng, lưu hành các chứng từ kế toán bất hợp pháp, không hợp lệ là hiện
tượng phổ biến. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp có chủ ý gây nhiễu khi thiết kế sơ
đồ hạch toán và vi phạm các quy tắc ghi sổ, che dấu các quan hệ tài chính bất minh, hạch
toán sai doanh thu, chi phí, thu nhập, xuyên tạc kết quả sản xuất kinh doanh bằng cách
biến lãi thành lỗ, hoặc ngược lại, hoặc chế biến mức lãi lỗ theo những động cơ sai trái,
đặc biệt để trốn thuế. Không ít trường hợp doanh nghiệp không duy trì, hoặc có ý không
duy trì sự hạch toán liên tục, đúng kỳ, vi phạm quy định về lập báo cáo kế toán, vi phạm
quy định bảo quản, lưu giữ hồ sơ kế toán và cố tình che dấu, làm thất lạc hoặc hủy hoại
4
Xem: Các văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam, UBQG-HTKTQT, tr.110-111
4
tài liệu, hồ sơ kế tốn. Điều này được thể hiện khá rõ qua một số vụ tranh chấp thương
mại quốc tế, cụ thể là các vụ sản phẩm của Việt Nam bị kiện bán phá giá trong thời gian
gần đây
5
. Khi bị EU có những động thái để chuẩn bị cho việc khởi kiện các sản phẩm dày
da nhập khẩu từ Việt Nam thì những người có thẩm quyền của chúng ta cũng chỉ có thể
khuyến nghị các doanh nghiệp nên chuẩn bị sẵn sàng các tài liệu về hoạt động của doanh
nghiệp mình. Trong vụ giày da Việt Nam bị kiện bán phá giá, mặc dù Việt Nam bị coi là
quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, tuy nhiên Liên minh châu Âu khơng mang sản
phẩm của chúng ta so sánh ngay với sản phẩm của nước thứ ba, mà Luật của châu Âu
cho phép từng cơng ty có thể xin được xem xét để có thể được áp dụng quy chế thị
trường. Tám doanh nghiệp được chọn làm mẫu để điều tra thì khơng có doanh nghiệp
nào đáp ứng được các tiêu chí của quy chế thị trường, mà một trong những tiêu chí đó
chính là sự minh bạch tài chính.
Như vậy, có thể nói rằng, với những điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay, việc Việt
Nam chúng ta có được coi là nước có nền kinh tế thị trường hay khơng, theo quan điểm
của chúng tơi, ít có sự ảnh hưởng đến các phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền của
nước nhập khẩu về việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với các sản phẩm
nhập khẩu có nguồn gốc từ Việt Nam. Bởi một trong những cách thức xác định giá trị
thơng thường là so sánh giá bán hàng ở nước nhập khẩu với chi phí sản xuất, chi phí quản
lý và một khoản lợi nhuận hợp lý. Khơng minh bạch thì khó có thể xác định được giá trị
thơng thường của sản phậm bị coi là bán phá giá ở thị trường của nước nhập khẩu được
theo các quy tắc được quy định tại Điều 2 Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Và
như vậy thì theo quy định của Điều 6.8 Hiệp định AD của WTO, trong trường hợp bất kỳ
bên nào từ chối khơng cho tiếp cận thơng tin hoặc từ chối khơng cung cấp các thơng tin
trong khoảng thời gian hợp lý hoặc ngăn cản q trình điều tra, quyết định sơ bộ hoặc
quyết định cuối cùng, dù khẳng định hay từ chối, đều có thể được đưa ra dựa trên cơ sở
các chứng cứ sẵn có. Điều này được quy định chi tiết hơn trong Phụ lục II của Hiệp định
AD (Các thơng tin tốt nhất có được theo các điều kiện của Khoản 8 Điều 6 Hiệp định
AD). Phương pháp này được gọi là phương pháp áp dụng các thơng tin sẵn có bất lợi. Có
thể nói rằng, cho dù hiện nay, nếu Việt Nam có được cơng nhận là quốc gia có nền kinh
tế thị trường thì trong các vụ điều tra hàng VIệt Nam bán phá giá ở nước ngồi thì cơ
quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ sử dụng các thơng tin, số liệu sẵn có do ngun đơn
là các nhà sản xuất trong nước của nước nhập khẩu cung cấp và tất nhiên việc sử dụng
các thơng tin, số liệu này sẽ gây bất lợi cho các nhà xuất khẩu của chúng ta là những bị
đơn trong các vụ kiện đó.
5
Trong vụ kiện giầy da, Liên minh châu u kiểm tra 8 doanh nghiệp, tuy nhiên không có doanh nghiệp
nào đáp ứng được các chuẩn mực của kế toán quốc tế.
5