Chương 2.
THƯƠNG MẠI HÀNG HOÁ
I. Thuế quan và nhân nhượng thuế quan
Tự do hoá thương mại thường đông nghĩa với các vấn đề: Xoá bỏ việc hạn chế số
lượng, giảm thuế nhập khẩu và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan.
1.1. Thuế quan.
1.1.1 Thế nào là thuế quan?
Việc thu thuế xuất nhập khẩu đã trở thành tập quán của tất cả các quốc gia trên thế
giới. Để thu thuế xuất nhập khẩu, các nước thường đưa ra các quy tắc thuế hải quan, ban
hành những quy định về việc tính thuế và thu thuế xuất nhập khẩu , cũng như bảng tra cứu
nhằm hệ thống và phân loại những hàng hoá chịu thuế, miễn thuế hoặc cấm xuất nhập
khẩu. Quy tắc thuế hải quan bao gồm hai bộ phận: thứ nhất, những quy định và thuyết
minh về thu thuế hải quan; thứ hai, biểu thuế đối với từng loại hàng. Nội dung của biểu
thuế bao gồm mã số thuế, tên hàng hoá, đơn vị tính, thuế suất…Phương pháp phân loại
hàng hoá của các nước khác nhau không giống nhau: có nước phân theo trình độ gia công
sản phẩm, có nước phân theo tính chất của hàng hoá. Quy tắc thuế quan là công cụ quanh
trọng của chính sách thuế quan của mỗi quốc gia.
Thu thuế hải quan mang tính chất cưỡng chế và không bồi hoàn. Khi sử dụng thuế
quan để quản lý xuất nhập khẩu cần phải nắm vững các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, giảm hoặc miễn thuế đối với hàng hoá kỹ thuật, thiết bị, nguyên liệu và
hàng hoá cần nhập khẩu;
Thứ hai, đánh thuế cao tương đối đối với những mặt hàng cần nhập khẩu nhưng
trong nườc cũng có khả năng sản xuất để bảo hộ sức cạnh tranh của những hàng hoá này ở
thị trường trong nước và sự phát triển của những ngành sản xuất này;
Thứ ba, đánh thuế thật cao đối với những hàng hoá không có như cầu nhập khẩu.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, thuế quan cũng như một hàng rào. Căn cứ vào
nhu cầu trong nước trong từng thời kỳ, một quốc gia nới lỏng hay siết chặt thuế quan để
tránh những biến động của thị trường nội địa do hàng hoá nhập khẩu gây ra. Trong thương
mại quốc tế người ta gọi đây là hàng rào thuế quan hay còn gọi là rào cản thuế quan.
Có hai phương thức thu thuế xuất nhập khẩu chủ yếu: thu theo số lượng và thu theo
giá.
1
Thuế suất thu theo số lượng được xác định theo những tiêu chuẩn về số kiện, trọng
lượng, diện tích, thể tích của hàng hoá xuất hoặc nhập khẩu. Đặc điểm của việc thu thuế
theo số lượng là việc thu thuế được tiến hành dễ dàng, thuận tiện.
Theo phương thức tu thuế theo giá, trước hết cơ quan hải quan tiến hành xác định
giá tính thuế của hàng hoá mà không phải lấy giá do nhà xuất khẩu thông báo. Phương
pháp tính giá được chia thành hai loại: tính teo giá FOB và tính theo giá CIF. Thuế thu theo
giá có đặc điểm là khá công bằng, nhưng thủ tục lại tương đối phức tạp.
Thuế quan được phân chia thành ba loại căn cứ vào đối tượng chịu thuế: thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu và thuế quá cảnh. Trong ba loại này thuế nhập khẩu là quan trọng
nhất, nó là biện pháp quan trọng để hạn chế nhập khẩu, bảo hộ thương mại.
1.1.2 Mục đích của thuế quan
Việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu thường nhằm hai mục đích: thứ nhhất là
tăng thu tài chính quốc gia; thứ hai là điều tiết xuất nhập khẩu.
Thuế quan được chia thành hai loại, thuế quan tài chính và thuế quan bảo hộ. Mục
đích của thuế quan tài chính là thu thuế nhằm tăng thu nhập tài chính của quốc gia, vì vậy
thu được càng nhiều thuế càng tốt. Tuy nhiên khi xác định mức thuế xuất, nhập khẩu cao
hay thấp lại cần phải tính đến các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, nhu cầu của ngân sách nhà nước;
Thứ hai, khả năng chịu thuế của người tiêu dùng;
Thứ ba, ảnh hưởng của thuế quan đến quy mô thương mại.
Thứ tư, nếu thuế quan cao nhưng quan lý không tốt thì sẽ dẫn đến hiện tượng nhập
lậu.
Thuế quan bảo hộ được thu nhằm bảo vệ thị trường nội địavà sản xuất công nghiệp
trong nước, thuế suất càng cao thì tác dụng bảo hộ càng lớn, bởi vì nếu thuế suất nhập
khẩu cao thì giá thành hàng nhập khẩu cũng cao, làm giảm tính cạnh tranh của hàng nhập
khẩu với hàng nội địa tương tự.
Hiện nay cùng với việc tăng cường chính sách bảo hộ thương mại của các nước,
thuế quan tài chính dần dần bị thay thế bằng thuế quan bảo hộ.
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định thuế quan
Việc xác định mức thuế nhập khẩu hiện nay phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Cùng
một mặt hàng nhưng mức thuế nhập khẩu lại khác nhau phụ thuộc xuất xứ hay giá tối thiểu
để tính thuế.
- Quy tắc xuất xứ (Hiệp định xuất xứ)
2
Các quy tắc về xuất xứ có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì chúng ảnh hưởng trực tiếp
đến khả năng tiếp cận thị trường hoặc tính thuế nhập khẩu.
- Định giá hải quan (Hiệp định định giá hải quan)
Hiệp định định giá hải quan quy định chi tiết cách xác định trị giá thuế quan. Các
quy định của Hiệp định này có ý nghĩa pháp lý cũng như thực tế cho các cơ quan hải quan
quốc gia, trị giá thuế quan, cách phân loại thuế quan. Thông thường mức thuế quan được
xác định trên cơ sở giá thực tế mà người mua hàng phải thanh toán cho người bán độc lập
và được gọi là giá giao dịch.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cách tính thuế nhập khẩu này không thể áp
dụng đước bởi vì người bán và người mua có thể liên quan với nhau (chiếm khoảng 40%
các giao dịch) hoặc giá được ghi trong hợp đồng thấp hơn nhiều so với giá thực tế do các
bên thỏa thuận. Để giải quyết những trường hợp tương tự Hiệp định về định giá hỉa quan
quy định các cách thức khác nhau để định giá, trên cơ sở giá này thuế nhập khẩu được tính:
giá trị của giao dịch hàng hóa giống hệt; giá trị của giao dịch hàng hóa tương tự; giá trị của
hàng hóa được bán trong phạm vi nước xuất khẩu có sự điều chỉnh phù hợp; giá thành sản
xuất cộng với các chi phí chung và lợi nhuận.
1.2 Nhân nhượng thuế quan
Tự do hoá thương mại có nghĩa là hàng hoá được tư do lưu thông trên phạm vi toàn
thế giới, muốn như vậy các quốc gia phải có mức thuế quan hợp lý đối với hàng nhập khẩu
hay nói cách khác là các quốc gia phải có sự nhượng bộ lẫn nhau trong việc tính thuế.
Nhân nhượng thuế quan là một trong những vấn đề quan trọng của GATT. Mặc dù môi
trường thương mại quốc tế không ngừng biến đổi, chủ đề đàm phán trong khuôn khổ của
GATT và sau này là WTO ngày càng nhiều, tuy nhiên trong mỗi vòng đàm phán vấn đề
đàm phán về nhân nhượng thuế quan luôn được đặt lên vị trí quan trọng. Trong năm vòng
đàm phán thương mại đầu tiên của GATT, nhân nhượng thuế quan là chủ đề đàm phán duy
nhất. Trong hai vòng đàm phán tiếp theo (6 và 7) vấn đề này vẫn gây sự chú ý của các
quốc gia ký kết. Trong vòng đàm phán thứ 8 năm 1994 nhân nhượng thuế quan vẫn nhận
được sự chú ý của các bên tham gia, bao gồm cả các nước phát triển.
GATT có 4 hình thức nhân nhượng thuế quan như sau:
1. Cắt giảm thuế quan và ràng buộc mức thuế quan trung bình sau khi giảm;
2. Ràng buộc thuế suất thuế quan hiện hành;
3
3. Ràng buộc giới hạn trên (mức thuế trần), tức là sẽ ràng buộc thuế quan ở một
mức cao nhất định nào đó, sau đó cam kết dù có nâng thuế suất cao bao nhiêu đi
nữa thì cũng không được cao hơn mức đó;
4. Tăng cường ràng buộc những đãi ngộ trong việc miễn thuế, tức là cam kết duy
trì thuế suất bằng không.
Trong vòng đàm phán thứ bảy ngày 12/10/1976 tại Thụy Sỹ các bên đã đưa ra công
thức gọi là “công thức Thụy Sỹ”:
A*X/(A+X)=Z
Trong đó, A là một tham số cố định do các bên tham gia đàm phán xác định, X là
thuế suất hiện hành, X là thuế suất sau khi cắt giảm. Việc tiến hành nhân nhượng thuế quan
theo “công thức Thụy Sỹ” này về cơ bản phù hợp với yêu cầu điều tiết thuế suất “thuế cao
thì giảm nhiều, thuế thấp thì giảm ít”.
III. Hạn chế số lượng và các biện pháp phi thuế quan khác (hàng rào phi thuế
quan).
Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế nhằm hạn chế nhập khẩu. Tất
cả các biện pháp ngoài thuế quan đều là những biện pháp phi thuế nhằm hạn chế nhập
khẩu. Những biện pháp phi thuế là cách gọi một cách tổng quát các biện pháp do chính phủ
đặt ra nhằm hạn chế nhập khẩu hàng hoá để bảo vệ thị trường trong nước, bao gồm các
biện pháp kinh tế, kỹ thuật, pháp luật và hành chính. Các biện pháp phi thuế quan được
chia thành hai loại: trực tiếp và gián tiếp.
3.1. Hạn chế số lượng
Những biện pháp phi thuế quan trực tiếp là những hạn chế của hải quan đối với số
lượng và chủng loại hàng hoá nhập khẩu, cụ thể là giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch thuế
quan, hạn ngạch nhập khẩu và hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện… Tức là những biện pháp
hạn chế số lượng.
Hiệp định GATT quy định rằng, việc bảo hộ công nghiệp trong nước phải phải
thông qua biện pháp thu thuế nhập khẩu chứ không phải bằng cách hạn chế số lượng và các
biện pháp phi thuế quan khác. Hạn chế số lượng là việc các nước xuất nhập khẩu thực
hiện hạn chế bằng cách quy định một số lượng nhất định đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hạn chế số lượng có các hình thức và cách làm chủ yếu sau đây:
4
- Hạn ngạch: việc quy định số lượng nhập khẩu đối với một loại hàng hoá nào đótrong
một khoảng thời gian nhất định. Hạn ngạch mang tính thời vụ, nó cũng có thể áp dụng đối
với một số quốc gia nhất định hoặc với tất cả các quốc gia trên thế giới.
- Giấy phép nhập khẩu: chủ yếu được phân thành chia loại: laọi 1 là giấy phép nhập
khẩu có điều kiện; loại 2 là giấy phép nhập khẩu bất kỳ , tức là loại giấy phép được cấp
dựa trên ý kiến của các cơ quan chủ quản.
- Những ràng buộc xuất khẩu tự nguyện: trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khi
mà nước nhập khẩu đối mặt với áp lực từ việc nhập khẩu và phải quyết định đơn phương
áp dụng những hạn chế, thì nước xuất khẩu phải đàm phán nhằm đạt được một thoả thuận
về ràng buộc xuất khẩu tự nguyện, tức là trong một thời gian nhất định chỉ xuất khẩu theo
một mức cao nhất đã định.
- Cấm: đây là loại hạn chế được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt, có thể là
cấm toàn diện như cấm vận, có thể có những ngoại lệ do quy định hoặc kiến nghị của cơ
quan chủ quản.
Theo quy định của Đều XI GATT 94, bất kỳ bên ký kết nào ngoài việc thu thuế và
các loại phí khác, không được thiết lập hoặc duy trì các biện pháp như hạn ngạch, giấy
phép xuất nhập khẩu hoặc những biện pháp khác để hạn chế hoặc ngăn cấm nhập khẩu
hàng hoá từ các nước ký kết khác hoặc xuất khẩu hàng vào lãnh thổ các nước ký kết khác
hoặc tiêu thụ hàng nhập khẩu.
Nguyyên tắc dỡ bỏ hạn chế số lượng của GATT không được áp dụng trong các
trường hợp dưới đây:
1. Cấm hay hạn chế xuất khẩu tạm thời được áp dụng nhằm ngăn ngừa hay khắc
phục sự khan hiếm trầm trọng về lương thực hay các sản phẩm khác trọng yếu với bên ký
kết đang xuất khẩu;
2. Cấm hay hạn chế xuất khẩu cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy chế về
phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trên thị trường quốc tế;
3. Hạn chế nhập khẩu bất cứ nông phẩm hay sản phẩm nghề cá nào dưới bất kỳ hình
thức nào nhằm triển khai các biện pháp của chính phủ được áp dụng:
a) để hạn chế số lượng các sản phẩm nội địa tương tự được phép tiêu thụ trên thị
trường hay sản xuất, hoặc là nếu không có một nền sản xuất trong nước đáng kể, thì để
hạn chế số lượng một sản phảm nội đại có thể bị sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế;
hoặc
5