Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Quản lý tăng vốn doanh nghiệp niêm yết: Giám sát tiến độ, ngăn ngừa sử dụng vốn sai mục đích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.6 KB, 5 trang )

Quản lý tăng vốn doanh nghiệp niêm yết: Giám sát
tiến độ, ngăn ngừa sử dụng vốn sai mục đích

Nhằm quản lý hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết,
đặc biệt là hiệu quả sử dụng vốn huy động từ việc tăng vốn, phát
hành cổ phiếu... của khối doanh nghiệp này, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 84 có hiệu lực từ ngày 20/9/2010.
Nghị định 84 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Chứng khoán và nâng cao ý thức của tổ chức
phát hành, tạo điều kiện để thị trường giám sát việc sử dụng vốn, được
sự ủng hộ của giới chuyên môn cũng như nhà đầu tư.
Hệ lụy phát hành thêm cổ phiếu

Theo đó, Nghị định 84 bổ sung điều 3a và Điều 3 của Nghị định 14 như
sau: "Tổ chức phát hành phải mở một tài khoản riêng biệt tại một ngân
hàng thương mại để phong tỏa số tiền thu được từ đợt chào bán. Trường
hợp tổ chức phát hành là ngân hàng thương mại thì phải lựa chọn một
ngân hàng khác để phong tỏa số tiền thu được từ đợt chào bán. Trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành
phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về kết quả chào bán, kèm
theo xác nhận của ngân hàng thương mại, nơi mở tài khoản phong tỏa về
số tiền thu được từ đợt chào bán. Sau khi gửi báo cáo tới Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước, tổ chức phát hành được giải tỏa số tiền thu được từ đợt
chào bán.
Định kỳ 6 tháng, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán cho đến khi hoàn
thành việc giải ngân, tổ chức phát hành phải công bố thông tin về tiến độ
sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán. Trường hợp thay đổi mục đích sử
dụng vốn, tổ chức phát hành phải công bố thông tin về lý do thay đổi và
nghị quyết của hội đồng quản trị về việc thay đổi, hoặc chấp thuận của
cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với tổ chức phát


hành nước ngoài quy định tại Điều 17a Nghị định này".
Có thể thấy, từ đầu năm tới nay, các doanh nghiệp niêm yết liên tiếp đưa
ra kế hoạch tăng vốn, phát hành thêm cổ phiếu, chia cổ phiếu thưởng…
trong điều kiện thị trường ở xu hướng giảm điểm và thừa nguồn cung.
Dường như các doanh nghiệp niêm yết không quan tâm tới việc thị
trường tăng hay giảm, tương quan lượng cung cầu, dòng tiền thế nào,
vẫn đưa thêm hàng vào thị trường.
Một điều cũng dễ thấy qua các đại hội cổ đông là phương án tăng vốn
diễn ra rất đơn giản và nằm trong tầm kiểm soát của ban lãnh đạo công
ty. Tại đại hội, nhóm cổ đông chi phối (gồm các thành viên hội đồng
quản trị) đưa ra kế hoạch tăng vốn và phương án tăng vốn là phát hành
cổ phiếu thưởng, cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi… Mục đích tăng vốn
cũng rất chính đáng, chẳng hạn như là để đầu tư dự án A, triển khai dự
án B, đầu tư trang thiết bị hiện đại, mở rộng nhà máy, đổi mới công nghệ
ngân hàng… Khi đưa ra phương án này, nhóm cổ đông chi phối thường
nắm chắc thành công vì họ là cổ đông chi phối, số phiếu ủng hộ chiếm
hơn 50%.
Được đại hội cổ đông thông qua, doanh nghiệp nộp phương án lên Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước và cũng được chấp thuận một cách nhanh
chóng vì lý do rất đơn giản là cổ đông đã thông qua với lượng phiếu nhất
trí cao và ban lãnh đạo doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước cổ
đông…
Vì vậy, hàng loạt doanh nghiệp đã phát hành chứng khoán ra công
chúng, thu hàng chục nghìn tỷ đồng trong những năm qua, và hoạt động
chào bán chứng khoán ra công chúng đang được các doanh nghiệp niêm
yết tiếp tục thực hiện dưới hình thức đấu giá, phát hành cho cổ đông
hiện hữu…, nhưng chưa có một báo cáo thống kê nào hiệu quả sử dụng
vốn của các đợt phát hành.
Cũng chính vì thủ tục đơn giản, nên từ trước tới nay, ít ai đặt dấu hỏi
xem doanh nghiệp có thể tăng vốn lên bao nhiêu là hợp lý và được phép

tăng như thế nào… Thế nên, doanh nghiệp cứ cần vốn, vay vốn ngân
hàng không được là phát hành cổ phiếu. Thời gian qua, nhiều doanh
nghiệp đưa việc tăng vốn theo hình thức phát hành cho cổ đông hiện hữu
theo tỷ lệ rất cao như: 5:10, 1:1... Theo tỷ lệ này thì sau khi phát hành,
doanh nghiệp có thể lớn gấp rưỡi hoặc gấp đôi về quy mô vốn.
Năm 2010, thị trường đã đón nhiều nguồn cung từ doanh nghiệp họ dầu
khí khi lên kế hoạch tăng vốn từ 50 tỷ đồng lên 200 - 300 tỷ đồng; các
ngân hàng nằm trong diện tăng vốn lên 3.000 tỷ đồng và không nằm
trong diện phải tăng nhưng vẫn tăng để mở rộng thị phần, đầu tư công
nghệ hiện đại, quản trị rủi ro như STB, EIB, VCB, CTG…
Vốn tăng thì nhanh vậy, nhưng hệ thống quản trị thì vẫn thế, thị phần thì
chưa có dấu hiệu mở rộng, sản phẩm thì chưa có nhiều dấu ấn hơn trên
thị trường… Nhiều chuyên gia tài chính cho rằng việc tăng vốn quá
nhanh ở khu vực ngân hàng cũng là vấn đề đặc biệt cần quan tâm vì rủi
ro ở khu vực này có thể tăng lên trong tương lai gần.
Tăng cường giám sát sử dụng vốn
Trước thực tế đó, Nghị định 84 đã sửa đổi bổ sung nhằm quản lý doanh
nghiệp niêm yết, với yêu cầu định kỳ 6 tháng báo cáo 1 lần. Quy định
này sẽ phần nào ngăn chặn được tình trạng doanh nghiệp huy động vốn
xong lại đầu tư vào chứng khoán, góp cổ phần chứ không sử dụng cho
mục đích mà khi phát hành đưa ra. Hơn nữa, việc 6 tháng báo cáo 1 lần
cũng là một khoảng thời gian hợp lý để doanh nghiệp sử dụng vốn thực
hiện được phần nào và báo cáo tiến độ phù hợp với thực tiễn triển khai.
Ông Lê Anh Thi, Phó tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Âu Việt ủng
hộ việc bổ sung điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng. Còn
ông Phạm Thái Bình, Giám đốc phân tích Công ty chứng khoán Dầu khí,
cho rằng: "Tăng cường việc giám sát sử dụng vốn là góp phần ngăn
ngừa việc sử dụng vốn sai mục đích. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn huy
động bổ sung vốn lưu động cũng cần chứng minh được vốn lưu động
tăng thêm đã đem lại hiệu quả cho công ty như thế nào".

Theo ông Bình, quy định tổ chức phát hành định kỳ 6 tháng công bố
thông tin về tiến độ sử dụng vốn cho đến khi hoàn thành giải ngân có ý
nghĩa rất quan trọng đối với thị trường chứng khoán, đặc biệt đối với cổ
đông. Từ trước đến nay, cổ đông chỉ biết rõ thông tin về hoạt động chào
bán cổ phiếu của công ty, còn việc theo dõi giám sát sử dụng vốn như
thế nào thường phải đợi đến đại hội cổ đông để được thông tin hoặc chất
vấn về hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời, quy định này cũng có tác dụng
nâng cao ý thức trách nhiệm của tổ chức phát hành khi huy động vốn từ
công chúng.
Tuy nhiên, những quy định này cần nhưng chưa đủ để đảm bảo vốn huy
động được sử dụng đúng mục đích và hoạt động phát hành không bị lạm
dụng một cách thái quá. Ông Bình cho rằng doanh nghiệp vẫn có thể sử
dụng sai mục đích vì rất khó chứng minh được doanh nghiệp đã dùng
tiền nào đầu tư chứng khoán, tiền nào mua cổ phần khi các dòng tiền đã
bị hòa trộn vào nhau trong tài khoản của doanh nghiệp…
Trần Nguyễn
(KINH DOANH số 53, ra ngày 22/08/2010)

×