HỘI CHỨNG SUY HÔ HẤP SƠ SINH
PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng
Suy hô hấp (Respiratory Distress Syndrome-RDS) hay còn gọi là bệnh màng
trong (Hyaline membrane disease-HMD) là hội chứng hay xảy ra sau khi sinh
ở trẻ đẻ non do thiếu surfactant. Các biểu hiện lâm sàng thường gặp là thở
nhanh, co rút lồng ngực, thở rên, phập phồng cánh mũi, tím tái. Chẩn đoán
xác định bằng chụp X quang ngực với hình ảnh phổi như tấm gương mờ và
ứ khí ở phế quản (ground glass and air bronchograms) mặc dù hình ảnh đó
không chỉ đặc trưng cho hội chứng này
(8)
A. DỊCH TỄ HỌC
Đa số các trường hợp suy hô hấp (SHH) phải vào điều trị tại phòng điều
trị tích cực sơ sinh. Mỗi năm tại Mỹ có khoảng 40.000 trẻ bị bệnh và tử vong
do SHH chiếm khoảng 20% tử vong chung của trẻ sơ sinh. Các trẻ đẻ non và
đẻ cân nặng thấp có nguy cơ bị SHH cao nhất
(1)
. Mặc dù SHH thường gặp ở
trẻ đẻ non dưới 35 tuần nhưng cũng có thể gặp ở các trẻ tuổi thai lớn hơn và có
chậm phát triển phổi. Nghiên cứu mối liên quan giữa cân nặng lúc đẻ với SHH,
Hack và cs nhận thấy trẻ có cân nặng lúc đẻ càng thấp thì tỷ lệ SHH càng cao
(bảng 3.1). Các nguy cơ thường gặp khác là
(7)
+ Trẻ đẻ càng non nguy cơ càng cao (Hình 3.1)
+ Trẻ trai: Androgen làm giảm trưởng thành về mặt sinh học các phospholipide
+ Gia đình có trẻ đã bị SHH
+ Trẻ đẻ mổ Cesarean khi chưa chuyển dạ
+ Trẻ sinh ra từ các bà mẹ đái tháo đường.
+ Trẻ bị ngạt sau đẻ.
+ Viêm ối-màng ối
Bảng 3.1: Tỷ lệ suy hô hấp với cân nặng lúc đẻ.
Cân nặng lúc đẻ Tỷ lệ suy hô hấp
501 – 750g 86%
751 – 1000g 79%
1001 – 1250g 48%
1251 – 1500g 27%
501 – 1500 (chung) 56%
Hình 3.1. Mối liên quan giữa tuổi thai và suy hô hấp
B. SINH LÝ BỆNH
Nghiên cứu phổi của các trẻ sơ sinh tử vong do SHH cấp cho thấy có đặc
điểm chung là phổi mầu hồng đỏ đồng nhất, chắc, rất ít khí và nhìn đại thể
giống như tổ chức gan. Trên vi thể chủ yếu là hình ảnh xẹp phổi và có rất ít phế
nang giãn nở được ( Hình 3.2). Trong các tiểu phế quản và ống phế nang có
một lớp màng nhuộm màu eosinophil chứa các chất dạng fibrin có nguồn gốc
từ máu và các mảnh vỡ tế bào biểu mô bị tổn thương. Do tính chất đặc trưng
của màng này nên người ta còn gọi là “bệnh màng trong’’
Ở giai đoạn hồi phục, hình ảnh đặc trưng là sự tái tạo các tế bào phế nang,
bao gồm các tế bào type II có tác dụng làm tăng hoạt tính của surfactant.
Hình 3.2: Hình ảnh vi thể
phổi của trẻ SHH có xẹp
phổi lan tỏa và màng trong ở
trong ống phế nang bị dãn
rộng
Tỷ lệ SHH
Tuổi thai (tuần)
Quá trình tổng hợp surfactant bị tổn thương hoặc bị chậm lại dẫn đến
SHH. Tình trạng bệnh có thể nặng lên nhanh trong vài ngày. Tổng hợp
surfactant là một quá trình động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như pH, nhiệt độ,
tính thấm và có thể còn do các stress, lạnh, giảm thể tích tuần hoàn, thiếu oxy
máu và toan máu.
Các yếu tố không thuận lợi khác như thở oxy với nồng độ cao, chấn
thương do áp lực hoặc thể tích trong thông khí nhân tạo làm giải phóng ra các
cytokine và chemokine tiềm viêm và sự phá huỷ các biểu mô phế nang cũng có
thể làm giảm tổng hợp và rối loạn chức năng surfactant. Hoạt hoá bổ thể và các
hệ thống tiếp xúc (yếu tố Hageman, XII) có thể giải phóng các chất gây quá
mẫn và bradykinin làm tăng tính thấm của tế bào nội mô dẫn đến phù phổi.
Hiện tượng thoát protein như thoát các fibrin vào lòng phế nang sẽ càng làm
thiếu surfactant do thúc đẩy quá trình bất hoạt surfactant. Thiếu surfactant và
giảm độ giãn nở của phổi dẫn đến giảm thông khí phế nang và mất cân bằng
thông khí/ tưới máu (V/Q). Thiếu oxy máu nặng và giảm tưới máu hệ thống
dẫn đến giảm phân phối oxy, tăng acid lactic thứ phát gây rối loạn chuyển hoá
yếm khí. Thiếu oxy và toan máu gây giảm tưới máu phổi thứ phát dẫn đến co
mạch phổi và do vậy càng làm cho thiếu oxy trầm trọng thêm. Thiếu oxy nặng
dẫn đến có luồng thông phải – trái, lúc đầu là mở ống động mạch sau đó là mở
lỗ bầu dục và cuối cùng là các shunt trong phổi.
Vì vai trò của thiếu surfactant và giảm tưới máu phổi trong SHH nói
chung thay đổi tùy từng bệnh nhân nên việc điều trị phối hợp surfactant với
thông khí nhân tạo cũng phải tuỳ thuộc vào từng bệnh nhân cụ thể (hình 3.3)
Hình 3.3: Sinh lý bệnh bệnh màng trong
C. LÂM SÀNG
Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh có thể xảy ra ngay sau khi sinh hoặc vài giờ sau
khi sinh với các biểu hiện sau
(1)
- Thở nhanh
- Phập phồng cánh mũi
- Co rút lồng ngực
Thiếu hụt
Surfactant
Cấu trúc phổi chưa
trưởng thành
Xẹp phổi
Mất cân bằng V/Q Giảm thông khí
Thiếu oxygen máu + Tăng carbonic
Toan hô hấp +
Toan chuyển hóa
Thở oxygen Chấn thương
nồng độ cao + áp lực
Co thắt mạch phổi
Dòng tế bào
viêm
Thiếu hụt chất
chống oxy hóa
Tổn thương nội mô
và biểu mô
Giải phóng
cytokin
Phản ứng gốc
tự do
Tiết dịch dạng
protein
Tổn thương phổi
Suy hô hấp
Bệnh phổi sơ sinh
mãn tính
CẤP
MÃN
- Tím tái
- Thở rên
- Cơn ngừng thở.
- Nghe phổi: có thể vẫn nghe rõ được tiếng rì rào phế nang ở cả 2 bên
nhưng nếu có giảm tiếng rì rào phế nang ở 1 bên kèm theo trung thất bị
đẩy về bên đối diện hoặc giảm tiếng rì rào phế nang ở cả 2 bên thì cần
nghi ngờ có tràn khí và phải chụp Xquang phổi.
- Nghe tim có thể thấy tiếng thổi liên tục của ống động mạch (PDA) rất
thường gặp trong suy hô hấp ở trẻ sơ sinh do shunt trái - phải do sức
kháng của mạch phổi tụt xuống thấp hơn huyết áp
- Gõ phổi thường không có giá trị chẩn đoán trong các trẻ đẻ non.
- Thông thường SHH xảy ra ngay tại phòng đẻ hoặc khoảng 6 giờ sau khi
sinh
Bệnh thường tiến triển nặng trong 2-3 ngày đầu sau đẻ nếu không được điều trị
tích cực. Nếu điều trị bằng surfactant thì có thể rút ngắn được tình trạng SHH.
D. X QUANG
Hình ảnh Xquang trong SHH sơ sinh thường thấy là thâm nhiễm dạng lưới
hạt lan toả cho hình ảnh cổ điển là hình ảnh tấm gương mờ (ground – glass
appearance) ở cả hai phổi với các phế quản tăng sáng, chứa đầy khí. Mặc dù
hình ảnh trên thường đối xứng ở cả 2 bên nhưng đôi khi cũng có trường hợp
không cân xứng mà chỉ rõ ở 1 bên. Hình ảnh lưới hạt (reticulogranular pattern)
này chủ yếu lúc đầu là do xẹp phế nang và một phần là do phù phổi. Hình ảnh
phế quản ứ khí là do các tiểu phế quản và các phế nang không được thông khí
nằm chồng lên nhau. Trong những ca nặng thì từng phổi có thể trắng hoàn
toàn, khi đó không nhìn rõ được bờ tim trên phim Xquang ngực. Dựa vào hình
ảnh X quang phổi người ta chia SHH do bệnh màng trong này ra làm 4 giai
đoạn (Hình 3.4)