Cấu Trúc Vốn & Những
Tác Động của nó
Nhìn vào bảng cân đối tài sản doanh nghiệp thì bên tay trái là tài sản
có, bên tay phải là nguồn gốc tạo ra tài sản có: gồm nợ (các loại) và vốn chủ
sỡ hữu cùng với lợi nhuận được giữ lại của chủ sỡ hữu. Tỷ lệ giữa nợ và vốn
chủ sỡ hữu gọi là cấu trúc vốn. Phần đông doanh nghiệp chúng ta, nhất là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhìn nhận về tỷ lệ này khá đơn giản. Thường thì
chúng ta tự nhẩm tính khi nào thì nên mượn nợ, khi nào thì kêu gọi thêm
vốn chủ sỡ hữu. Dĩ nhiên những tính tóan đó phần nào cũng có “lý” của
người quyết định. Tuy vậy, nếu chúng ta biết rằng, việc xác định một cấu
trúc vốn để đạt hiệu quả cao nhất cho một doanh nghiệp là một vấn đề lớn,
rất quan trọng trong tài chánh doanh nghiệp, làm tốn không biết bao nhiêu
bút mực của giới học thuật lẫn các nhà quản lý tài chánh kinh nghiệm, thì có
lẽ chúng ta sẽ bỏ nhiều thời gian nghiên cứu và sẽ thận trọng hơn trong
quyết định của mình.
Bài này tác giả sẽ bàn đến cấu trúc vốn và những tác động chung
quanh cấu trúc vốn. Bài viết kết tiếp tác giả sẽ trình bày một số phương pháp
xác định cấu trúc vốn để đạt hiệu quả cao nhất.
Nợ: Ưu và khuyết điểm
Một trong những ưu điểm lớn nhất của việc dùng nợ thay cho vốn
chủ sỡ hữu đó là lãi suất mà doanh nghiệp phải trả trên nợ được miễn thuế.
Tong khi đó thì cổ tức hay các hình thức thưởng khác cho chủ sỡ hữu phải bị
đánh thuế. Trên nguyên tắc mà nói, nếu chúng ta thay vốn chủ sở hữu bằng
nợ thì sẽ giảm được thuế doanh nghiệp phải trả, và vì thế tăng giá trị của
doanh nghiệp lên. Một điều cần lưu ý, với những nước mà nhà đầu tư phải
trả thuế thu nhập cá nhân với mức cao thì ưu điểm này của nợ sẽ bị giảm hay
trở thành yếu điểm.
Ưu điểm thứ hai của nợ, đó là thông thường nợ rẻ hơn vốn chủ sỡ
hữu. – nói đơn giản là lãi suất ngân hàng, hay lãi suất trái phiếu thấp hơn
nhiều soi với lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư. Do đó khi tăng nợ tức là giảm
chi phí chi ra trên một đồng tiền mặt và vì thế tăng cao lợi nhuận, cũng như
gía trị của công ty. Vì tính chất này mà tỷ số nợ trên vốn chủ sỡ hữu còn
được gọi là tỷ số đòn bẩy.
Tuy vậy doanh nghiệp không thể tăng nợ lên mức quá cao so với chủ
sỡ hữu. Khi đó công ty sẽ rơi vào tình trạng tài chánh không lành mạnh, và
dẫn đến những rủi ro khác mà chúng ta sẽ bàn trong những phần sau.
Vốn: Ưu và khuyết điểm.
Một trong những điểm không thuận lợi của vốn chủ sỡ hữu đó là giá
thành (hay chi phí) của nó cao hơn chi
phí của nợ. Dĩ nhiên rồi, vì không người
đầu tư nào bỏ tiền đầu tư vào công ty
gánh chịu những rủi ro về họat động và
kết quả kinh doanh của công ty mà lại
chịu nhận tiền lãi bằng lãi suất cho vay
nợ. Việc này cùng với tính chất không
được miễn trừ thuế làm cho chi phí vốn càng cao hơn.
Việc này này dẫn tới một điểm không thuận lợi khác, là khi vốn chủ
sỡ hữu càng cao, số lượng người chủ sỡ hữu càng nhiều, thì áp lực về kỳ
vọng của nhà đầu tư cũng như sự quản lý, giám sát của họ lên các nhà điều
hành công ty càng lớn.
Tuy vậy vốn chủ sỡ hữu sẽ vẫn phải tăng khi công ty cần tiền. Tăng
để cân bằng với nợ và giữ cho công ty ở trong tình trạnh tài chánh lành
mạnh. Một lý do để các nhà đầu tư tăng vốn nữa là khi thị trường định giá cổ
phiếu của nó cao hơn giá trị nội tại (overprice). Phát hành vốn trong trường
hợp đó sẽ tạo ra lợi nhuận tài chánh cho công ty, và thực chất là tăng phần
lãi nhuận cho những nhà đầu tư hiện hữu.
Nợ giúp cho các nhà điều hành thận trọng hơn khi đầu tư:
Thực tế từ các thị trường cho thấy, đối với các công ty dồi dào tiền
mặt, và không có khả năng tăng trưởng nhanh, các nhà quản lý hay có
khuynh hướng đầu tư tiền vào những dự án “ồn ào” nhưng không hiệu quả,
hoặc dùng tiền, tăng chi phí để tạo ra tăng trưởng. Dĩ nhiên những đồ án này
không tạo ra giá trị cao cho công ty. Thuật ngữ tài chánh gọi việc này là
overinvestment – đầu tư thái quá. Nếu công ty không có hội đồng quản trị
giám sát chặt chẽ thì hiệu ứng đầu tư thái quá này này sẽ xảy ra nhiều.
Nhưng nếu công ty mượn nợ để tài chánh cho những khoản đầu tư, thì việc
phải trả lãi định kỳ, cũng như trả vốn theo định kỳ sẽ ngăn, hoặc giảm việc
đầu tư thái quá này.
Nợ tạo ra chi phí “hao mòn’ doanh nghiệp và phá sản
Tỷ lệ nợ cao sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản. Một công trình nghiên cứu
tại Mỹ cho thấy chi phí phá sản chiếm khỏan 3% thị giá của tất cả các công
ty niêm yết. Nghiên cứu còn cho thấy chi phí “hao mòn” doanh nghiệp (cost
of business erosion) còn cao và nghiêm trọng hơn nhiều. Những công ty có
tỷ lệ nợ cao, sẽ "nhát tay” trong việc nắm bắt những cơ hội đầu tư. Chúng
cũng có khuynh hướng giảm bớt những chi phí tạo ra hiệu quả trong tương
lai như chi phí nghiên cứu và phát triển, huấn luyện, xây dựng thương hiệu.
Kết quả là những doanh nghiệp này đã bỏ qua những cơ hội để tăng giá trị
của doanh nghiệp. Mức nợ cao còn dẫn đến những nguy cơ mất khách hàng,
nhân viên và nhà cung cấp. Nguy cơ càng cao hơn khi sản phẩm của công ty
có vòng đời phục vụ và bảo hành lâu dài. Một ví dụ rõ nhất là công ty xe hơi
Chrysler đã bị giảm 40% doanh số khi phải đối diện nguy cơ phá sản vì nợ
nần vào năm 1979.
Ngoài ra công ty có mức nợ cao còn tạo ra sự mâu thuẫn giữa các chủ
nợ và nhà đầu tư khi công ty sắp phải ngừng họat động để trả nợ. Khi có
nguy cơ đó xảy ra, các nhà đầu tư “khôn ngoan” sẽ tìm cách đầu tư dưới
mức – underinvestment. Tức là họ sẽ tập trung đầu tư vào nhhững dự án, rủi
ro cao, tạo ra giá trị thấp trong tương lai, nhưng có thể đem lại tiền mặt để
có thể chia dưới dạng cổ tức ngay lúc này. Trong khi đó những chủ nợ lại