1
TRANG MỞ ĐẦU
Trong các nền văn hóa Việt Nam, không ai không
nhắc tới nền văn hóa của duyên hải Miền Trung.
Đây là vùng có nền văn hóa đa dạng và đặc sắc.
Nền văn hóa đó được thể hiện qua những điều giản
dò nhất trong cuộc sống của mỗi người. Đó là qua
những nét về ẩm thực, lễ hội, trang phục….. Chính
những điều giản đơn ấy đã tạo nên một nền văn
hóa riêng biệt cho duyên hải Miền Trung, góp phần
vào cái chung trong nét văn hóa độc đáo của nền
văn hóa cội nguồn dân tộc Việt Nam. Ngay bay giờ,
chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về vùng đất này qua
các khía cạnh sau:
1.Điều kiện môi trường tự nhiên.
2.Điều kiện xã hội.
3.Văn hóa nhận thức.
4.Văn hóa tổ chức cộng đồng.
5.Văn hóa ứng xử môi trường tự nhiên.
6.Văn hóa ứng xử môi trường xã hội.
Dưới đây là toàn bộ phần tìm hiểu của nhóm 20 về
nét đẹp văn hóa của thiên nhiên và con người trên
mãnh đất duyên hải miền Trung.
2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
(1)
Vùng duyên hải miền Trung được cấu tạo bởi một dải
đất nằm giữa dãy Trường Sơn về phía Bắc, vùng cao
nguyên Nam Trung Bộ về phía Nam, và biển Đông. Dải
đất được chia cắt bởi nhiều nhánh núi Trường Sơn vươn
ra đến tận biển nên đồng bằng ở miền Trung rất
hẹp.
Duyên hải miền Trung bao gồm vùng duyên hải Bắc
Trung Bộ(các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tónh,
Quảng Bình,Quảng Trò, Thừa Thiên-Huế) và duyên hải
Nam Trung Bộ(TP.Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Đònh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận và Bình Thuận), thuộc về duyên hải Nam Trung
Bộ còn có các quần đỏ xa bờ là Hoàng Sa(huyện
đảo thuộc TP.Đà Nẵng và Trường Sa(huyện đảo thuộc
tónh Khánh Hòa). Khối núi Bạch Mã-nơi có đèo Hải
Vân, được coi là ranh giới tự nhiên giữa 2 vùng trên.
Đây là một lãnh thổ hẹp theo chiều Đông-Tây, nhưng
lại kéo dài theo chiều Bắc-Nam, với sự phân hóa khá
rõ của các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên, của dân cư-dân tộc, điều kiện lòch sử, …
3
Về mặt tự nhiên, Bắc Trung Bộ thuộc miền Tây Bắc
và Bắc Trung Bộ. Ở Thanh Hóa và một phần Nghệ
An, khí hậu có tính chất chuyển tiếp giữa Đồng bằng
sông Hồng và Bắc Trung Bộ, vẫn còn chòu ảnh
hưởng khá nhiều của gió mùa Đông Bắc về mùa
Đông. Dãy núi Trường Sơn Bắc, biên giới tự nhiên
giữa Việt Nam và Lào với các đèo thấp, làm cho về
mùa hạ có gió phơn Tây Nam thổi mạnh, nhiều ngày
thời tiết nóng và khô. Nhưng ngay sau nhừng ngày hạn
hán, có thể bão ập đến đem theo mưa lớn và nước
lũ, triều cường gay thiệt hại cho sản xuất và đời
sống.
Duyên hải Nam Trung Bộ có đặc điểm tự nhiên
rất đặc sắc: một dãi lãnh thổ hẹp, mà phần phía
Tây là sườn Đông của Trương Sơn Nam, ôm lay tây
Nguyên rộng lớn, phía Đông là Biển Đông. Phía Bắc
có dãy núi Bạch Mã làm ranh giới tự nhiên với Bắc
Trung Bộ, còn phía nam là Đông Nam Bộ. Các nhánh
núi ăn ngang ra biển đã chia nhỏ phần duyên hải
thành các đồng bằng nhỏ hẹp, tạo nên hàng loạt
các bán đảo, các vũng vònh và nhiều bãi biển đẹp.
Về tài nguyên thiên nhiên: Bắc Trung Bộ có một
số tài nguyên có giá trò như cromit, thiếc, sắt, đá vôi
và sét làm xi măng, đá quý. Rừng có diện tích tương
đối lớn. Các hệ thống sông mã, sông Cả có giá trò
về thủy lợi, giao thông thủy(ở hạ lưu) và tiềm năng
thủy điện. Tiềm năng nông nghiệp có phần hạn chế,
do các đồng bằng nhỏ hẹp. Với diện tích vùng gò đồi
tương đối lớn, Bắc Trung Bộ có khả năng phát triển
kinh tế vườn rừng, chăn nuôi gia súc lớn. Dọc ven
biển có khả năng phát triển đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản. Trong khi đó ở vùng nam Trung Bộ,
khoáng sản không nhiều, chủ yếu là các loại vật
liệu xây dựng, đặc biệt là các mỏ cát làm thủy tinh
ở Khánh Hòa, vàng ở Bồng Miêu(Quảng Nam). Dầu
khí đã được khai thác trên thềm lục đòa ở cực Nam
Trung Bộ, tiềm năng thủy điện không lớn. Duyên hải
Nam Trung Bộ thường ít mưa, khô hạn kéo dài, đặc
biệt ở ninh Thuận và Bình Thuận. Đồng bằng ở đây
nhỏ hẹp;đất cát pha và đất cát là chính, nhưng cũng
có những đồng bằng màu mỡ như đồng bằng Tuy
4
Hòa(Phú Yên). Các vùng gò đồi thuận lợi cho chăn
nuôi dê, bò, cừu.
KHÍ HẬU
(2)
Khí hậu vùng Trung Bộ được chia ra làm 2 khu vực chính
là Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ.
Vùng Bắc Trung Bộ: (bao gồm toàn bộ phía Bắc đèo
Hải Vân) về mùa đông, do gió mùa thổi theo hướng
Đông Bắc mang theo hơi nước từ biển vào nên khu vực
chòu ảnh hưởng của thời tiết lạnh và kèm theo mưa
nhiều, một điểm khác biệt với thời tiết khô hanh
mùa Đông ở vùng Bắc Bộ. Về mùa hè không còn
hơi nước từ biển đưa vào nhưng có thêm gió mùa Tây
Nam (còn gọi là gió Lào) tràn ngược lên, thường gay
ra thời tiết khô nóng với nhiệt độ ngày có khi lên
tới trên 40 độ C, trong đó khi độ ẩm không khí lại rất
thấp
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: bao gồm khu vực đồng
bằng ven biển Nam Trung Bộ thuộc phía đèo Hải Vân.
5
Gió mùa Đông Bắc khi thổi đến đây thường xuyên
suy yếu đi và bò chặn lại bởi dãy Bạch Mã. Vì vậy, khi
về mùa hè có gió mùa Tây Nam thổi mạnh từ vònh
Thái Lan, vượt qua dãy núi Trường Sơn, gây nên thời
tiết khô nóng cho toàn khu vực.
Đặc điểm nổi bật của vùng khí hậu Trung Bộ là có
mùa mưa và mùa khô không cùng xảy ta vào một
thời gian trong năm, với mùa mưa và khô của hai
miền khí hậu còn lại của 2 vùng Bắc Bộ và Nam Bộ
Người dân phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu đóng kè chắn sóng.
Mùa mưa đến với lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa
trong năm sẽ phát sinh lũ lụt lớn, gây thiệt hại sản
xuất, tài sản, tính mạng cư dân, tác động tiêu cực
đến môi trường sinh thái. Ngược lại, trong mùa ít mưa thì
nước lại không đủ cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất
của một số đòa phương trong vùng.
Mưa lũ ở Bắc Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 7 đến
tháng 10, ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thường
xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12.
Những trận lũ lụt lớn đã xảy ra ở miền Trung vào
các năm: 1952, 1964, 1980, 1983, 1990, 1996, 1998, 1999,
2001, 2003... Có lúc xảy ra lũ chồng lên lũ như các
đợt lũ tháng 11, 12 năm 1999.
6
Vùng duyên hải miền Trung là một trong những nơi
chòu ảnh hưởng nhiều nhất từ thiên tai. Qua thực tiễn
cho thấy đây là khu vực đang chòu ảnh hưởng ít nhất
của 8 loại hình do thiên tai, hiểm họa gay ra bao gồm:
Bão, lũ(kể cả lũ quét), lụt hạn hán, sạt lở đất, lốc,
xâm nhập mặn và xói lở bờ sông.
Hiện nay, ảnh hưởng và tác động của biến đổi khí
hậu như sự nóng lên của Trái Đất, nước biển dâng,
diễn biến của khí hậu ngày càng khắc nghiệt không
còn là chuyện của thế giới, của những nhà khoa
học mà nó đang trở thành moat hiểm họa thực sự cho
Việt Nam, trong đó có khu vực vùng duyên hải miền
Trung.
Các dòng sông lớn ở miền Trung chủ yếu được bắt
nguồn từ dãy núi Trường Sơn và đổ ra vùng biển
Đông, dài 120km)hẳng hạn như:
Sông Lam: bắt nguồn từ Nậm Căn(Lào), dài
513km, chảy qua Nghệ An theo hướng Tây Bắc-Đông
Nam, đổ ra biển Đông tại cửa Hội. Sông Ba(còn gọi là
Đà Rằng), bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Lónh(Kon Tum),
dài 300km. Ngoài ra còn rất nhiều con sông khác như:
sông Thạch Hãn(bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, dài
155km); sông Trà Khúc(bắt nguồn từ núi Đắc Tơ Rôn,
dài 120km), sông Bến Hải(bắt nguồn từ dãy Trường
Sơn, dài 100km), sông Thu Bồn, sông Gianh, sông Nhật
Lệ, sông Hương(còn gọi là hương Giang)…Các hồ ở
khu vực miền Trung chủ yếu
là hồ nhân tạo được xây
dựng để giữ nước cung
cấp cho các vùng phát
triển nông nghiệp.
7
Sơng Tam Kỳ, Quảng Nam
ĐIỀU KIỆN MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
(3)
Ở Bắc Trung Bộ, mức sống của dân cư còn thấp.
Chiến tranh tuy đã lùi xa, nhưng hậu quả vẫn còn để
lại, nhất là ở vùng rừng núi. Cơ sở hạ tầng của
vùng vẫn còn nghèo, việc thu hút các dự án đầu tư
nước ngoài vẫn còn hạn chế. Với sự tập trung đầu tư
cho vùng, nhất là với sự hình thành và phát triển
của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, trong tương lai
gần, kinh tế của Bắc Trung Bộ sẽ có bước phát triển
đáng kể.
Về mặt kinh tế- xã hội, trong thời kì chiến tranh
Duyên hải Nam Trung Bộ là 1 vùng chòu nhiều tổn that
về người và của. Đây là vùng có nhiều dân tộc ít
người (các nhóm dân tộc ở Trường Sơn-Tây Nguyên,
người Chăm). Trong vùng đã có 1 chuỗi đô thò tương
đối lớn như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết.
Đây là vùng đang thu hút được các dự án đầu tư
nước ngoài.
KINH TẾ
(4)
Đặc điểm chung
Kinh tế miền Trung, với sự tập trung là 5 tỉnh kinh tế
trọng điểm có nhiều lợi thế về vò trí chiến lược,
nguồn nhân lực, 17 cảng biển, 15 khu kinh tế, 22 khu
công nghiệp, 2 khu chế xuất, 8 sân bay, 2 xa lộ xuyên
Việt, hành lang kinh tế Đông Tây, và những dự án
hàng chục tỷ USD… Tuy nhiên, hiện nay các tiềm năng
sẵn có đó vẫn chưa phát huy được lợi thế kinh tế
vùng miền nói chung khi các tỉnh, thành đều có
những ưu thế nhưng lại không được quy hoạch tổng thể,
đang còn tồn tại sự pht triển lao động sản xuất manh
mún và mang tính tự phát. Các cảng biển nước sâu
Chân Mây, Đà Nẵng, Kỳ Hà và Dung Quất đ khơng
thể hoạt động hết công suất tối đa. Các khu công
nghiệp - chế xuất thêm trong tình trạng thiếu vắng
doanh nghiệp trong v ngồi nước trú trọng, quan tâm
đầu tư
8
Vùng kinh tế trọng điểm
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành
là Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngi, Bình Đònh,
Đà Nẵng. Với tổng diện tích khoảng 27.884km2, dân
số năm 2006 vào khoảng 6,2 triệu người và dự báo
đến 2025 là 8,15 triệu người. Đây là vùng không chỉ
có vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên mà
cũng giữ vò trí quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội cả nước về đòa lý, kinh tế, chính trò,
văn hóa và an ninh quốc phòng. Là mặt tiền của
tiểu vùng sông Mekong, từ đây có thể giao thương với
các nước như Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và xa
hơn là các nước Nam Á và vùng Tây Nam Trung Quốc
qua các trục hành lang Đông - Tây, đường 9, đường 14,
đường 24, đường 19.
Lòch sử
Miền Trung Việt Nam trong lòch sử đã được gọi bằng
các tên khác nhau như Trung Kỳ (là tên gọi do vua Minh
Mạng đặt cho phần giuwax của Việt Nam năm 1834), An
Nam (theo cách gọ của người Pháp) và Trung Phần
(thời Việt Nam Cộng hòa).
Tây Nguyên thường được cộng gọp vào Trung Bộ, đôi
khi có tài liệu gọi vùng này bằng tên ghép Miền
Trung-Tây Nguyên. Tên gọi Trung Bộ được dùng sau khi
vua Bảo Đại thành lập cơ quan hành chính cấp vùng
cao hơn tỉnh vào năm 1945, thay cho tên gọi Trung Kỳ
gợi nhớ thời kì bò pháp đô hộ, và còn được các tài
liệu chính thức của chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng. hòa sử dụng. Tên gọi này cũng được nhiều
người sử dung cho đến ngày nay.
Cổng thành Huế
Ngoài ra còn có một xưng
danh khác là Trung phần,
xuất phát từ việc năm
1949, Quốc trưởng Quốc gia
Việt Nam Bảo Đại cho thành
lập cơ quan hành chính cấp
Phần, với chức năng tương
đương cơ quan hành chính
9
cấp Bộ năm 1945. Về sau, chính phủ Việt Nam Cộng
hòa cũng thường dùng danh xưng này cho đến tận khi
sụp đổ vào năm 1975. Sắc lệnh số 143-A/TTP của Phủ
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 23/10/1956 đã
quy đònh gọi Bắc Viêt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng
là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần. Tây Nguyên được
Việât Nam Cộng hòa gọi là cao nguyên Trung phần
(trước đó gọi là cao nguyên miền Nam). Theo sắc lệnh
số 147-A/NV của Tổng thống Việt nam Cộng hòa gọi
là cao nguyên Trung phần (trước đó gọi là cao nguyên
miền Nam). Theo sắc số 147-A/NV của Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa ngày 24/10/1956 thì Trung phần gồm Cao
nguyên Trung phần và Trung nguyên Trung phần.
VĂN HÓA NHẬN THỨC
Vùng văn hóa Trung Bộ là nơi có lòch sử khai phá
muộn hơn so với Nam Bộ, không thuộc đòa bàn tụ cư
lâu đời của người Việt như ở Bắc Bộ. Trung Bộ có
thời kì khá dài là nơi đònh cư của các tiểu vương quốc
Chăm-pa. Chính vì vậy, đặc điểm căn bản văn hóa
của vùng miền chủ yếu mang dấu tích văn hóa
Chăm-pa. Nhiều di sản văn hóa hữu thể vẫn còn
tồn tại từ thời đó đến nay như tháp Chăm ở Huế,
tháp Đôi Liễu, Cốc Thượng, Núi Rùa ở Quảng Nam,
Đà Nẵng… Được xem như nhũng đại diện tiêu biểu cho
các giai đoạn phát triển nghệ thuật và kiến trúc đối
với lòch sử nền văn hóa Trung Bộ. Ngoài ra, kiến trúc
nhà ở cũng là một phần không thể không nói đến
khi đề cập đến văn hóa ở của người dân miền
Trung. Trong quan niệm về kiến trúc, xây nhà, dựng
cửa: người Việt biết chọn hướng nhà, chọn đất, tránh
hướng gió độc, đón lấy hướng mặt trời, hay xây
dựng nhà cửa gần sông suối để tiện nước sinh
hoạt(“Nhất cận thò, nhò cận giang”), trồng trọt. Một
điểm đặc biệt trong kiến trúc nhà cửa là các kiến
trúc thuận theo thuật phong thủy. Đó là sự hài hòa
giữa thế đất, thế núi, nguồn nước,… Điều này thể
hiện rất rõ trong kiến trúc thành quách như thành
Thăng Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế,… hay trong
thuyết Tam tài của người dân:”Thiên-Đòa-Nhân”. Xa
mãnh đất, xa ngôi nhà nơi mà mình sinh sống chắc
hẳn ai trong chúng ta đều có một cảm giác rất đặc
biệt mỗi khi nhớ về nó. Nếu như người Hà Nội có
10
dòp di xa đâu đó, trong tâm trí họ thường mang theo hình
ảnh những con phố cổ với những neap nhà nhấp
nhô, rêu phong cổ kính…thì với những người từng sinh
ra và lớn lên trên mãnh đất miền Trung cũng vậy,
hinh ảnh những ngôi nhà cổ đã tồn tại hàng trăm
năm nay luôn có một vò trí rất lớn trong tâm trí họ.
Dường như với thời gian những ngôi nhà cổ đã là
một trong những di sản văn hóa có sức ảnh hưởng
rất lớn với chính những cư dân sinh sống nơi đây…
Nhà cổ mà lâu nay ta vẫn nhắc đến ở miền Trung
nói chung và Quảng Nam nói riêng chính là nhà rường
và nhà cột. Về loai nhà thứ hai, nét đặc trưng nhất
là coat chính của ngôi nhà được chôn xuống đất,
không có đá táng-cây coat chính xuyên qua kèo để
đỡ cột nhà. Loại nhà này thường thì qua thời gian sẽ
không chòu được sự ẩm mốc mục đất, nay số còn sót
lại that hiếm hoi.
Nhà rường phân bố khắp vùng Ngũ Quảng tới miền
Đông Nam Bộ. Theo những thư tòch cổ để lại thì
“Rường” có nghóa là ràng lại, trên là xuyên trinh dưới
là đá (ngạch), chân cột kê trên đá. Tất cả hợp
thành một bộ khung vững chắc. Cách thiết kế này
có tác dụng đề kháng với tự nhiên quá khắc nghiệt
trên miền đất Quảng Nam. Chính vì vậy mà nhà rường
Quảng Nam khác với nhà rường Huế, chủ nhân của
nó phần lớn là các quan lại trong triều đình phong kiến
xưa. Theo giới nghiên cứu thì đó là điểm khác biệt
đầu tiên, Huế được xem là nơi có nhiều nhà rường
nhất miền trung-tuy nhiên tất thể các ngôi nhà ấy
đêu là nhà vườn. Bởi vò thế của chủ nhân (thuộc
tầng lớp thể gia vọng tộc) nên nhà rường được gọi
chung bằng cái tên là phủ, đệ. Nhà và vườn ở Huế
được ghi tên vào sách đỏ và được cả thế giới biết
đến với cái tên “Văn hóa vườn”.
Tháp Chiên Đàn, Quảng Nam
Bởi lẽ cuộc sống văn hóa
của con người nông nghiệp
gắn bó mật thiết với
thiên nhiên, cho nên con
người và vũ trụ được xem
11
là năm trong một thể thống nhất (thiên đòa van vật
nhất thể), cho nên vũ trụ làm sao, con người lam vậycon người là một “tiểu vũ trụ”, từ đó suy ra rằng các
mô hình nhận thức đúng với vũ trụ cũng sẽ đúng
cho lónh vực con người.
Dân Cư:
- Tộc người Việt là dân tộc chủ thể ảnh hưởng văn
hóa Chăm.
- Người Chăm
+Dân số: 132.873 người
+Cư trú:
- Người Ba Na
+Dân số: 174.456 người
+Cư trú: Kon Tum, Bình Đònh, Phú Yên.
- Người Bru-Vân Kiều
+ Dân số: 55.559 người.
+Cư trú: Đồng Nai, Bình Phước, Bình Thuận, Bà RòaVũng Tàu.
- Người Chu ru
+Dân số: 11.978 người
+Cư trú: Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Người Chứt
+ Dân số: 382 người
+Cư trú: Quảng Bình phân ly từ 4 nhóm người Việt,
Mường.
- Người Co
12
+Dân số: 27.766 người
+ Cư trú: Quãng Ngãi, Quãng Nam.
- Người Cơ-ho
+Dân số: 128.723 người
+ Cư trú: Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh
Hòa.
- Người Cơ-tu
+Dân số: 5045 người
+Cư trú: Quãng Nam, Thừa Thiên - Huế
-Người Êđê:
+Dân số: 270.348 người
+Cư trú: Đà Lạt, Đồng Nai, Phú Yên, Khánh Hòa.
-Giẻ Triêng
+Dân số: 30.243 người
+Cư trú: Quãng Ngãi, Kon Tum
- Người Hrê
+Dân số: 113.111 người
+Cư trú: Quãng Ngãi, Bình Đònh.
Người Raglai
+Dân số: 96.931 người
+Cư trú: Lâm Đồng, Bình Thuận,
- Người Tà Ôi
+Dân số: 34.960 người
13
+Cư trú: Quãng Trò, Thừa Thiên-Huế
- Xơ Đăng
+Dân số: 127.148 người
+Cư trú: Kon Tum, Quãng Nam, Quãng Ngãi.
Làng nghề truyền thống(5)
Nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Các dân
tộc anh em sống trên mảnh đất Ninh Thuận đều có
nét đặc trưng riêng trong các nghề truyền thống.
Làng nghề có vai trò quan trọng trong phát triển du
lòch của tỉnh bởi các mặt hàng truyền thống mang
đậm nét Chăm với các hoa văn đặc sắc, phản ánh
phần nào giá trò văn hoá của dân tộc.
Người Chăm có nhiều nghề truyền thống được giữ từ
bao đời nay như dệt thổ cẩm ở làng nghề Mỹ Nghiệp,
làm đồ gốm ở làng Bầu Ngữ, ...Nghề truyền thống
đã và đang thu hút nhiều lao động tham gia, tạo ra được
những sản phẩm có giá trò được tiêu thụ không chỉ
trong tỉnh mà còn được bán rộng rãi tử nhiều nơi
trong cả nước. Hàng thổ cẩm của làng nghề Mỹ
Nghiệp đã được xuất sang nhiều nước trên thế giới.
Chăm là đen và đỏ. Đường nét hoa văn đa phần có
dạng hình học như: Bungu tamun (bông mặt võng), chăm
birow (Chăm mới), tuk hop, biugu jal. Những hoa văn này
thường được bố trí trên toàn mặt vải. Có loại được
bố trí theo chiều dài tấm vải như thằn lằn (kachak),
neo (gor vak), chân chó (takai asow), dây máu (bingu
hong)... Đôi khi có thể thấy những hoa văn thể hiện
một số loài vật được cách điệu như rồng (garai,
makara), phượng hoàng (arut, garuda), cồn (amrak hơng).
Nhìn hoa văn trên người phụ nữ Chăm có thể phân
biệt được tầng lớp, đòa vò của ho.
Gốm
Đá tảng, đất sét nung, nước, những mảng màu tinh
tế, vô số hạt cườm lóng lánh kết thành hoa văn - sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống mỹ nghệ
14
dân gian với con mắt hội hoạ hiện đại đã làm nên sự
thành công cho những sản phẩm gốm mỹ thuật.
Nhưng vượt qua hiệu quả thẩm mỹ, ẩn chứa trong các
tác phẩm là một niềm say mê, trân trọng với cả
tấm lòng đối với một làng nghề nghèo khó nơi sứ
sở của xương rồng và gió cát khắc nghiệt .......
Làng đan lát Vinh Ba:
Nằm về phía Tây Nam xã Hoà Đồng, huyện Tây Hoà.
Nơi đây có nghề đan lát nổi tiếng được truyền lại qua
bao đời. Do vậy, từ lâu Vinh Ba vốn là nơi trồng nhiều
tre, tre đứng như rừng dày đặc bao bọc các lối đi nên
còn gọi là Xóm Rừng, Xóm Kiệt (“Kiệt” theo cách gọi
ở đây là “lối đi”). Dạo qua những đường làng, lối
xóm ở Vinh Ba nơi nào cũng thấy những sản phẩm
đan từ tre như: Bồ, thúng, nia, dần, sàng,lẵng hoa, bục
đựng hoa, giỏ tre …Những sản phẩm này chẳng những
đã có chỗ đứng trên thò trường Phú Yên mà còn đi
vào các tỉnh miền Nam.
Làng bánh tráng Hoà Đa:
Cũng như những làng quê khác trên đất Phú Yên,
người dân thôn Hoà Đa, xã An Mỹ (huyện Tuy An)
sống dựa vào cây lúa là chủ yếu và cũng chính từ
nguồn nguyên liệu dồi dào này mà nghề bánh
tráng ở đây đã ra đời rất sớm và trở thành nghề
truyền thống được lưu truyền qua nhiều thế hệ cho
đến
nay.
Bánh tráng Hoà Đa vốn từ lâu đã nổi tiếng bởi
hương vò đặc trưng của nguyên liệu chế biến, sản
phẩm làm ra không chỉ tiêu thụ tại chợ huyện mà
còn mở rộng thò trường trong cả nước.
Ngoài làng bánh tráng Hoà Đa, Phú Yên còn có
nhiều làng nghề bánh tráng với chất lượng không
thua kém như: Làng bánh tráng Đông Bình, Đông
Phước, Hoà An, Phú Thuận … Đây cũng là món đặc
sản mà người dân Phú Yên thường làm quà để
tặng bà con, bạn hữu gần xa.
15
Làng nghề tiểu thủ công mỹ nghệ (mây tre đan):
Bằng nguồn nguyên liệu như dây chuối và song mây
có sẵn tại đòa phương, qua bàn tay tài hoa của những
người thợ ở các làng nghề: Vónh Phú, Phú Ân, Ân
Niên, Đông Phước (xã Hoà An - huyện Phú Hoà ) và
Mỹ Thành, Đông Lộc (xã
Hoà Thắng - huyện Phú Hoà
) … đã tạo ra những sản
phẩm độc đáo như: ghế
mây, cầu mây, thùng chét,
ghế dây chuối … Những sản
phẩm này đã bước đầu
xuất khẩu ra thò trường một
số nước trên thế giới.
VĂN HÓA TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG
Tôn giáo, tín ngưỡng
(6)
Việt Nam có 1 nền văn hóa rất đa dạng, phong
phú và giàu bản sắc bởi đó là sự giao hòa văn
hóa của 54 dân tộc cùng tôn giáo trên lãnh thổ.
Bên cạnh đó, văn hóa Việt Nam còn chòu nhiều ảnh
hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cùng với nền
văn minh lúa nước của người dân Đông Nam Á.
Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo, theo
thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm
2005, hiện có gần 10 triệu tín đồ Phật giáo, 5.5 triệu
tín đồ Công giáo, 2.4 triệu tín đồ đạo Cao Đài, 1.3 triệu
tín đồ đạo Hòa Hảo, 1 triệu tín đồ đạo Tin Lành và
60.000 triệu tín đồ Hồi giáo. Ngoài ra, một số người
Chăm ở Nam Trung Bộ có theo đạo Bà-la-môn.
Trong tín ngưỡng, đại đa số người dân Việt Nam có tục
lệ thờ cúng tổ tiên, nhiều người theo các tín ngưỡng
dan gian khác như Đạo Mẫu Việt Nam, và thường đến
cầu cúng tại các đền chùa Phật giáo, Khổng giáo
và Đạo giáo.
16
Lễ hội văn hóa miền Trung
(7)
Lễ "Pa Sưm" của người Khơ Mú
Người Khơ Mú ở Nghệ An thường
làm lễ Pa Sưm trước lúc tra hạt
trên nương rẫy. Đây là lễ cầu
khấn trời đất, tổ tiên và các
thần linh cho nương rẫy được bội
thu.
Chủ lễ là người phụ nữ trong
nhà. Bà đóng vai Mẹ lúa, tượng trưng cho sự sinh sôi,
nảy nở.Người Khơ Mú ở Nghệ An thường làm lễ Pa
Sưm trước lúc tra hạt trên nương rẫy. Đây là lễ cầu
khấn trời đất, tổ tiên và các thần linh cho nương rẫy
được bội thu.
Về Phan Rí (Bình Thuận) xem lễ hội Mbăng Katê
Mbăng Katê là lễ hội của
người Chăm, lễ có quy mô lớn
và kéo dài nhiều ngày và
cũng là dòp để người Chăm
tưởng niệm các anh hùng liệt
só, các vò thần linh, nữ thần Pô
Nagar, các vò vua có công phát
triển nông nghiệp như Pô Klông
Girai, Poo Rômê đ được thần hóa và cúng tổ tiên,
ông bà.
Lễ rước Mục Đồng ở Đà Nẵng
Lễ rước Mục Đồng - lễ hội dành cho trẻ chăn trâu ngày xưa được tổ chức ở làng Phong Lệ, Hòa Chu, Hòa
Vang, thnh phố Đà Nẵng. Theo cụ Ngô Tấn Nh, l "lo lng"
của Phong Lệ, tuổi đ trn 90, thì ngy trước, theo lệ cứ
đến các năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, nghóa là cứ 3 năm,
làng lại tổ chức lễ rước Mục đồng một lần. Sau dn
dần ra su năm, rồi cuối cùng 12 năm mới tổ chức
một lần. Lần cuối cùng được ghi nhận là vào năm
Bảo Đại thứ 11 (1936).
17
Chà và lệ của người Chăm ở Bình Đức – Bình Thuận
Chà và lệ hay còn gọi l lễ hội Tống
na có ý nghóa cầu phc cầu may, cầu
mưa thuận gió hòa, cầu một năm
được mùa, cầu cho dân làng khỏe
mạnh, xua hết những điều xấu xa
trong năm cũ để đón những điều tốt
lành trong năm mới.
Lễ hội Nghinh Ông của người Hoa ở Phan Thiết
Lễ hội Nghinh Ông của người Hoa ở Phan Thiết là
một trong những lễ hội có quy mô lớn so với một số
lễ hội các dân tộc anh em khác trong tỉnh. Lễ hội
Nghinh Ơng có cả lễ v hội với nhiều nội dung vừa mang
ý nghóa văn hóa dân gian, thể hiện đời sống tâm
linh của con người, mong ước sự bình an, hạnh phúc về
cuộc sống ấm no của cả cộng đồng.
Lễ hội “Rước nước” ở làng Bồng Thượng, Thanh Hoá
Bồng Thượng là một làng cổ của x
Vónh Hng, huyện Vónh Lộc. Theo tư liệu
khảo cổ của Viễn đông Bác cổ khai
quật vào thế kỷ XX ở khu di chỉ Đa
Bút (Vónh Tân) đã có kết luận bộ
xương người tìm được thì cch đây 6.500 năm đ có cư dân
sinh sống. Hiện nay, Bồng Thượng là một làng lớn có
dân số 5.000/7.500 người cả.
Lễ hội Dinh Bà làng Chiêm Sơn - Quảng Nam
Theo lệ hằng năm, ngày 12/4/2006 này, tại làng
Chiêm Sơn, x Duy Trinh, huyện Duy Xuyn tổ chức lễ hội
B với cc nghi lễ truyền thống: rước kiệu Bà, lễ tế
mục đồng và các trò chơi dân gian. Chiêm Sơn là một
trong những làng x được hình thnh rất sớm vo thế kỷ XV
ở Quảng Nam. Thời kỳ sau lại thêm trù phú, nổi
tiếng về nông nghiệp, dệt lụa tơ tằm như văn học
dân gian có câu" Chiêm Sơn là lụa mỹ miều. Mai vang
18
tiếng cửi, chiều chiều tơ giăng"
Lễ vía Lục tánh Vương gia ở Hội An
Ngày 14 và 15/3, tại Hội An diễn
ra 2 lễ hội lớn của cư dân đòa
phương và được đưa vào chương
trình Năm Du lòch Quốc gia Quảng
Nam 2006: Lễ hội Cầu ngư (diễn
ra tại bi biển Cửa Đại) và lễ vía
Lục tánh Vương gia của cộng
đồng người Hoa (tổ chức tại Hội
quán Phúc Kiến, 46 Trần Phú).
Lễ cúng cơm mới của người Thái Con Cuông - Nghệ
An
Từ xa xưa tổ tiên người Thái tin rằng,
để có một vụ mùa bội thu, thì sự ph hộ
của đất trời là rất cơ bản. Vì vậy, để
thể hiện lòng biết ơn đối với tổ tiên,
trời đất, sau mỗi vụ thu hoạch các gia
đình đều phải làm Lễ cúng cơm
Người Bana - Chăm với lễ hội xây cột
đâm trâu
Ba Na - Chăm? Hay Chăm - Ba Na? Hay là Chăm? Ba Na?...
Chỉ biết rằng chiến tranh và mưu cầu cuộc sống đ
đẩy hai tộc người vốn khác xa nhau về ngôn ngữ, tín
ngưỡng, tập tục... đến gần nhau, hoà vào nhau để
sống. Xây cột đâm trâu là lễ hội lớn nhất của
đồng bào Ba Na - Chăm sống ở phía Đông dy Trường
Sơn.
Lễ hội đền Vua Mai ở Nghệ An
Cứ vào rằm tháng Giêng hằng
năm, huyện Nam Đàn lại tổ chức
Lễ hội đền Vua Mai để tưởng nhớ
công đức của Mai Hắc Đế cùng
19
các tướng lónh của ông và ôn lại khí thế hào hùng
của cuộc khởi nghóa đánh bại quân xâm lược nhà
Đường xây dựng nước Vạn An độc lập; đồng thời giáo
dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của cha ông
cho thế hệ trẻ về sự nghiệp dựng nước và giữ nước
để tăng thêm niềm tự hào, lòng yu mến qu hương xứ
sở.
Lễ hội cổ truyền phố cổ Hội An
Hội An, tỉnh lỵ cũ tỉnh Quảng Nam, một phố cổ miền
Trung, có truyền thống thường xuyên tổ chức nhiều
lễ hội, mỗi năm theo âm lòch, bởi tại đó, phần lớn
cư dân đều là con cháu của các thương gia Hoa kiều,
những nhà lập nghiệp tiên phong đến Hội An đ mấy
trăm năm, đ chòu ảnh hưởng nhiều của văn hóa
Khổng Giáo, nên tổ chức các lễ hội tùy theo thời
tiết trong năm.
Lễ hội cầu ngư ở Phan Thiết - Bình
Lễ cầu ngư mang đậm các yếu
tố văn hóa dân gian chủ yếu
của ngư dân người Việt. Một loại
hình lễ hội đặc trưng ở chỗ vừa
thực hiện trên bờ, vừa thực
hiện trên mặt biển, kết hợp
nhiều hoạt động lễ nghi đa dạng
và các loại hình văn nghệ dân gian đặc sắc.
Thuận
Đêm hội Cơ tu - Đà Nẵng
Giữa ngôi nhà rông trên đỉnh Bà Nà cao
1.452m, trước biểu tượng hai con voi đứng giữa
panô hoa văn trống đồng, dưới ánh lửa bập
bùng, ché rượu cần vít cong, già làng Thiết
của hai làng Tà Lang, Giàn Bí (Hòa Bắc, Hòa
Vang, Đà Nẵng) đ đọc nghiêm trang, trầm
bổng lời thiêng xin lửa của Giàng mở đầu cho đêm
hội Cơtu năm 2003.
Lễ hội đầm Ô Loan
20
Lễ hội đầm Ô Loan có tính chất truyền thống mang
nét đặc trưng của văn hoá dân gian vùng duyên hải
miền Nam Trung bộ của người Việt, mới ổn đònh vào
khoảng 300 đến 400 năm trở lại đây, chủ yếu của cư
dân sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt
hải sản. Lễ hội đầm Ô Loan có nét riêng về vùng
sông nước Tuy An - Phú Yên, song cũng mang những
nét chung của văn hoá dân gian Việt Nam.
Lễ cầu mùa của dân tộc Tà i
Hàng năm, lễ cầu mùa của dân
tộc Tà Ôi tỉnh Thừa Thiên-Huế
được tổ chức sau Tết âm lòch.
Thường thì từ 3-5 năm người ta mới
tổ chức một lần vào những năm
có những sự kiện quan trọng như: tạ
ơn Yang (Trời) về việc liên tục được
mùa hoặc cầu được mùa nếu mùa màng thất bát,
cầu sức khoẻ...
Lễ hội cúng biển ở Mỹ Long - Vónh Long
Hàng năm, cứ vào ngày 11
và 12/5 âm lòch, hàng vạn
người từ khắp nơi trong và
ngoài tỉnh Trà Vinh tề tựu về
x Mỹ Long, huyện Cầu Ngang
(Trà Vinh) để dự lễ hội cúng
biển của dân đòa phương. Lễ
hội được ngư dân tổ chức linh
đình tại Miếu B Cha Xứ với
nhiều nghi thức vui lạ thu ht sự hiếu kỳ của du khch
gần xa. Buổi sng ngy 11/5 m lòch, ban tổ chức lm lễ
nghinh Cha Xứ Nguyn nhung, trong đó có cảnh cha con
Quan Vũ mở đường cho phu kiệu đưa bà xuống
thuyền.
Lễ hội Cá Ông
21
Đã từ bao đời nay, lễ hội Cá Ông
(còn được gọi là lễ tế cá Voi) là lễ
hội lớn nhất của ngư dân tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng. Thờ phụng Cá Ông ở
miền đất này không chỉ được xem là
sự tôn kính thần linh mà còn gắn liền
với sự hưng thònh của cả làng cá. Lễ hội được diễn
ra trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lòch. Trong
ngày lễ bàn thờ được trang hoàng hết sức rực rỡ,
trang nghiêm. Các nhà đều đặt bàn hương án bày đồ
lễ cúng. Trên mỗi tàu thuyền đều chăng đèn kết
hoa. Lễ cầu an được tổ chức vào đêm đầu tiên tại
làng Cá Ông dưới sự điều khiển của các vò chánh
bái, là những vò cao niên, có uy tín lớn trong làng
chài.
Lễ hội cầu ngư
Mùa xuân cũng là mùa của lễ hội. Ngay sau Tết
Nguyên đán cả nước lại rộn ràng tưng bừng với
hàng ngàn lễ hội lớn nhỏ thấm đẫm văn hoá
truyền thống gắn liền với đời sống tâm linh của con
người Việt Nam.
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ
NHIÊN
Con người sống trong quan hệ chặt chẽ với thiên
nhiên-các thức ứng xử với môi trường tự nhiên là
thành tố quan trong thứ ba của mỗi hệ thống văn
hóa.
Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể
xảy ra hai khả năng:những gì có lợi cho mình thì con
người hết sức tranh thủ tận dụng, còn những gì có
hại thì ra sức ứng phó. Việc ăn uống là thuộc lónh
vực tận dung môi trường tự nhiên. Còn mặc, ở và đi
lại thuộc lónh vực ứng phó: mặc và ở là ứng phó
với thời tiết, khí hậu; đi lại là ứng phó với khoảng
cách.
Và để biết được văn hóa ứng xử với môi trường tự
nhiên của con người Duyên hải miền Trung như thế
22
nào, trước tiên ta tim hiểu về ẩm thực của người
duyên hải. Dải đất miền Trung nhỏ hẹp chạy dài từ
Thanh Hóa cho đến Binh Thuận. Mỗi đòa phương đều có
phong tục, tạp quán, thổ sản khác nhau và món ngon
vật lạ chẳng bao giờ thiếu vắng khách sành ăn lựa
chọn phẩm bình. Chẳng hạn, ở Thanh Hóa có:
Hà Trung mạch phạn
Ngự lónh kê thang (Huế)
Cơm nếp Hà Trung
Cháo gà núi ngự
Vào đến Quảng Bình thì có các loạc sơn hào hải vò,
những món thượng thừa trong kho ẩm thực:
Cửa Khổng Cửa Ròn
Nam sâm Bổ Trạch
Cua gạch Quảng Khê
Sò nghêu Quán Hàu
Rượu dâu Thuận Lý…
Đến Thừa-Thiên Huế bạn sẽ được thưởng thức các
loại trái cây ngọt ngào, thơm ngon
Vào xứ Quảng được thưởng thức tiếp các món:
Nem chả Hòa Vang
Bánh tố Hội An
Khoai lang Trà Kiệu
Thơm rượu Tam Kỳ…
Rời Quảng Ngãi vào Bình Đònh quê hương của dừa:
Công đâu công uổng công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam
Quan
Hoặc:
Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Đònh sợ dài đường
đi…
Bình Đònh còn nổi tiếng với một loại trái cây rừng,
mà thưở xưa dùng để tiến kinh. Đó là trái chà viên:
Quảng Nam nổi tiếng bòn bon
Chà viên Bình Đònh vừa ngon vừa lành
Chín mùi da vẫn còn xanh
Mùi thơm cơm nêp, vò thanh đường
phèn…
Vượt đèo Cả vào Khánh Hòa cũng có lắm hải vò sơn
hào như:
23
Yến xào Hòn Nội
Vòt loan Ninh Hòa
Tôm hùm Đình Ba
Cá trau Võ Cạnh…
Sò huyết Thủy Triều…
Ở miền Trung đất đai khô cằn, đồng bằng nhỏ hẹp,
biển cả mênh mông, núi rừng trùng điệp, có lắm
của ngon vật lạ hấp dẫn đối với du khách sành ăn.
Đây là một trong những tiềm năng của ngành Du lòch
Việt Nam.
Cấu trúc chung bữa ăn của người dân Việt Nam có
cơm, rau, cá. Miền Trung do khí hậu thao mùa, cư dân
cung đa dạng trong loại hình sản xuất kinh tế (trồng luá
nước, đánh bắt thủy sản, chăn nuôi,…) nên các
món ăn cung có vò khác với miền Bắc và miền Nam.
Đó là vò cay, mặn, chát..vv. Tuy nhiên vò cay vẫn là
đặc trưng của miền Trung. Khi ăn các món hải sản
không thể thiếu vò này trong các bữa ăn.
Khác với người Kinh, thực phẩm trong bữa ăn của họ
thường là các loại rau, củ, quả, ngoài ra còn có các
loại thòt gia súc, gia
cầm,…nhưng ngoài
những nguồn thực
phẩm đó thì người
Chăm trong bữa ăn
của họ còn có thòt
thú rừng như thú
rừng, heo rừng,…
TRANG PHỤC
Trang phục là moat
sản phẩm văn hóa
sớm nhất của xã hội loài người, và nó được thay
đổi theo quá trình lòch sử. Tuy nhiên, hai nét nổi bật
trong trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam là
áo dài và nón lá. Vùng duyên hải miền Trung mang
nét văn hóa giao thoa giữa hai miền Bắc và Nam, nên
trang phục của người Trung Bộ có một nét gì đó hài
hòa với trang phục của hai miền văn hóa nói trên. Vì
suy cho cùng văn hóa của miền Trung, miền Bắc hay
miền Nam đều từ một nguồn cội mà ra.
24
Trong thời phong kiến, trang phục của phụ nữ là: váy
đen, yếm trắng, áo tứ than,
đầu chit khăn mỏ quạ, thắt
lưng hoa lý. Bộ lễ phục gồm
ba chiếc áo, ngoài cùng là
áo dài tứ thân bằng the
thâm hay màu nâu non, kế
đến là chiếc áo màu mỡ
gà và trong cùng là chiếc
áo màu cánh sen. Khi mặc,
cả ba chiếc áo đều cài
khuy bên sườn, phần từ
ngực đến cổ lật chéo để
lộ ba màu áo. Bên trong là
chiếc yềm thắm. Đầu đội
nón trông rất duyên dáng
và kín đáo.
Ngày nay, trang phục truyền
thống của người Việt đã
thay đổi. Bộ âu phục dần
thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc
áo dài của phụ nữ ngày càng được cải tiến và
hoàn thiện hơn. Đó là chiếc áo dài có than áo tương
đối bó sát thân người làm cho than thể phụ nữ hiện
lên những đường cong mềm mại, phù hợp với vóc
người nhỏ nhắncủa phụ nữ Việt Nam. Hai tà áo thả
xuống ngang nửa ống chân, thước tha bay trong gió,
quấn quýt từng bước đi. Thân áo xẻ hơi cao. Hơn cả
quần để lộ một chút phần mình phía trên. Tay áo nới
rộng vừa phải, có thể hơi loe, tay chỉ dài đến ¾ cánh
tay, nếu muốn tạo dáng khỏe, trẻ trung. Cùng với áo
dài, phụ nữ Việt Nam còn có chiếc nón bài thơ
duyên dáng. Để làm ra những chiếc nón đẹp, người
thợ làm nón phải chọn những lá
non của cây cọ đem phơi khô, là
phẳng để lợp nón bên trong lớp
lá trắng ngần như lụa là hình
ảnh con đò bến nước quê hương
và vần thơ quen thuộc.
Còn về trang phục của các dân
tộc Việt Nam thì hết sức phong
25
phú và đa dạng, và mỗi trang phục lại mang những
nét độc đáo và đặc trưng riêng cho từng vùng miền
chẳng hạn như, đàn ông Chăm vùng Bình Thuận, Ninh
Thuận trước đây thường mặc xà rông, cùng mặc với
xà rông là kiểu áo lakay, ngắn, chùng đến mông,
phía trước có đường xẻ và đính khuy, vạc trước có hai
túi, ống tay áo rộng, dài gần quá cổ tay; còn phụ
nữ Chăm mặc áo mở và loại áo dài không xẻ vạt
kiểu chui đầu, được nhuộm những màu tươi và sáng
như chàm, xanh lục, hồng. Áo của họ chia thành hai
loại: dùng trong ngày thường và lễ tết. Cùng với
những bộ váy áo do đôi bàn tay khéo léo và tâm
hồn thẫm mỹ của các thiều nữ tạo ra thì những bộ
đồ trang sức như các loại hoa tai, vòng tay, vòng cổ
bằng đồng, bạc, dây cườm không thể thiếu được trong
trang phục của người Việt. Chẳng hạn, phu nữ Huế ít
dùng đồ trang sức, một số người vẫn đeo kiềng
vàng. Phấn son chỉ tô diểm nhẹ khi can thiết lam tôn
lean vẻ đẹp tự nhiên của khuôn mặt…
Về tóc thì đàn ông xưa để tóc dài, bó thành củ tỏi
đằng sau. Còn phụ nữ thì để tóc xõa ngang vai, hay
búi lại rồi vấn ở sau đầu như phái nam. Nhưng đến khi
thời kì giao lưu văn hóa với phương Tây, thì nam giới
cắt tóc ngắn, con nữ giới ngoài để tóc dài còn uốn
tóc hay kẹp tóc.
Tóm lại cùng với sự phát triển của đất nước, những
tập quán về trang phục, trang sức xưa dần được cải
thiện. Song, tà áo dài của người phụ nữ hay việc để
tóc dài vẫn là nét đẹp đặc thù của văn hóa dân
tộc Việt Nam.
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI
(8)
Một cộng đồng dân cư không chỉ sống trong quan hệ
với môi trường tự nhiên mà còn phải quan hệ với
các dân tộc xung quanh-đó là môi trường xã hội.
Trong lónh vực ứng xử với môi trường xã hội, với vò trí
ngã tư đường của văn minh, người Việt Nam nói chung
và người dân Trung Bộ nói riêng đã tiếp nhận nhiều
giá trò văn hóa nhân loại. Vùng đất duyên hải miền
Trung được xem là nơi phát xuất của văn hóa Sa