Khả năng cạnh tranh nhìn
từ chính sách tỷ giá
Sau loạt bài về hàng Trung Quốc, Sài Gòn Tiếp Thị nhận được
bài viết của tiến sĩ kinh tế Lê Hồng Giang về phân tích ảnh hưởng
của chính sách tỷ giá với khả năng cạnh tranh của hàng hoá
trong thời gian qua, cũng như ảnh hưởng lâu dài tới chính sách
phát triển kinh tế
Trên danh nghĩa, thì năm năm qua, tiền Việt mất giá gần 25% so
với đồng nhân dân tệ.
Kém cạnh tranh do chính sách tỷ giá
Tuy nhiên, lý thuyết ngoại thương chỉ ra, sức cạnh tranh của
hàng hoá phụ thuộc vào tỷ giá thực chứ không phải tỷ giá danh
nghĩa. Với những nước có tốc độ lạm phát cao như Việt Nam,
phân biệt giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa khi nói về sức
cạnh tranh rất quan trọng. Dựa trên nguồn số liệu từ Asian
Development Outlook 2009 của ADB, tôi tạm tính tỷ giá thực giữa
đồng tệ và tiền đồng, dùng số liệu chỉ giá tiêu dùng của Việt Nam
và Trung Quốc để hiệu chính.
Có thể thấy trong giai đoạn 2004 – 2008 mặc dù tỷ giá danh
nghĩa giữa đồng tệ và tiền đồng tăng gần 25%, tỷ giá thực giảm
khoảng 8%. Nghĩa là hàng hoá Việt Nam đã bị giảm sức cạnh
tranh so với hàng Trung Quốc vì tác dụng của tỷ giá. Tiền đồng
dù trên danh nghĩa mất giá so với đồng tệ, nhưng khi tính đến tác
dụng của lạm phát đã không mất giá đủ mạnh để giúp hàng Việt
Nam tăng sức cạnh tranh với hàng Trung Quốc.
Nước Mỹ, trong suốt ba đời tổng thống từ Clinton đến Obama, đã
tìm mọi cách ép Trung Quốc tăng giá đồng tệ để giải quyết vấn
đề thâm hụt thương mại. Nghĩa là đồng tệ đã được định giá thấp
hơn giá trị thực so với USD trong một thời gian dài, theo quan
điểm của nhiều nhà kinh tế. Trong khi đó, tiền đồng lại được định
giá cao hơn giá trị thực so với đồng tệ. Như vậy không chỉ hàng
Trung Quốc có sức cạnh tranh mạnh hơn hàng Việt Nam trên thị
trường Việt Nam mà hàng Việt Nam còn khó khăn hơn khi xuất
sang các nước khác ngoài Trung Quốc.
Ảnh hưởng từ tăng trưởng nóng
Lý do căn bản đằng sau việc định giá tiền đồng cao so với đồng
tệ, USD, và đa số các đồng tiền khác là lạm phát của Việt Nam
quá cao trong khi tỷ giá danh nghĩa lại được giữ tương đối ổn
định. Lạm phát cao là hệ quả của việc nền kinh tế phát triển quá
nóng song song với chính sách tiền tệ đã quá nới lỏng. Kinh tế
phát triển nóng trong giai đoạn 2002 – 2007 biểu hiện rất rõ
không chỉ qua các chỉ số kinh tế như tăng trưởng GDP, giá bất
động sản, chứng khoán, mà còn qua tình trạng thiếu điện, kẹt xe
tràn lan. Dòng vốn nước ngoài, trong đó có cả kiều hối, lũ lượt
chảy vào Việt Nam vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của kinh
tế phát triển nóng. Thêm vào đó, lượng vốn nước ngoài đổ vào là
tiền đề cho chính sách nới lỏng tiền tệ khi ngân hàng Nhà nước
mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ quốc gia nhưng không hoặc thiếu
khả năng thực hiện chính sách thanh khoản đối ứng nhằm thu hồi
bớt nội tệ từ lưu thông nhằm vô hiệu hoá hoặc giảm thiểu ảnh
hưởng tiêu cực của việc thu mua ngoại tệ tới giá trị nội tệ.
Cũng chính dòng chảy vốn nước ngoài vào Việt Nam trong thời
gian đó giúp cho Việt Nam có khả năng duy trì tỷ giá danh nghĩa
tương đối ổn định dù nhập siêu ngày càng lớn. Ngoài lý do khách
quan này, về mặt chủ quan ngân hàng Nhà nước cũng có thể
lưỡng lự không muốn phá giá tiền đồng mạnh hơn do lo ngại đến
khả năng trả nợ và cũng chính vì mối lo lạm phát. Tuy vậy, vấn
đề này có thể không quá lớn vì nợ chính phủ có lẽ đa phần còn