Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Bài giảng: Chấn thương do vật tày trên cơ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.41 KB, 33 trang )

Chấn thương do vật tày trên cơ thể.
I. Chấn thương vật tày vào vùng ngực.
-------------------------------------------------------------
Lồng ngực hoặc ngực là một khoang xương - sụn để chứa đựng và bảo vệ
tim, phổi và các mạch máu lớn của chúng. Với bề mặt trước sau ( phía
sau) được hình thành bởi 12 đốt sống và những xương sườnTại vị trí để
hình thành xương sườn được phân chia thành những khoảng cách bởi cơ
liên sườn trong 11 xương được gắn với các xương kề bên.Xương ức và
xương sườn được tạo nên phần trước. Cơ hoành ở phần sàn của khoang
ngực và phân chia lồng ngực và khoang bụng.
Tim nằm giữa hai phổi trong khoang giữa ngực, được đóng kín bởi bao
tim, hay màng ngoài tim, mỗi phổi cũng được đóng kín bởi một màng
thanh dịch gọi là màng phổi. Vị trí của tim nằm chếch phía sau của
xương ức và kế cận với xương sườn. Nó nằm nhiều về khoang sau của
xương ức và kế cận với xương sườn. Nó nằm nhiều về khoang ngực trái
hơn bên phải, nó chiếm 1/3 về bên phải và 2/3 về bên trái của đường
giữa.
Khi gây chấn thương vùng ngực, vật tày không xuyên qua, những phủ
tạng bên trong có thể xảy ra chấn thương hoặc không thấy chấn thương
bên ngoài của thành ngực. Trong một số trường hợp, thiếu chấn thương
bên ngoài có thể do quần áo phía bên ngoài cơ thể nạn nhân cản trở. Ở trẻ
em và người trẻ, lồng ngực đàn hồi, có thể chống đỡ được chấn thương
trầm trọng tới các cơ quan bên trong lồng ngực mà không bị gãy xương
sườn, xương ức, nhưng ở người cao tuổi thường những xương này bị gãy.
1.1 Chấn thương xương sườn.
- Có 4 thể loại gãy xương sườn.
1. Gãy xương sườn về mặt giải phẫu bệnh: Chủ yếu ở người có bệnh ở
xương và những u xương.
2. Gãy xương sườn do quá trình điều trị (thầy thuốc gây nên) trong cấp
cứu bệnh tim mạch ( CPR = Cardio Palmonary Resucciation), bệnh nhân
có thể bị gãy xương sườn phức tạp hoặc gãy xương ức, gây chảy máu


trung thất và tràn khí màng phổi (hậu quả bóp tim ngoài lồng ngực). Ở
những người trung niên vì trong tình trạng suy nhược cơ thể mạn tính
hoặc suy dinh dưỡng, xương sườn mỏng manh dễ bị gãy khi bị áp lực đè
lên mức tối thiểu hoặc do bạo lực tác động mạnh vào vùng ngực. Những
xương sườn bị gãy thường từ 1 đến xương sườn 6, gãy nhiều ở bên trái
nhiều hơn bên phải và hoặc là cạnh bên - trước hoặc phía trước.
3. Gãy xương sườn do nguyên nhân bạo lực trực tiếp.
Nó phụ thuộc vào vị trí tác động, nó vào một hoặc nhiều xương sườn có
thể bị gãy. Nếu tác động mạnh vào vùng ngực, xương sườn gãy có thể
đụng dập nhu mô phổi hoặc đầu sắc nhọn của xương sườn đâm vào màng
phổi, rách màng phổi, phổi hoacự tim, hậu quả gây chảy máu màng phổi
hoặc đông máu khoang ngực. Gãy ở 3 xương sườn trên thường gây chấn
thương trầm trọng tới khí phế quản với những mạch máu lớn phần trên,
trước của ngực, mặt khác gãy xương sườn 10 đến 12 có thể liên quan đến
chấn thương cơ hoành, gan và lách.
4. gãy xương sườn do nguyên nhân bạo lực gián tiếp.
Trường hợp do bạo lực gián tiếp, gây chấn thương trầm trọng theo hướng
trước sau ( từ trước ra sau), áp lực tác động vào vùng ngực như nguyên
nhân do ngã từ cao hoặc xe ôtô đè qua ngực, thường xương sườn bị gãy
cung bên, nếu áp lực ép từ phía sau ra phía trước, xương sườn có thể gãy
vùng gần cột sống, nếu vị trí vùng giữa gần sau ngực thì chấn thương gần
cột sống và xương ức. Cạnh sắc nhọn của vùng gãy có thể làm rách màng
phổi, phổi và tim.
- Gãy phức tạp của xương sườn gồm:
. Ngực di động (mảng sườn di động).
. Rách mạch máu trung thất và chảy máu màng phổi.
. Rách phổi với tràn khí màng phổi.
. Thương tích thấu tim.
. Viêm màng phổi, viêm mủ màng phổi, viêm phổi.
Xương ức

Chấn thương xương ức hoặc có thể do thầy thuốc trong khi làm (bóp tim
ngoài lồng ngực) hoặc do hậu quả trực tiếp do bạo lực gây nên. Khi gãy
thường gãy ngang và xảy ra phần lớn tại vùng thân xương. Nguyên nhan
gãy thường do tác động trực tiếp ở phía trước ngực như tai nạn giao
thông bị xe đè qua, ở một số người như vận động viên bơi lội khi nhảy
xuống nước bị đập ngực mạnh xuống mặt nước hoặc do lực đè ép theo
hướng trước sau như giẫm, xéo vào ngực ở một số phạm nhân ở nước ta
(Hoả Lò). Gãy xương ức với thứ phát trong CPR (Cardio Palmonary
Resucciation),.thường xảy ra ở mức độ và gãy tương? ứng xương sườn 3
hoặc 4.
Tim
Chấn thương do vật tày vào vùng ngực, có thể sinh ra hình vòng cung và
đe doạ cuộc sống hoặc là chết do chấn thương tim từ sự chấn động của
sóng nổ tới đụng dập tim rồi dập - vỡ tim.
Lan truyền chấn động.
Chết đột ngột do ngừng tim một cách đột ngột, do vật tày, không va đập
trực tiếp vào vùng ngực có thể với quả tim bình thường và không xảy ra
do cấu trúc tim có tổn thương trước ( bệnh tim), chấn thương này thường
hiếm. Phần lớn được báo cáo liên quan đến thể thao và điền kinh ở những
vận động viên. Người ta đã mô tả khi đá bóng bị đập vào ngực, một cú đá
Karate vào ngực.v.v..sau đó nạn nhân bị hôn mê tức khắc hoặc hôn mê
chậm. Chứng minh sự tác động khi không thấy xuất hiện của trường hợp
cụ thể (đạt 50%0. Điểm tác động xuất hiện chủ yếu ở phía bên trái của
ngực. Những trường hợp chết xảy ra, nguyên nhân chủ yếu do tác động
đột ngột làm rung tâm thất, tác động của vật tày, trước những tác động
xấu của sự dẫn truyền dòng điện khi sự tác động vào tâm thất (điện thần
kinh tự động – Ketflac – Tawara).v.v..Sự tác động ngược hoặc đỉnh cao
của sóng T (trong điện tim), xoa bóp tim ngoài lồng ngực, kể cả nếu thực
hiện tức thì hoặc trong một giai đoạn, những xuất hiện không hiệu quả.
Điều này ngay cả khi thực hiện bằng thí nghiệm khi xoa bóp tim ngoài

lồng ngực trên động vật.
Những chấn thương va cấu trúc tim.
Sự va đập mạnh của vật có khối lượng lớn vào phía trươc ngực gây rách
vỡ màng ngoài tim. Những rách này hầu hết có sự khác nhau với chấn
thương của tim hoặc những mạch máu lớn. Quả tim được bảo vệ phía
trước bởi xương ức và xương sườn, nó được chặn lại ở bên trong bởi bao
tim, động mạch chủ, động mạch phổi và tĩnh mạch chủ. Phần trước hoặc
mặt trước của tim được hình thành chủ yếu tâm thất phải và hẹp hơn là
tâm thất trái. Những chấn thương của tim nguyên nhân trầm trọng do lực
mạnh trực tiếp vào phần trước của ngực. Những chấn thương tự nhiên
phụ thuộc vào sự trầm trọng của tác động mạnh trực tiếp vào vị trí bị tác
động mạnh, sự tác động này vào tim khi tim đang đẩy máu, tác động này
do đè ấn hoặc đập vào vùng tim giữa xương ức và cột sống. Chấn thương
của tim thường liên quan với chấn thương của cấu trúc các cơ quan khác
trong lồng ngực. Thương tích do vật tày vào vùng ngực thường nguyên
nhân do tai nạn giao thông. Thường lái xe hay gặp những chấn thương
này, khi bị tai nạn, Vô lăng đập vào vùng ngực, còn người ngồi cạnh lái
xe thì ngực bị đập vào thiết bị trong cabin. Túi khí và dây an toàn chằng
qua vai, nó có tác dụng tốt, hoặc che chắn để phòng ngừa hoặc chỉ chấn
thương tối thiểu.
Tại vị trí bị lực tác động mạnh vào vùng ngực, có thể là nguyên nhân gây
nên đụng dập của phần trước thành ngực của tâm thất hoặc bên trong
thành của tâm thất. Chảy máu có thể xảy ra do hệ thống dẫn truyền gây
hậu quả rối loạn nhịp tim. Gây nên tình trạng xấu, ở những vùng máu
chảy ra màu đỏ tối. Nhưng đây không phải là nhồi máu cơ tim cấp tính.
Nếu vị trí bị tác động mạnh vào ngực của lái xe , quả tim nằm giữa cột
sống ngực và gây đụng dập theo hường trước sau của ngực, gây hậu quả
tổn thương tâm thất hoặc bên trong thành của tâm thất thì có thể là hậu
quả nhồi máu cơ tim cấp. Sự đụng dập thành sau của tim, nó không gây
rối loạn mà có màu xám đen của sau chết, sự thay đổi thường thấy trên bề

mặt phía sau của tâm thất. Nghiên cứu vi thể của những nơi đụng dập
trước chết nó liên quan tới chảy máu khe kẽ vị trí bị đụng dập và chấn
thương những sợi cơ tim. Với những tế bào bị chấn thương, có sự thay
đổi trên điện tim (EKG) và tế bào giải phóng các Enzymes (như
Troponin)Chấn thương tim không gặp nhiều , nó có sự khác nhau như
những chấn thương do thầy thuốc gây nên trong hồi sức cấp cứu CPR,
gây chấn thương bên trong của tim, đặc biệt là bệnh nhân được cấp cứu
trong thời gian dài. Cơ tim bị đụng dập ít thường tốt mà không có di
chứng nào hoặc những chấn thương vẫn còn. Hiếm gặp gây biến chứng
hoại tử với chấn thương dập – rách màng ngoài tim vài ngày sau chấn
thương. Nó có thể vẫn hồi phục với tình trạng xơ hoá của đụng dập cơ
tim và hiếm sự hình thành bị phồng dãn. Kille và cộng sự đã báo cáo một
trường hợp sau chấn thương giả phòng buồng thất trái. Họ đã thu gom
được trên 12 trường hợp từ tham khảo qua y văn ( Nghiên cứu khoa học).
Những phức tạp của rối loạn nhịp tim, suy tim và tắc mạch.
Rách, vỡ tim xảy ra chủ yếu khi sự va đập với lực rất mạnh vào phía
trước của ngực. Chúng có thể gây tổn thương một hay nhiều vùng của
tim đó là tâm nhĩ bên trong vách tâm nhĩ, các nhú của cơ tim, dây chằng -
cột cơ hoặc van tim. Rách - vỡ tim thường hiếm xảy ra như là chấn
thương riêng (F:5.1; T:121). Đa số thường kèm những chấn thương trầm
trọng khác ở vùng ngực. Như vậy suy tim sẽ xảy ra nhanh chóng, bất cứ
khi nào, van tim, dây chằng, cột cơ hoặc những nhú của cơ tim đã bị
rách. Bolooki và cộng sự đã báo cáo hai trường hợp bị chấn thương vách
tâm thất hậu quả sau chấn thương trầm trọng tại vùng ngực, họ đã chú ý
thấy rằng nguyên nhân của chấn thương do vật tày vào vùng ngực và
chấn thương trực tiếp tác động vùng tim nhiều hơn do tác động bởi
truyền lực vào tim (trừ khi xe đâm - đổ…).
Năm 1971 Símon đã mô tả hội chứng “ Cằm – xương ức – Tim”. Hội
chứng này được hiểu rằng con người nhảy dù đã được bảo vệ bằng các
dụng cụ bảo hiểm, khi này việc sử dụng không thể đầy đủ hoặc phần

chưa tốt của dù. Gây chấn thương tim, chấn thương phức tạp ở tâm nhĩ và
gây rách cơ tim do có sự liên quan tới đè ép xương ức do bị tác dộng
cùng vùng cằm và rách da vùng cằm. Một trong những tác giả (DJD) cho
rằng triệu chứng của cá thể giống như khi chấn thương ngã cầu thang,
chấn thương trầm trọng tới vùng cổ. Những chấn thương vùng cằm, áp
lực nén ép hoặc gãy xương ức, tim vùng tuỷ cổ kèm với chấn thương cả

×