Thị trường tiền tệ
Nếu quan sát những diễn biến của thị trường tiền tệ trong thời
gian qua sẽ thấy hai sự can thiệp trái chiều rất đáng chú ý của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bài viết của chuyên gia kinh tế
Huỳnh Thế Du, giảng viên Chương trình giảng dạy kinh tế
Fulbright Việt Nam.
Một mặt, tung tiền đồng ra để mua vào Đôla; nhưng mặt khác,
tăng gấp đôi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc để thu hồi lại lượng tiền đã tung
ra.
Tại sao Ngân hàng Nhà nước lại có những động thái như vậy và
điều này tác động như thế nào đến nền kinh tế là vấn đề mà bài
viết muốn lý giải phần nào.
Mua vào Đôla, việc phải làm!
Khác với những năm trước đây, trong năm 2007, mục tiêu duy trì
mức giảm giá đồng tiền một vài phần trăm, tạo điều kiện thuận lợi
cho xuất khẩu trở nên khó khăn hơn khi mà lượng ngoại tệ chảy
vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ do sự bùng nổ của thị trường
chứng khoán và các dòng vốn khác được khai thông tốt hơn.
Đồng Việt Nam không những không giảm mà còn có dấu hiệu
tăng giá so với đồng Đôla, gây bất lợi cho xuất khẩu. Thêm vào
đó, nhập khẩu trong quí 1 lại tăng đột biến (cho dù chủ yếu là
nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cho sản xuất) đã
làm cho thâm hụt cán cân ngoại thương trở nên trầm trọng hơn.
Đứng trước áp lực nêu trên, cộng với việc mong muốn gia tăng
số lượng ngoại tệ dự trữ phòng khi bất trắc xảy ra, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã tung tiền đồng để mua vào một lượng lớn
ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, chỉ trong quí
1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỷ Đôla, tương
đương với gần 50.000 tỷ đồng được đưa vào lưu thông.
Có lẽ nhờ việc mua vào ngoại tệ mà trong những ngày đầu tháng
6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Đôla đã tăng trở lại lên
mức trên 16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian
trước.
Tăng dự trữ bắt buộc, việc nên làm?
Việc gia tăng ngoại tệ cho dự trữ quốc gia là điều cần thiết,
nhưng việc bơm thêm một lượng lớn tiền đồng vào nền kinh tế sẽ
làm áp lực lạm phát gia tăng, khi mà mới năm tháng đầu năm chỉ
số giá tiêu dùng trong nước đã tăng 7,3% so với cùng kỳ năm
ngoái (WB 2007).
Điều này làm cho mục tiêu khống chế mức tăng giá trong năm
2007 ở con số 6,5% trở nên khó khăn hơn. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước đang gặp
thử thách.
Để giảm bớt áp lực gia tăng của chỉ số giá trong thời gian còn lại
của năm 2007, chỉ có cách rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế. Tăng
dự trữ bắt buộc là giải pháp được lựa chọn.
Với việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng đồng Việt Nam
từ 5% lên 10% thì theo ước tính sẽ có khoảng 40.000-50.000 tỷ
đồng, tương đương với số tiền bỏ ra để mua 3 tỷ Đôla nêu trên,
quay trở lại kho của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy, với hai biện pháp can thiệp được đưa ra, ít nhất ba mục
tiêu đã đạt được gồm: đảm bảo mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng
được lượng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng lại không gây áp lực
lạm phát vì tiền chảy vào đã được đem cất trong "két" nên chẳng
có điều gì xảy ra cả!
Gói chính sách vẹn toàn?
Để đảm bảo mục tiêu của mình, Ngân hàng Nhà nước đã thực
hiện giải pháp tương đối đơn giản là đem cất bớt tiền. Tuy nhiên,
việc cất bớt tiền ở thời điểm hiện nay có vẻ không hợp lý lắm.
Điều này có thể giải thích bởi những do dưới đây.
Thứ nhất, tuy các ngân hàng có vẻ dư thừa nguồn vốn trong
những tháng đầu năm 2007, nhưng có lẽ bây giờ là thời điểm nền
kinh tế sẽ hấp thụ một lượng vốn lớn khi mà những thuận lợi có
được từ việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
bắt đầu được phát huy.
Nhiều dự án, công trình đang chờ vốn, nhiều doanh nghiệp đang
cần vốn để gia tăng hoạt động kinh doanh. Nếu tăng dự trữ bắt
buộc lúc này, không những làm cho chi phí đầu ra của ngân hàng
và doanh nghiệp gia tăng mà sự khan hiếm vốn cũng có thể xảy
ra và sẽ đẩy các ngân hàng vào một cuộc đua lãi suất mới gây
bất lợi cho nền kinh tế.
Thứ hai, nếu Việt Nam đang thừa tiền như vậy thì liệu có cần
triển khai kế hoạch phát hành thêm 1 tỷ Đôla trái phiếu quốc tế
trong thời gian tới và trong trường hợp phát hành thì Ngân hàng