Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài giảng: điều tra sự chết do quá trình điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.29 KB, 10 trang )

ĐIỀU TRA SỰ CHẾT DO QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ
Phạm vi của chương:
• Xác định.
• Điều tra.
• Phân loại và khám nghiệm tử thi do - hoặc có quan hệ tới điều trị.
• Chẩn đoán và qui trình điều trị.
1. Mục tiêu của điều tra:
Việc hỗ trợ cho điều tra trong việc trả lời câu hỏi “quá trình chẩn đoán hoặc nguyên
do điều trị hoặc yếu tố góp phần nên cái chết của bệnh nhân ?” Từ khi tiến hành
thường bị nghi ngờ trong phạm vi rộng của hành động có ái tính với hoạt động thần
kinh như người kiểm tra về y học.
2. Phân loại quá trình điều trị có thể đã liên quan tới cái chết:
Bộ khung hữu dụng cho việc xem xét sự liên quan tới chẩn đoán hoặc điều
trị theo mô hình sau:
- Chụp mạch vành, não, động mạch chủ.
- Tiêm thuốc màu và thực nghiệm những nghiên cứu. Thí dụ: Chụp tĩnh
mạch đài bể thận, làm tuỷ đồ, chụp CT Scanner.
- Trích thủ tổ chức. Thí dụ: gan, thận, phổi, tuỵ, sau phúc mạc.
- Quá trình nội soi.
3. Quá trình điều trị:
- Ngoại khoa: những phức tạp trong quá trình điều trị như: Cắt bỏ túi mật,
nong cổ tử cung, niệu đạo, nạo (thai), cắt bỏ tử cung, làm hậu môn nhân tạo, cắt bỏ
phổi, phẫu thuật phồng động mạch chủ, cắt cụt chi, nối mạch máu, bắc cầu động
mạch vành.
- Tắc nghẽn – thí dụ: Tắc mạch phổi phức tạp sau phẫu thuật ngoại khoa, tắc
mạch ối trong sản khoa.
- Gây mê, tê toàn thể hoặc từng vùng (bao gồm tuỷ sống, ngoài màng cứng),
sốt cao.
- Quá trình điều trị: bao gồm truyền máu, uống thuốc, tạo hình mạch máu,
huyết khối mạch vành, huyết khối độ 4.
- Sốc điện.


4. Quá trình điều trị duy trì (hỗ trợ):
Trang 1
- Mở thông khí quản.
- Ngăn cản sự giãy giụa của bệnh nhân: trên giường hoặc trên ghế.
- Cho ăn bằng sonde.
- Quan sát để ngăn ngừa tự tử (bệnh nhân tâm thần, ung thư…)
- Việc tìm hiểu về nguyên do bao gồm sự phát ngôn vể những câu hỏi lý do
của cái chết trong quá trình điều trị, những yếu tố cần thiết sau:
- Xác định nhanh chóng về cái chết.
- Điều tra hoàn cảnh của cái chết.
Điều này bao gồm: Tài liệu và xây dựng hiện trường khi cần thiết và có thể;
Những câu hỏi của những nhân viên xuất hiện trong khi bệnh nhân bị hôn mê hoặc
bị ngừng tim; những hồ sơ phân tích của y học; kiểm tra toàn diện và xét nghiệm
những thiết bị nào đó được sử dụng cho bệnh nhân. Đặc biệt ý kiến trao đổi và nội
dung những xét nghiệm khi còn sống.
- Khám nghiệm Y pháp và những xét nghiệm phù hợp.
5. Xác định:
Tai nạn, ngay cả những điều không ngờ, không dự đoán trước và/ hoặc
không được nhìn thấy trước.
Rủi ro trong điều trị: Sự ngẫu nhiên ngòai phạm vi của quá trình điều trị.
Điều này được nhận thức rủi ro của cá biệt trong điều trị hoặc chăm sóc y tế. “Điều
này có hàm ý thiên về sự giải thích sai như là hàm ý mang tính cẩu thả và cần phải
tránh”.
- Chết trước khi phẫu thuật: Chết xảy ra trong khoảng thời gian nào đó trong
khi dùng thuốc trước khi phẫu thuật cho đến khi phát hiện do có thuốc mê.
- Chết do gây mê: Chết xảy ra trong khi bệnh nhân bị ảnh hưởng do thuốc
mê. Điều này bao gồm trước hoặc sau khi phẫu thuật.
6. Xác định trường hợp nhiều nạn nhân:
Khi sự tiến hành của những nhân viên y tế được hiểu rằng việc bảo vệ tốt
nhất chống lại sự đòi hỏi không có sự bao biện hoàn toàn về nghề nghiệp điều tra về

cái chết, họ có thể báo cáo nhanh chóng toàn bộ những cái chết đó có thể liên quan
tới việc chẩn đoán hoặc điều trị hoặc kiểm tra điều trị.
Chắc chắn thẩm phán như Maryland (địa phương) yêu cầu giải thích về cái
chết của bệnh nhân trong khi bệnh nhân được gây mê mà đã được gây mê mà đã
được giám định y pháp xác định. Mặt khác không phải là đặc biệt về sự tiêm chích
của họ của nhiều trường hợp, nhưng trong thực tế, toàn bộ yêu cầu của toà án bao
gồm thể loại báo cáo về những cái chết bị nghi ngờ hoặc bản chất còn tiềm ẩn.
Trang 2
Việc giám định phải sử dụng bằng moi cố gắng và cơ hội chắc chắn rằng
những nhân viên y tế và những thực hiên bằng kiến thức rộng về luật pháp cho việc
báo cáo về những trường hợp chết và cần phải có sự phối hợp.
Sự phối hợp như vậy sẽ dễ dàng trong việc điều tra và đảm bảo chắc chắn
rằng hồ sơ của bệnh nhân được sẵn sàng sử dụng để nghiên cứu. Người điều tra trở
lại sẽ chụp toàn bộ hoặc phần phù hợp của hồ sơ. Sự chụp này sẽ được giữ cùng với
hình thái bí mật trong công việc điều tra.
Những nhân viên y tế sẽ được chỉ dẫn chuyển toàn bộ thiết bị và dụng cụ
điều trị tại nơi điều trị mà bệnh nhân bị chết phù hợp với việc điều tra.
Việc giữ gìn hiện trường khi bệnh nhân còn sống phù hợp với việc xác định
cơ chế của cái chết. Thí dụ: bệnh nhân nữ còn trẻ bị chết, người đã phải chịu đựng
một sự lựa chọn về quá trình điều trị phụ khoa, việc điều tra kể cả phòng mổ để xác
định rằng dây nối oxy đã bị hỏng và hậu quả cô ta bị ngừng tim và chết.
7. Điều tra một trường hợp :
Tái dựng hiện trường:
Khi có thể, cái chết của nạn nhân sẽ được kiểm tra “tại hiện trường” nơi
bệnh nhân bị chết, như vậy có điều kiện khoanh vùng tức thì vùng cần xác định và
tài liệu. Tuy nhên trong nhiều trường hợp cố gắng tối đa để cứu sống bệnh nhân sẽ
làm thay đổi hiện trường. Điều này không thể ngăn cản được điều tra để thu thập
toàn bộ những thông tin có thể sử dụng được và cho phép có độ tin cậy để tái dựng
lại hiện trường nạn nhân đã bị chết.
8. Những lời khai của nhân chứng:

Việc xác định những nhân viên có mặt trong thời gian tai nạn trong cơn nguy
kịch có giá trị được viết trên hồ sơ là những bước đi dễ dàng cho cuộc điều tra.
Điều này không phải ngẫu nhiên về sự hiện diện của luật pháp trong việc cố gắng
vượt qua những cản trở trong điều tra và cung cấp thông tin không chỉ cho người
giám sát mà cho các nhà điều tra. Những thông tin gây nhiễu không thể chấp nhận
được, điều này cần có sự chú ý của nhà chức trách địa phương, nếu chấp nhận
được, điều này cần có sự chú ý của nhà chức trách địa phương, nếu thấy cần thiết.
Thông tin đầu tiên từ nhân chứng là chủ yếu khi được phỏng vấn và các tài liệu đã
được ghi chép về những điều kiện của bệnh nhân.
Về tài liệu trạng thái lâm sàng của bệnh nhân, thông tin quan trọng từ phía
gia đình sẽ là những bằng cứ quan trọng. Chúng có thể cung cấp về những thay đổi
điều kiện của bệnh nhân trong những thay đổi khác nhau từ những biểu đồ được ghi
nhận của bệnh viện. Chúng là những thông tin của gia đình như về những nguồn
gốc tăng cảm ứng như đã dùng thuốc dãn cơ hoặc kháng sinh sốc thuốc.
Trang 3
9. Xem xét những hồ sơ của bệnh viện:
Những hồ sơ y tế có thể phản ánh những vấn đề trầm trọng trong trường hợp
của bệnh nhân như tụt huyết áp đột ngột khi làm kỹ thuật thông tim, đau do tiêm
thuốc màu để chụp mạch máu, những vấn đề đông máu sau khi truyền máu không
phù hợp, số lượng máu bị mất trong quá trình phẫu thuật ngoại khoa hoặc trường
hợp đã được cảnh báo về nguy cơ tự tử của bệnh nhân.
X-quang hoặc những nghiên cứu khác có thể để làm sáng tỏ về điều kiện lâm
sàng của bệnh nhân trước khi tử vong, tất cả vấn đề trên cần phải xem xét lại bởi
những người kiểm tra về y tế.
10. Những vấn đề bàn bạc đặc biệt:
Trong một số trường hợp khi mà y học, ngoại khoa hoặc những tài liệu về
gây mê gặp khó khăn “trong việc giải thích, giúp đỡ của các chuyên gia”, vấn đề
trao đổi của thanh tra y tế đang tìm kiếm.
Khi những câu hỏi đánh giá về kỹ thuật, trang thiết bị tăng lên, sự hỗ trợ của
những tác nhân như những dụng cụ y tế và những báo cáo về kết quả của phòng xét

nghiệm, những chế độ về dinh dưỡng, quản lý thuốc hoặc những tổ chức xã hội
hoặc những hiệp hội quốc gia của thanh tra y tế. vv… Nếu đội ngũ cán bộ có chất
lượng về nghiệp vụ là vị trí của địa phương kiểm tra về trang thiết bị và sai sót của
nó, điều này phải thực hiện tức thì. Nếu không có những người như vậy, cần có sự
điều động từ nơi khác đến để bổ sung.
11. Khám nghiệm:
Khám nghiệm y pháp sẽ phục vụ cho tài liệu để chứng minh công tác điều
trị, bao gồm những ống nghiệm, sonde, những vết trích rạch như là hậu quả không
bình thường của quá trình điều trị. Những tài liệu đó cùng với những thay đổi về
giải phẫu bệnh, độc chất và những kết quả vi thể, sẽ cho phép để củng cố hoặc biện
luận của chẩn đoán, cũng như việc xác định những yếu tố, bao gồm những yếu tố
khác dẫn tới tử vong. Việc khám nghiệm phải toàn diện và đặc biệt những công bố
về các câu hỏi tăng lên bởi những khía cạnh trong quá trình điều trị. Việc kiểm tra
tổ chức não sẽ là tài liệu để chứng minh sự nguy hiểm của thiếu oxy não, đó là hậu
quả của sự tắc nghẽn được thông khí hoặc một vài điều khiện tự nhiên khác do
ngừng tim.
Cẩn thận các lớp cấu trúc ở vùng cổ, hệ mạch ở phía sâu là cần thiết để đánh
giá về sự xuất hiện hoặc thiếu của chấn thương trong đường dẫn khí có thể đã xảy
ra trong khi đặt nội khí quản để gây mê cho bệnh nhân hoặc từ nguyên nhân bên
ngoài như khi nằm trên giường lò xo.
Trang 4
Nếu những mạch lớn bị dãn và thoát mạch trong những trường hợp chẩn
đoán hoặc quá trình điều trị cần thận trọng kiểm tra hiện tượng tắc mạch khí xuât
hiện (trước khi khám nghiệm cần chụp X-quang ngực trái (kể cả phải) và cần kiểm
tra màng ngoài tim xem có tắc mạch khí không? Điều này yêu cầu cho phép đo
được lượng khí xuất hiện bằng dung cụ riêng.
Nếu chứng minh sự tác hại đặc biệt của các phủ tạng thì cần phải xác định
bằng việc khám nghiệm, chẳng hạn như những chấn thương thì cần phải chụp ảnh
cho tài liệu. Tiêu chuẩn cho những mẫu xét nghiệm phủ tạng như những mảnh nhỏ
tổ chức của những chấn thương, sẽ được kiểm tra bằng vi thể. Đánh giá sự hoạt

động của tế bào có thể giúp chứng minh về thời gian thủng cuả dạ dầy hoặc ruột
hoặc bắt đầu bị chấn thương chảy máu.
Nếu bệnh nhân được truyền dịch, như truyền máu sẽ có khả năng xa hơn là
không phù hợp.
Chứng minh sự tác hại với cấu trúc cơ thể như chảy máu dưới phúc mạc do
sinh thiết phức tạp ở gan, sau đó phải chụp ảnh. Trong việc khám nghiệm, nhà giải
phẫu bệnh đã có cơ hội tái dựng điều tra chắc chắn khi xảy ra. Thí dụ khi người
bệnh bị liệt, đã được đặt nội khí quản trong khi khám nghiệm và nó giống như đặt
nhầm vào thực quản, cho phép xác định về cơ chế nó làm dãn và cản trở đường hô
hấp. Qua đây thấy rằng yếu tố cơ học khi bơm và nó là thành phần chủ yếu của cơ
chế gây nên chết.
Nếu tác nhân của thuốc mê bị nghi ngờ đã là nguyên nhân trực tiếp gây chết,
gián tiếp hoặc sử dụng quá mức, với số lượng sau cho mỗi loại gồm:
- Máu: 30cc
- Nước tiểu: 50cc (xét nghiệm về màu cơ)
- Dịch kính nhiều.
- Một thận.
- 100gr gan.
- 100 gr tổ chức não.
- Một phổi – còn nguyên khí quản.
- Dịch não tủy ( vùng tủy sống hoặc vùng đã gây mê ngoài màng cứng)
Những mẫu xét nghiệm sẽ được gửi tới phòng xét nghiệm đôc chất có khả năng
thực hiện về chất lượng của xét nghiệm để đánh giá toàn bộ những tác nhân của quá
trình quy tụ, bao gồm những chất khác gây mê dễ bay hơi.
Việc xử dụng dụng cụ đựng bằng thủy tinh, nếu những chất nghi ngờ dễ bị
khếch tán qua túi bằng plastic. Nếu những xét nghiệm không thực hiện được tức thì,
những mẫu này cần được bảo quản và lưu trữ trong điều kện thích hợp ở tủ lạnh cho
đến khi xét nghiệm được thực hiện.
Trang 5

×