Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Bài giảng: độc chất học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.03 KB, 33 trang )

CHƯƠNG IV
ĐỘC CHẤT HỌC
PGS.TS. Đinh Gia Đức - Trưởng Bộ môn Pháp y, ĐH YHN
Phó giám định viên trưởng pháp y TW - Bộ Y tế
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỘC CHẤT HỌC:
Nguyên tắc chung: Những độc chất và đầu độc.
+ Chất độc là chất tác động trong cơ thể con người về mặt hóa học, sinh lý,
nguyên nhân trong liều độc nhất định, gây rối loạn chức năng, nó có thể gây nên
ốm hoặc chết. Trong thực tế (như muối natri) không có tác dụng trong điều trị
cũng không phải là nguyên nhân, nhưng gây độc nếu số lượng sử dụng vượt quá
hoặc nó có sẵn trong cơ thể. Nguyên nhân của trúng độc có thể như: tai nạn, án
mạng, tự tử, tự điều trị (phá thai), Iatrogenic.
Phạm trù cuối cùng, thầy thuốc có thể liên quan trong vài trường hợp nào
đó do thiếu thông tin về bệnh nhân. Thí dụ có thể đã được nhắc lại về sự thất bại
trong việc sử dụng thuốc gián đoạn với hiệu quả của những yếu tố phụ.
Những chất sử dụng gây độc sau:
1. Những chất độc trong gia đình: Những chất tẩy rửa, chất tẩy uế, những chất
để cọ rửa, chất đánh bóng và một số chất khác.
2. Những chất độc từ làm vườn hoặc nông nghiệp: thuốc trừ sâu, diệt côn trùng.
3. Bảo quản thức ăn và những chất phụ gia.
4. Những tác nhân trong điều trị: thuốc và những chất gây nghiện cả hai đã
được mua và phát hiện ở gia đình.
5. Những phòng xét nghiệm, cơ sở thương mại, trường học hoặc những tác
nhân khác.
Chất độc có thể vào cơ thể bằng đường tiêu hóa, hít phải, hấp thụ qua
đường tiếp xúc hoặc vùng da bị tổn thương hoặc đường tiêm, ngấm vào đường
âm đạo, trực tràng hoặc bàng quang. Sự tác động nhanh phụ thuộc vào phương
pháp trong sự điều chỉnh và cũng có thể do tuổi, do hệ tim mạch, người trẻ, già
hoặc người đang ốm sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn người khỏe. Những hợp chất
thông thường không độc như nước có thể gây độc nếu có số lượng lớn mà cơ thể
1


không dung nạp được. Đây là khía cạnh quan trọng để cân nhắc, để đánh giá tiền
sử lâm sàng và quá trình trong mỗi trường hợp.
Bệnh xảy ra có thể từ sự thay đổi do mức độ của chất độc... một người bị
thay đổi do xơ vữa hệ mạch vành việc trao đổi oxy kém, nguyên nhân gây thiếu
máu hơn người bệnh khác không bị bệnh mạch vành. Ở người khác nhau trong
sự tác động của chất độc, những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối hoặc nghiện
ma túy nó tạo nên sự khủng khiếp về sự dung nạp opium và cần tới liều lượng
có thể giết chết người bình thường. Những yếu tố khác như sự mẫn cảm hoặc sự
phát triển của thuốc, chống dị ứng, một khía cạnh khác về chất độc chứa trong
chúng, những sự xuất hiện gây ảnh hưởng đặc biệt tới từng cá thể. Tuy nhiên
nhiều tác động bình thường nó nằm trong quĩ đạo Y pháp, nhiệm vụ của họ là
phải hỗ trợ điều tra toàn bộ những cái chết do không phải là chết tự nhiên, chúng
có thể do thuốc, những chất trong công nghiệp tạo nên chất độc gây nên tai nạn
hoặc tự tử.
1.1. Những nguyên tắc chung trong điều trị khi trúng độc:
Điều trị chống độc là một qui trình trong lâm sàng và toàn bộ những vấn
đề trong các trường hợp của lâm sàng. Mặc dù đã được nhấn mạnh, điều này
không có nghĩa rằng trong nhiều trường hợp bằng con đường cúng bái để thay
thế. Có nhiều trường hợp về những vội vã trong sự điều hành nguyên nhân về
thuốc giải độc nguy hiểm hơn là sự nguy hiểm của chất độc, thí dụ chất alkali
được dùng để rửa bên ngoài đã bị bắn (tung tóe) vào mắt với nó là chất axit yếu.
Tại trung tâm chống độc đã giới thiệu về việc đánh giá trong nhiều trường hợp,
khi được thông báo trong chương trình phát thanh, truyền hình về nhiễm độc do
đồ ăn uống không được ghi nhãn mác hoặc những câu hỏi đặt ra về trong thực
phẩm đó có chất độc nào đó hoặc khi biểu hiện lâm sàng không chắc chắn để mà
có phương pháp điều trị đặc biệt. Về khía cạnh khác, đây là vấn đề quan trọng
để tránh khi sử dụng trong những trường hợp phát hiện thấy những dạng viên
nén ở gần bệnh nhân cùng với việc mà bệnh nhân đã sử dụng. Thường nó ít
được sử dụng như ma túy được dùng thường xuyên. Điều này được nhấn mạnh
nhiều trong thực tế rằng toàn bộ những điều trị ban đầu, phải dựa vào triệu

chứng, mục tiêu về xu hướng của bệnh nhân vượt qua tình trạng cấp tính.
Cơ sở những nguyên tắc cơ bản được áp dụng trong cấp cứu bệnh nhân
nhiễm độc:
1. Phải duy trì đường thông khí sạch sẽ (hút đờm, dãi,...), thuốc trợ tim.
2
2. Hỗ trợ hô hấp và thở ôxy.
3. Điều trị giảm đau và chống sốc.
4. An thần và chống co giật.
5. Chuyển bệnh nhân đến bệnh viện để điều trị; đây là biện pháp tối ưu để
bệnh nhân được rửa dạ dày, điều trị trong điều kiện tối ưu. “Không được
quên về việc cung cấp thông tin về bệnh nhân có thể dùng được trong cấp
cứu”, ví dụ bệnh nhân tự tử bằng thuốc ngủ...
Tại nơi đón tiếp bệnh nhân tại bệnh viện; Mặc dù có nhiều nguyên tắc áp
dụng, sau đó có thể sử dụng phương pháp như đặt nội khí quản, tạo nên sự thông
khí và hỗ trợ tim.
Điều rõ ràng trong lâm sàng, phần lớn những trường hợp đang trong tình
trạng suy sụp từ những nhóm triệu chứng chắn chắn như hôn mê, co giật, thần
kinh bị kích động. Nguyên nhân do bị trúng độc “phải khám lâm sàng toàn diện,
không được bỏ sót” bởi vì chất độc có thể tạo nên sự mẩn đỏ và có thể là nguyên
nhân, quá trình của một số bệnh. Với nguyên nhân này, phải sớm cấp cứu ngay
lập tức, vì nó là được chẩn đoán tình trạng cấp tính. Điều này nếu nguyên do
“trúng độc” bằng đường ăn uống, phải rửa dạ dày, trừ khi chất ăn mòn (bỏng) tại
mồm. Đó luôn luôn là những ý kiến mâu thuẫn về có sự nguy hiểm với qui trình
này, nhưng trong vấn đề chung, việc thực hiện phải chuẩn bị một cách cẩn thận,
sự rủi ro sẽ lớn bằng sự quan sát kiểm tra chất hóa học khi rửa dạ dày (những
chất này cần giữ lại), có thể nó là những thông tin hữu ích và trong qui trình, nó
có thể làm chậm lại sự hấp thu. Điều này rất phù hợp với những trường hợp ngộ
độc aspirin, babiturate và ngộ độc rượu. Khi bệnh nhân nôn là chức năng biểu
hiện tốt, nhưng kể cả chất nôn là chất rửa dạ dày, nó chưa chắc đã phù hợp với
những chất được loại bỏ hết. Đó cũng là những kinh nghiệm chung được phát

hiện qua khám nghiệm thấy khối chất bột vùng môn vị sau khi đã rửa dạ dày.
Một qui trình sớm, chủ yếu là xét nghiệm nước tiểu, đó là công việc khẩn
trương, thông thường về kiểm tra chất hóa học bao gồm việc bổ sung của sắt III
chloride trước khi gửi mẫu đi xét nghiệm, cùng với chất chứa dạ dày hoặc chất
rửa dạ dày và máu để kiểm tra về sinh hóa (bao gồm những chất điện giải).
Cùng với việc xác định thuốc (ma túy) nào đó cũng sẽ được yêu cầu, việc này
rất quan trọng để hiểu biết về chất độc để có phương pháp điều trị phù hợp.
Trong điều trị đặc biệt, phần lớn những chất độc là giải quyết nơi nào
khác nữa, những điều đề phòng sơ đẳng đã được quan sát như là tránh chất mỡ
3
trong chế độ ăn kiêng trong những trường hợp nhiễm độc phosphorus và điều trị
phù phổi hoặc trường hợp mất nước nếu xuất hiện. Như vậy những ảnh hưởng
nào đó trong nguyên nhân để xác định sẽ phải dự đoán trước (như thận bị suy
giảm chức năng sinh hóa và dịch thể thay đổi). Những cơ hội hoặc chứa đựng
bên trong, nó có thể là dự định thay đổi bằng truyền máu hoặc chạy thận nhân
tạo, phải chú ý chứng minh bị suy thận bằng theo dõi, số nước vào và ra trong
khi đó có sự phức tạp của tim (viêm cơ tim) có thể đã được chẩn đoán qua điện
tâm đồ. Đó là quá trình phù hợp để kiểm tra chất hóa học, nó có thể lặp lại trong
máu qua phân tích. Qui trình của việc chẩn đoán phù hợp khác phải có sự tính
kỹ trong hoàn cảnh phù hợp.
1.2. Sự lựa chọn những mẫu xét nghiệm:
Những dấu hiệu về lâm sàng và những triệu chứng, toàn bộ những biểu
hiện về tiền sử bởi yêu cầu của AUTOPSIE và kiến thức về giải phẫu bệnh.
Khả năng tồn tại của một trong nhiều chất độc trong trường hợp nào đó,
trong hoàn cảnh nào đó có thể hoàn thành việc phân tích sẽ được thực hiện theo
yêu cầu. Số lượng mẫu cần xét nghiệm phải phân tích đầy đủ trong phạm vi giới
hạn số lượng những trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên cần sử dụng những kỹ thuật
hiện đại, khi có sự kết hợp và hợp tác để làm giảm những vấn đề xảy ra trong
trúng độc, cần phải có sự điều hành phù hợp. Trong khi đó các mẫu phân tích
cần phải được bảo quản trong nhiệt độ lạnh, đặc biệt các mẫu tổ chức để “bảo

quản”
Những câu hỏi chung như sau:
1. Cái gì đã thu thập được?
2. Thu thập được bao nhiêu?
3. Mẫu thu thập như thế nào?
4. Sẽ làm gì với chúng?
1.3. Đã thu thập được cái gì?
Vấn đề gì về chất tự nhiên đặc biệt (như: số lượng rượu Ethylic trong cơ
thể hoặc bệnh nhân đưa tới)? số lượng dịch trong cơ thể sử dụng được đánh giá
bằng những mẫu máu, dịch, não tủy, nước bọt, mồ hôi, nước tiểu, chất chứa dạ
dày và phân. Chất phù hợp để kiểm tra được lựa chọn trên dữ kiện, thích hợp và
có sự trao đổi với y pháp. Tuy nhiên trong những trường hợp đã được điều trị,
kể cả việc lựa chọn vị trí thu thập có thể quan trọng. Thí dụ máu được lấy ở tĩnh
4
mạch, mao mạch hoặc động mạch. Việc thu mẫu phải chính xác rõ ràng trên cơ
sở cân nhắc, trong thời gian phù hợp rất quan trọng. Ví dụ: mẫu lấy trong 24 giờ
là nước tiểu, chủ yếu với việc đánh giá thủy ngân (Hg) hoặc thời gian hôn mê
cho lần cuối của nước tiểu đối với rượu mà “lái xe sử dụng”. Nếu thông tin đã
được yêu cầu hoặc sự hấp thụ gấp bội của mẫu xét nghiệm có thể cần thiết cho
việc giải thích về giá trị thực. Sau đó trong những trường hợp mẫu ngộ độc
barbituric, những mẫu chất chứa dạ dày; máu ngoại biên, máu ở gan và nước
tiểu sẽ được hỗ trợ trong việc quyết định liều lượng tối thiểu qua đường tiêu hóa,
tuy nhiên nó đã bị hấp thu trong thời gian gây chết và loại barbiturate. Những
mẫu quan trọng khác có nguồn gốc từ thu mẫu máu để đánh giá đường huyết
(sau chết) để đánh giá sự khác nhau giữa số lượng đường trong máu của tim
phải, tim trái và do đó những mẫu hồn hợp là vô giá trị. Toàn bộ những mẫu
phân tích theo yêu cầu kiểm tra gồm những chất theo danh mục sau nó dễ bị tích
lũy 20gr cũng như 10gr, số lượng opium được lựa chọn. Trong toàn bộ những
trường hợp phải tính toán trên trọng lượng cơ thể.
1.4. Số lượng các chất cần lấy xét nghiệm:

1. Não 1/2 bán cầu (phần sau).
2. Phổi: toàn bộ 1 phổi.
3. Tim: toàn bộ tim.
4. Thận: 1/2 mỗi thận.
5. Gan: 200-300gr.
6. Bàng quang: Cả nước tiểu bên trong.
7. Dạ dày: toàn bộ dạ dày và chất chứa.
8. Ruột: Toàn bộ đoạn Segment (Sigma đại tràng).
9. Túi mật: toàn bộ và chất chứa.
10.Cơ: cơ liên sườn, cơ trơn (20gr).
11.Máu: 100ml.
Mỗi mẫu xét nghiệm phải phân biệt nguồn gốc tới những ống nghiệm
chứa phải sạch sẽ (có thể phải vô khuẩn) phải đậy kín, ghi rõ mẫu bằng những
thông tin sau:
1. Tên và số lượng chất.
5
2. Ngày tháng năm
3. Nơi lấy mẫu.
4. Tên người lấy mẫu.
5. Vài thông tin về yêu cầu kiểm tra (XN).
6. Định hướng của cấp cứu.
Mẫu được chứng minh tiếp không chỉ giao nộp, mà phải viết thành 3 bản.
Nếu gửi bằng bưu điện thì phải được ghi chép vào sổ sách. Trước khi gửi đi và
sau khi nhận, nó phải được khóa trong dụng cụ chứa.
Điều nên làm, có thể chia tách các mẫu thành hai phần trước khi kiểm tra
và giữ lại phần đã được đậy kín trong dụng cụ chứa cho lần sau nếu phải làm lại.
Trong thời gian phân tích (độc chất), phải chú ý mô tả tình trạng vật chất của
mẫu. Tất nhiên không cần nhấn mạnh công việc trên đã thực hiện. Từ khía cạnh
của giải phẫu bệnh trong việc quan sát không cần phải nhấn mạnh rằng mỗi
phần của mỗi tổ chức được cố định về tổ chức học. Những chuyên gia sẽ thực

hiện phân tích phải dựa vào văn bản autopsie để bổ sung cho quá trình phân tích.
Toàn bộ những quan sát đã thực hiện trực tiếp theo hướng mẫu bệnh
phẩm của Y pháp. Tuy nhiên về khía cạnh khác có thể phù hợp những dấu hiệu
“chẩn đoán của mẫu xét nghiệm”. Mẫu này được kiểm tra trên cơ sở đối tượng
bệnh nhân trong quá trình điều trị: Trong bệnh viện, thí dụ máu lấy từ bệnh nhân
bị hôn mê do CO hoặc máu từ hướng điều tra trong khía cạnh hướng tới ngộ độc
bán cấp.
Mặc dù sự xuất hiện khía cạnh của điều tra về lâm sàng, nó có thể liên
quan tới luật pháp, điều mà không bao giờ được phép bỏ qua, cũng như trong
nhiều hoàn cảnh, nó có thể có giá trị cho việc chứng minh hoặc xác nhận những
phát hiện do được yêu cầu sau đó. Tuy nhiên phần mẫu xét nghiệm phải giữ lại
và không được bỏ đi cho đến khi xác định chắc chắn và mẫu đó không cần thiết.
Đặc biệt có thể sử dụng chất rửa dạ dày, chất này thường có những chất hỗn tạp
của bệnh viện, mà người ta không biết về những liên quan của chất hồn tạp. Mặt
khác có những khía cạnh phù hợp của những phân tích để chẩn đoán chính xác
của những phương pháp thay đổi phù hợp với những trường hợp cấp tính. Với
bệnh nhân cũng đã có sự ưng thuận cho kiểm tra để điều trị, nhưng cũng có thể
họ không đồng ý nếu kết quả đó được chứng minh để chống lại họ và trong hoàn
cảnh này cần phải giải thích.
6
2. CHẤT ĂN MÒN:
2.1. Các chất ăn mòn:
Chất độc ăn mòn bắt đầu có hơn thế kỷ, giống như phương pháp tự phá
hủy. Một số trường hợp người đã thấy như bằng đường ăn uống acid
hydrochloric và acid sulfuric. Một số trường hợp vẫn xảy ra với chủ tâm sử dụng
chất ăn mòn mà tạt vào mặt người khác làm biến dạng bộ mặt, với chủ tâm trả
thù, những chất kích thích ăn mòn như ammonia đã bị bắn ra vào nạn nhân.
Những vụ án thường dùng acid mạnh và alkali để gây điếc, nhưng có những
trường hợp đã bị chết do hậu quả chủ tâm gây bỏng vùng mặt như thuốc giặt, tẩy
quần áo. Tuy nhiên trong thực tế do bị tai nạn khi bị vỡ các bình chứa acid hoặc

nổ tung dụng cụ chứa.
Những chất độc ăn mòn có thể chia ra 3 nhóm sau:
a. Acid khoáng: acid hydrochloric, acid sulfuric, acid nitric.
b. Acid hữu cơ: a.acetic, a.oxalic, a.citric.
c. Alkali mạnh: ammonia, soda caustic, potash caustic.
d. Phenol
1. (a) những acid tác động tại chỗ của tổ chức và sự ảnh hưởng của nó phụ
thuộc vào độ mạnh hoặc pha loãng. Chúng làm thay đổi haemoglobin tới
đông vón protein bằng hình thái acid albuminate với tổ chức bị khử nước, nó
là nguyên nhân gây đổi màu thành màu nâu hoặc đen, khi sờ nắn thấy chắc.
Nói chung, khi bằng đường tiêu hóa nó gây bỏng mồm, môi, làm “chảy
dịch” xuống cằm, mặt khác khó nuốt hoặc cảm giác buồn nôn. Điều này có thể
gây nôn dịch acid từ dạ dày.
Trong thực tế đã xuất hiện: Sau khi chết, những biểu hiện không cần thiết
vì acid mạnh còn tiếp tục tác động tiếp vào tổ chức sau một thời gian sau chết.
Tất cả mọi trường hợp sau khi uống acid gây hiện tượng đau trầm trọng
và bỏng nặng.
- Điều chú ý đặc biệt: Hỗn hợp của acid khá mạnh nó đã được sử dụng để gây
chết các tổ chức của cơ thể.
2.1.1. Hydrochloric acid (HCl):
a. Nguồn gốc: Trong công nghiệp, các phòng xét nghiệm (bao gồm cả trường
học), sử dụng trong gia đình (cọ rửa WC ).
7
b. Xuất hiện (đặc điểm): nhạt màu, dịch bốc hơi (nếu dạng màu vàng).
c. Đặc trưng lâm sàng: tính chất riêng là ăn mòn, dạng bốc hơi thì gây kích
thích. Do đó trong thực tế nó nguy hiểm thường gây tai nạn rủi ro, đặc biệt
hơi bay trong không khí gây tổn thương phức tạp hệ hô hấp, khi bốc hơi, nó
gây nên tình trạng kích thích. Tai nạn do giọt bắn vào có thể là nguyên nhân
ăn mòn - bỏng giác mạc.
d. Liều chết: Xấp xỉ 1-4 drachms (1dr = 3gr 888, đơn vị thuốc) (khoảng

4-18ml).
Chết: (4-24 giờ) do sốc, tổn thương bên trong, trong một thời gian ngắn,
muộn hơn gây tổn thương phức tạp hệ hô hấp, nếu còn sống thì bị chấn
thương chít hẹp đường hô hấp.
e. Những xuất hiện sau chết: Hoại tử hệ tiết dịch và biểu mô sẽ tạo nên sản
phẩm bẩn màu tro trắng, màu xám. Đồng thời có thể gây chấn thương thanh
quản, thực quản và dạ dày sẽ biểu hiện dày lên, chảy máu với thay đổi trong
thành phần máu, kể cả trước và sau chết.
2.1.2. Acid sulfuric (H
2
SO
4
):
(Dầu của H
2
SO
4
)
a. Nguồn gốc: Trong công nghiệp, các phòng xét nghiệm (bao gồm trường học)
accu- điện, nông nghiệp
b. Đặc điểm: nhạt màu, ít mùi, dịch nhớt
c. Liều chết: 3,5 - 7ml, tỷ lệ tử vong cao (33-36%)
Đặc trưng lâm sàng: Gây kích thích nhẹ ở phổi, khi uống vào giống như
các acid khoáng khác. Gây hậu quả bỏng trầm trọng trên da do bị tạt hoặc nổ vỡ
bình đựng bắn vào.
+ Nguyên nhân chết: Sốc, gây thủng đường hô hấp phức tạp. Muộn hơn gây teo
thực quản, dạ dày.
Những xuất hiện sau chết: quần áo cháy, thủng thành màu nâu, hoại tử
dịch thành màu nâu - đen.
+ Chết thường xảy ra trong 18-24 giờ (có thể 60 phút).

2.1.3. Ammonia (NH
3
):
8
a. Nguồn gốc: Trong công nghiệp, sử dụng trong gia đình, các phòng xét
nghiệm (bao gồm trường học) tủ lạnh.
b. Đặc điểm: Dịch có vị hăng hăng, alkaline mạnh, kích thích dữ dội, ammonia
thể khí là một chất kích thích toàn bộ và là nguyên nhân co thắt thanh quản
cấp tính.
c. Biểu hiện lâm sàng: Bằng đường uống loại dịch ammonia biểu hiện ăn mòn
đặc biệt, phù nề toàn bộ niêm mạc dạ dày nhưng không ăn mòn như những
acid mạnh và alkali.
Triệu chứng nôn xảy ngay tức khắc và có thể liên quan tới những mảnh
vụn niêm mạc và sự thay đổi trong máu. Một đặc trưng quan trọng là khó nuốt
và khản tiếng do phù nề thanh môn.
- Liều chết: 4ml của ammonia dung dịch mạnh.
- Chết: Nhanh nhất xảy ra trong 4-5 phút.
- Biểu hiện sau chết: Loại thể hơi mạnh của ammonia xuất hiện ăn mòn đặc biệt
với môi và phù nề toàn bộ niêm mạc. Viêm khí phế quản và phù nề thanh môn
cùng với phù phổi.
2.1.4. Thu mẫu xét nghiệm độc:
Trong tất cả những chất ăn mòn dạ dày đã được rửa, chất nôn, đặc biệt khi
nhiễm độc phenol, cần lấy máu và nước tiểu. Sau khi chết cần lấy chất chứa dạ
dày, nước tiểu và máu để xét nghiệm.
3. CHẤT DẠNG HƠI:
3.1. Chất độc dạng hơi:
Nhóm hợp chất độc này đã được chia ra những nhóm chính phụ thuộc vài
sự ảnh hưởng nổi bật.
1. Mất oxy
2. Trực tiếp kích thích hệ hô hấp

3. Thuốc mê (an thần)
4. Những chất độc đặc biệt ảnh hưởng tới cơ quan.
Tổ chức của cơ thể phụ thuộc vào lượng oxy cung cấp phù hợp cho chức
năng cơ thể. Sự duy trì chức năng này phụ thuộc nhiều những tác động, bao
gồm:
9
1. Sự toàn vẹn trung tâm hô hấp sẽ kích thích chức năng hô hấp.
2. Hệ thống hô hấp mở cho không khí đi qua có chứa oxy tới những thành
phế nang kề nhau để trao đổi.
3. Oxy đi qua thành phế nang tới các mao mạch vách phế nang.
4. Sự kết hợp của oxy với Hemoglobin tạo thành oxyhemoglobin.
5. Sự tuần hoàn đầy đủ nó mang oxyhemoglobin trong tế bào hồng cầu ở
phổi mang đến tim.
6. Hệ thống tuần hoàn mang máu nuôi cơ thể thông qua hệ mao mạch nhỏ.
7. Sự phân chia oxygen từ hemoglobin.
8. Sự vận chuyển qua thành mao mạch nhỏ tới khe kẽ tổ chức.
9. Sự vận chuyển ở khe kẽ tổ chức tới thành của tế bào.
10.Việc sử dụng bên trong tế bào cho hoạt động hô hấp nội bào.
11.Trở lại bằng con đường chính CO
2
bằng con đường thở ra.
Toàn bộ chức năng phải phù hợp và phù hợp sự hô hấp tế bào là cần thiết
trong quá trình chuyển hóa, do sự tắc nghẽn ở mức độ nào đó có thể là hậu quả
về sự suy hô hấp tế bào.
3.2. Thiếu oxy:
Trong một vài trường hợp con người bị chết bởi suy sụp hệ thống tuần
hoàn do nguyên nhân thông thường là thiếu oxy. Trong khí tự nhiên thành phần
chính là methane và ethane, trong khi đó những bình chứa nhiên liệu chủ yếu
chứa methane hoặc propane. Những nhiên liệu có thể chứa lượng nhỏ những
chất hóa học khác như hydrocarbon homolugues, nhưng chúng không chứa

carbon monoxide như than hoặc nhà máy khí (gas). Carbon monoxide có thể
được hình thành khi sự chết cháy không hoàn toàn. Tuy nhiên toàn bộ khí gas tự
nó có thể giết chết bởi thiếu oxy. Thí dụ một người để đầu vào khu vực chứa gas
làm chất đốt, chất đốt được biểu hiện khí có chứa oxy và người đó hít thở trong
môi trường dưới áp lực có ít hoặc mất oxy, người đó sẽ chết do bị mất oxy dưới
tác dụng hợp chất hóa học. Mặt khác khi người xuống vùng có áp suất hơi nặng
hơn không khí và không hoặc bị thiếu oxy và người đó sẽ chết. Dạng này khi
autopsie biểu hiện dấu hiệu chung của thiếu oxy. Dấu hiệu xanh tím ngón tay,
móng tay khum, xác màu xanh tối có đốm xuất huyết trên da và trong các phủ
tạng. Đôi khi chảy máu dưới nội tâm mạc ở tim. Phù phổi thường được phát
10
hiện, nhưng ở mức độ vừa phải, phủ tạng xung huyết máu màu tối. Cần lấy mẫu
xét nghiệm của bệnh nhân để phát hiện chất độc khí ở phổi bằng syringe chọc
hút trong ngực, sau đó sử dụng bằng phương pháp sắc ký để phát hiện tác nhân
chất độc.
3.3. Ảnh hưởng sự kích thích trực tiếp vào hệ hô hấp:
Khí gas thông thường giống như chlorine, fluorine, ammonia và ozone
kích thích trực tiếp vào niêm mạc của đường hô hấp, khi chúng tiếp xúc tạo
thành acid hoặc base với nước ở trong niêm mạc. Hình thái của ozone oxygen và
oxygen mới sinh. Sau đó ảnh hưởng chlorine giống như sự phun của hệ hô hấp
với acid hydrochloric và là nguyên nhân gây đau dữ dội và ho gây hậu quả ứ
đọng huyết và xung huyết và biểu hiện dịch phù. Sự nguy hiểm cho bệnh nhân
sẽ phát triển thành khối, phổi phù phải chú ý trong trường hợp khí gas kích thích
mạnh là nguyên nhân cơ chế phản xạ gây nên ngừng thở và bệnh nhân bị tác
động trực tiếp bởi chất hóa học.
Nếu phù phổi đã được điều trị, bệnh nhân có thể bị chết do viêm phổi thứ
phát. Nếu chết tức thì sẽ được khám nghiệm khác với giải phẫu bệnh, nó phụ
thuộc vào tác nhân acid hoặc hợp chất. Điều này đã được đề cập về tác nhân của
những chất ăn mòn.
Những nhóm chất độc dạng hơi nó tác động vào phổi khi hít phải và dẫn

tới xơ phổi (bệnh bụi phổi). Chúng do hậu quả của nghề nghiệp hoặc chất hại
trong công nghiệp và đưa tới bụi silic phổi (bụi xi măng), bụi than, bụi amian,
sợi bông, đá quý (hình thái được sử dụng trong phosphor của ánh sáng huỳnh
quang). Phần lớn những chất tác động hình thái này biểu hiện phức tạp hoặc tiếp
tục kéo dài gây nguy hiểm. Tuy nhiên với beryllium biểu hiện ngắn đã đủ sinh ra
hậu quả chết người.
U hạt trên da có thể là hậu quả beryllium, nếu nó được cắt đường vào
hoặc nếu cục trên da bị cắt có chứa khối beryllium. Một số chất xuất hiện những
đặc điểm như tiêu bản (F298). Về khía cạnh khác đôi khi những trường hợp của
beryllium, nó có thể cần thiết về tác nhân bằng kết quả xét nghiệm.
3.4. CO (carbon monoxide):
Carbon monoxide kết hợp với hemoglobin tạo thành carboxyhemoglobin.
Ngay từ khi carbon monoxide có ái lực với hemoglobin trên 200 lần với oxy.
11
Tác động chính của carbon monoxide lấy mất oxy và không chứng minh
do carbon monoxide đơn độc, yếu tố quan trọng là không định mức được
carboxyhemoglobin trong máu, nhưng phần trăm của hemoglobin đã được ngăn
ngừa lấy oxy. Nguyên nhân phân tích đã được dẫn như là phần trăm hemoglobin
đã bão hòa với carbon monoxide. Điều rõ ràng rằng 2g hemoglobin đã bão hòa
với carbon monoxide ở bệnh nhân thiếu máu, người này chỉ có 4g%
hemoglobin, trong điều kiện xấu hơn một người có cùng số lượng
carboxyhemoglobin, nhưng tổng số hemoglobin 16g%. Việc sử dụng phần trăm
bão hòa, phản ánh điều khác nhau trong điều quan trọng bởi quan hệ về thực tế
số lượng carboxyhemoglobin trong tổng số hemoglobin có thể sử dụng được.
Tuy nhiên, việc mất oxy ở tổ chức, điều phải nhớ rằng trong một số người
trong chuyển hóa, họ có thể chịu đựng thiếu oxy tốt hơn những người khác.
Điều này giải thích tại sao một số người có thể vượt qua và sống cùng với mức
độ carbon monoxide mà ở người khác sẽ chết.
Phải thực hiện chứng minh ở những bệnh nhân thiếu máu, xơ vữa mạch
vành, mạch não và bệnh phổi thì ít có khả năng chịu đựng khi thiếu oxy.

Đặc biệt ở tim, yếu tố an toàn đã bị loại bỏ bởi xơ vữa, không thể chịu
đựng ở mức 20% khi oxy giảm trong máu. Mặc dù sự chết của bệnh nhân là hậu
quả gây nhồi máu cơ tim do tai nạn.
Khi xe cộ thải ra khí CO và điều này trong thực tế dùng để tự tử. Nó cũng
là nguyên nhân tai nạn gây chết ở người ngồi trong gara đóng kín hoặc ngủ
trong xe hơi, xe tải khi xe vẫn nổ máy. Dutra (1957) ông đã nghiên cứu về sự
hoạt động của xe động cơ và phát hiện 5 -10% khí thải bao gồm CO.
Về cơ chế khác là sản phẩm của CO là quá trình đốt cháy không hoàn
toàn của chất đốt có chứa than. Thí dụ này khi gas hoặc dầu đốt cháy trong một
phòng thông gió tồi. Sự đốt của nhiên liệu sẽ tạo ra sản phẩm CO. Đôi khi mức
oxy giảm ở mức thấp, giúp cho sản phẩm CO và CO
2
tăng lên và ngọn lửa sẽ tự
tắt. Nếu khí ở lò sưởi, gas không cháy sẽ tiếp tục thoát ra CO. Với sự điều chỉnh
không phù hợp của ngọn lửa, sự đọng lại của bồ hóng hoặc carbon của dụng cụ
nấu ăn hoặc bên cạnh, hoặc là đỉnh của ống khói cũng như khí gas làm trong tủ
lạnh. Với việc xây dựng xảy ra khi có sự tồn đọng của carbon do lửa cháy không
hoàn toàn và tạo nên CO.
12
Toàn bộ mọi trường hợp chết thể hiện trong máu chứa CO điều có thể
không giải thích được, đặc biệt kiểm tra trong phòng cần phải thực hiện xét
nghiệm.
Nếu con người được tìm thấy từ môi trường chứa CO, CO sẽ được phân
tích từ từ trong carboxyhemoglobin. Nếu bệnh nhân đã được thở oxy hoặc một
lượng oxy nhỏ để bổ sung nhiều kích thích hô hấp (bệnh nhân được thở oxy
trong giai đoạn ngạt). Điều này làm tăng áp lực trong các phế nang của oxy và
sự đi ra nhanh chóng của CO. Nếu bệnh nhân biểu hiện dấu hiệu suy giảm chức
năng não trầm trọng, tăng tỷ trọng oxy, tăng áp lực oxy, sự dẫn truyền thay đổi
ra thân nhiệt. Hệ tuần hoàn có COHb tạo nên màu đỏ tươi, đặc biệt này phụ
thuộc vào phần (chỗ trũng). Mẫu máu màu đỏ tươi xuất hiện, nếu tỷ lệ phần

trăm bão hòa của hemoglobin bão hòa đủ cao. Điều này có tác dụng trong lâm
sàng để xác định chẩn đoán cho bệnh nhân. Máy sắc ký khí phát hiện lượng CO
rất nhỏ nhưng thấp hơn 10% thì cần xác định bằng quang phổ. Khi khám
nghiệm, máu cơ thể không thay đổi song màu đỏ nâu của oxyhemoglobin và nó
biểu hiện việc phân tích CO đã được thực hiện.
Nếu bệnh nhân đã biểu hiện
trong khi chết, thì những biến đổi
sau chết là màu đỏ nhạt của máu, nó
phản ánh trong các phủ tạng. Nếu
thời gian sống sót dài, nơi chấn
thương trên da có thể phát triển, nó
tạo thành vùng phù nề, biến màu,
nốt phỏng, hoại tử hoặc viêm loét.
hình324 tr614
Điều quan trọng là những chấn thương do chính CO nó không phải là do nhiệt
của vùng chấn thương. Chúng đã được thấy ở nhiễm độc barbiturate.
Những thay đổi thiếu máu cục bộ đã được ghi lại trong tổ chức cơ. Nếu
bệnh nhân sống trong vài giờ, có thể hoại tử 2 bên trong đại não, mặc dù đây là
biểu hiện chung của CO và nó cũng có thể xuất hiện trong những trường hợp
kéo dài tới vài ngày trong bệnh viện. Nó cũng giống như những trường hợp
nhiễm độc babituric cũng sống sót trong vài ngày. Những chấm chảy máu nhỏ ở
chất trắng, thường biểu hiện chung sau chết trong một số người sống kéo dài vài
ngày. Những triệu chứng nhiễm độc mạn tính bao gồm: đau đầu, khó chịu bất
lực do sự tích lũy. Chúng cũng có triệu chứng nổi bật về tâm thần, về thực tế
những trường hợp này rất khó khăn. Toàn bộ những người hít phải khói sẽ có
13

×