CÁC BỆNH SÁN LÁ GAN Ở NGƯỜI
PGS. TS Trịnh Thị Minh Liên
Ths. Nguyễn Quốc Thái
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong, người học phải có khả năng:
1. Trình bày được chu kỳ sán lá gan nhỏ và lớn.
2. Chẩn đoán được bệnh sán lá gan nhỏ và lớn.
3. Trình bày được cách điều trị và phòng chống bệnh sán lá gan nhỏ và lớn.
NỘI DUNG
1. Đại cương
- Các sán lá thuộc các giống Opisthorchis, Clonorchis, Fasciola và hiếm hơn
là Dicrocoelium gây nhiễm ở gan, hay nói đúng hơn là đường mật ở người.
Opisthorchis viverrini, O. felineus và Clonorchis sinensis là những loài quan
trọng nhất, gây nhiễm hàng triệu người ở Đông Âu và Viễn Đông, nhưng
phần lớn không có triệu chứng. Thường nhận biết nhiễm khi thấy trứng trong
phân qua xét nghiệm thường quy.
Bảng. Các sán lá gan ở người
TT Loài
Phân bố
địa lý
Vật chủ cuối cùng
ngoài người
Nguồn nhiễm
1
Clonorchis
sinensis
Viễn Đông Chó, mèo, chuột, thỏ Cá nước ngọt
2
Dicrocoelium
dendriticum
Vùng nuôi
cừu và gia
súc
Cừu, dê, hươu và các
động vật có vú ăn cỏ
và ăn tạp khác
Kiến (sơ ý ăn
phải trong thức
ăn)
3
Eurytrema
pancreaticum
Nhật Bản Cừu, thỏ rừng, thỏ Châu chấu
4
Fasciola
gigantica
Vùng nuôi
cừu và gia
súc
Gia súc, trâu nước,
các động vật có vú
ăn cỏ
Các thực vật
như cải soong
5
Fasciola
hepatica
Vùng nuôi
cừu và gia
súc
Cừu, gia súc, các
động vật có vú ăn cỏ
và ăn tạp
Các thực vật
như cải soong
6
Opisthorchis
felineus
Đông Âu,
Việt Nam
Chó, mèo, chuột,
lợn, hải ly, hải cẩu,
thỏ và diệc đêm
Cá nước ngọt
7
Opisthorchis
viverrini
Thái Lan,
Lào
Chó, mèo, các động
vật ăn cá
Cá nước ngọt
1
- Ở Việt Nam cho đến nay bệnh sán lá gan vẫn thường do Clonorchis sinensis
hoặc Opisthorchis viverrini (sán lá gan nhỏ) và Fasciola hepatica (sán lá gan
lớn).
2. Bệnh do Clonorchis
3.1. Tác nhân gây bệnh:
- Sán Clonorchis sinensis hình lá dẹt, màu trắng đục, dài từ 10 đến 25 mm,
rộng 3 đến 5 mm, cơ thể không có gai phủ.
- Sán có tinh hoàn chia nhánh, không chia múi, nằm ở phía sau buồng trứng.
- Trứng sán lá gan màu vàng, hình bầu dục có nắp, phía sau có một gai nhỏ,
dài khoảng 27μm, rộng khoảng 18 μm, là loại trứng nhỏ nhất trong các loại
trứng giun sán ký sinh.
3.2. Chu kỳ:
- Sán trưởng thành ký sinh ở các đường dẫn mật trong gan và đẻ trứng ở đó.
- Trứng theo ống dẫn mật vào ruột, sau đó theo phân bài tiết ra ngoài.
- Sau khi rơi vào nước, trứng phát triển thành ấu trùng lông.
- Ấu trùng lông bơi lội trong nước rồi tìm đến ốc Bythinia, Melania, Bulimus,
Parafossarutus, Mocinma và biến thành ấu trùng đuôi có mắt.
- Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc để vào ký sinh ở các loại cá rô, cá trê, cá giếc... để
thành nang trùng nằm trong thịt của cá.
- Người, động vật ăn phải cá có nang trùng chưa nấu chín sẽ mắc bệnh. Ấu
trùng nang này vào dạ dày, xuống tá tràng rồi ngược theo đường mật lên gan,
nở ra sán lá gan trưởng thành ký sinh và gây bệnh ở đó.
- Thời gian từ khi ăn phải ấu trùng nang trong cá đến khi thành sán trưởng
thành mất khoảng 26 ngày.
3.3. Dịch tễ học
- Bệnh sán lá gan nhỏ đã được phát hiện ở Calcutta - Ấn Độ năm 1874, sau đó
được phát hiện ở vùng Viễn Đông, đặc biệt ở Nhật Bản, Triều Tiên, Trung
Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia với số người nhiễm sán khoảng 19 triệu.
- Tại Việt Nam, những trường hợp sán lá gan nhỏ đầu tiên đã được phát hiện
từ 1911, có trường hợp nhiễm đến 21.000 sán. Bệnh lưu hành chủ yếu ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ, trong đó nặng nhất là ở Nghĩa Hưng – Nam Định.
+ Tỷ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ tăng dần theo tuổi, cao nhất ở nhóm
30-50 tuổi. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở nam giới cao gấp 3 lần nữ
giới.
+ Bệnh sán lá gan nhỏ liên quan đến tập quán ăn gỏi. Ở miền Bắc, tập
quán ăn gỏi là ăn thịt cá thái nhỏ trộn thính và gia vị, còn ở miền Nam
ăn gỏi sinh cầm, tức là ăn cả con cá còn sống gói với lá thơm. Một số
trường hợp trong vùng dịch tễ tuy không ăn gỏi cá cũng bị nhiễm sán lá
gan nhỏ do ăn cá rán chưa kỹ.
2
+ Các loài cá hay mang ấu trùng sán lá gan nhỏ là cá mè, cá rô, cá chép,
cá giếc, cá trôi, cá trắm, cá rô phi.
+ Súc vật như chó, mèo cũng bị nhiễm sán lá gan nhỏ do ăn cá sống.
Đây là nguồn bệnh dự trữ rất khó quản lý trong công tác phòng chống
sán lá gan nhỏ.
3.4. Giải phẫu bệnh và sinh bệnh học
- Số lượng ký sinh trùng trong đường dẫn mật có thể đến hàng chục, hàng
trăm, thậm chí hàng nghìn.
- Tại nơi ký sinh, sán lá gan nhỏ gây viêm đường dẫn mật, có thể gây tắc
đường mật do tăng sinh tổ chức liên kết. Trường hợp nhiễm nhiều, gan có thể
bị xơ hoá dẫn đến cổ trướng hoặc có thể gây ung thư đường mật.
- Do kích thích mạn tính và phá huỷ tế bào biểu mô dẫn đến bong tróc và tăng
sinh, cuối cùng là quá sản, dị sản và xơ hoá. Cũng thấy có thâm nhiễm bạch
cầu ái toan và lympho quanh ống mật ở khoảng cửa, gợi ý vai trò của tổn
thương qua trung gian miễn dịch. Những thay đổi này dẫn đến hình thành sỏi
sắc tố, chít hẹp đường mật, giãn đường mật trong gan và xơ hoá tế bào gan.
- Khoảng một phần ba các trường hợp sán lá gan nhỏ ký sinh ống tuỵ.
3.5. Biểu hiện lâm sàng
- Biểu hiện lâm sàng thay đổi tuỳ thuộc thời gian và mức độ nhiễm.
- Phần lớn các trường hợp nhiễm không có triệu chứng và có diễn biến bệnh
lành tính. Chỉ khoảng 10% có triệu chứng và nguy cơ biến chứng có biểu hiện
triệu chứng tăng theo thời gian nhiễm và mức độ nhiễm.
- Giai đoạn cấp:
+ Triệu chứng thường xuất hiện sau ăn cá chưa chín 10-26 ngày và kéo
dài 2-4 tuần.
+ Bệnh nhân có sốt, chán ăn, đau bụng, đau cơ, đau khớp, khó chịu và
nổi mày đay.
+ Có thể thấy hạch to và gan to đau.
+ Hay thấy tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi.
+ Nói chung phát hiện được trứng sán trong phân sau 3-4 tuần.
- Giai đoạn mạn và biến chứng:
+ Có thể xuất hiện các triệu chứng mạn tính từng đợt như mệt mỏi, khó
chịu vùng bụng, chán ăn, sút cân, khó tiêu và ỉa chảy. Sau khi điều trị
thì các triệu chứng này cải thiện rõ rệt.
+ Các biến chứng nhiễm mạn thường xuất hiện ở những bệnh nhân trên
30 tuổi, bao gồm viêm đường mật, viêm gan đường mật và ung thư
biểu mô đường mật.
+ Túi mật to và không hoạt động chức năng, thường chứa sỏi trong có
ký sinh trùng chết hoặc trứng sán thành từng ổ.
3
+ Bệnh nặng có thể dẫn đến vàng da tắc mật, viêm tuỵ, viêm đường
mật tái phát và áp-xe gan sinh mủ.
3.6. Chẩn đoán
- Chẩn đoán bằng cách xác định trứng sán đặc trưng trong bệnh phẩm phân.
- Soi kính hiển vi:
+ Có thể không thấy được trứng sán khi nhiễm nhẹ mà chỉ có thể phát
hiện được với bệnh phẩm được phong phú hoặc ly tâm.
+ Cũng chỉ thấy được trứng trong phân sau khi nhiễm được khoảng 4
tuần.
+ Dịch tá tràng hay dịch mật cũng có thể có cả trứng sán và sán trưởng
thành.
- Các xét nghiệm kèm theo:
+ Có thể tăng bạch cầu ái toan máu ngoại vi nhưng thường không cao
quá 10-20%.
+ Ở các bệnh nhân nhiễm mạn tính có tắc mật, phosphatase kiềm có thể
tăng cao nhưng nói chung transaminase bình thường.
+ Nồng độ IgE huyết thanh có thể tăng.
- Huyết thanh học:
+ Các thử nghiệm miễn dịch thấm dùng kháng nguyên ngoại tiết đặc
hiệu C. sinensis có độ nhạy cao tới 92%. Tuy nhiên phương pháp này
tốn kém, chưa áp dụng được ở Việt Nam.
- Chẩn đoán hình ảnh:
+ Chụp đường mật, siêu âm và chụp cắt lớp vi tính gan có thể giúp
chẩn đoán.
+ Các dấu hiệu siêu âm không đặc hiệu bao gồm: túi mật to, thành
không đều; có bùn mật; viêm và xơ hoá ống mật; và gan to. Hình ảnh
của sán là các ổ tăng âm vang không bóng cản trong đường mật.
+ Chụp cắt lớp vi tính nhạy hơn siêu âm trong việc đánh giá viêm
đường mật tái phát.
+ Chụp cộng hưởng từ có giá trị trong việc đánh giá bất thường đường
mật trong gan.
3.7. Điều trị
- Praziquantel vẫn là thuốc điều trị đầu tay.
+ Trường hợp nhiễm nhẹ, tại tuyến xã hoặc tuyến huyện: Praziquantel
25 mg/kg x 3 lần ngày uống trong 1 ngày.
+ Trường hợp nhiễm nặng, tại bệnh viện tỉnh hoặc Trung ương:
Praziquantel 25 mg/kg x 3 lần/ngày uống trong 2 ngày.
- Các thuốc thay thế cho Praziquantel có thể là:
+ Albendazol 10 mg/kg trong 7 ngày
4
+ Mặc dù albendazol không hiệu quả bằng praziquantel nhưng ít tác
dụng phụ hơn cho dù điều trị lâu dài.
- Tiên lượng bệnh tốt với nhiễm nhẹ nhưng đôi khi tử vong ở những trường
hợp nhiễm kéo dài có kèm theo biến chứng. Ở các vùng bệnh lưu hành có thể
phải mổ cấp cứu vì viêm đường mật do sán lá gan nhỏ. Những bệnh nhân
vàng da tắc mật có thể phải nối mật ruột. Cũng có thể phải dùng kháng sinh
để điều trị biến chứng nhiễm khuẩn do tắc mật.
3.8. Phòng chống bệnh
- Trong chu kỳ sống của sán lá gan nhỏ, mắt xích tác động có ý nghĩa thực
tiễn và hiệu quả nhất để phòng chống sán lá gan nhỏ là cắt đứt đường lây
truyền từ cá sang người bằng cách không ăn gỏi cá hoặc cá chưa nấu chín.
- Để đảm bảo sức khoẻ cho người bệnh và góp phần tiêu diệt mầm bệnh, cần
tiến hành điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân sán lá gan kết hợp với vệ sinh môi
trường (quản lý phân và không cho cá ăn phân người).
4. Bệnh do Fasciola
Bệnh do Fasciola còn gọi là bệnh sán lá gan lớn do sán lá gan cừu Fasciola
hepatica (cùng tên: Distoma hepatica, F. californica, F. halli, v.v...) hoặc hiếm
hơn là do F. gigantica gây nhiễm.
Sán gây bệnh chủ yếu ở các động vật nhai lại và có thể bất thường gây bệnh ở
người. Những biểu hiện của bệnh là những triệu chứng tại gan. Sán dễ di
chuyển lạc chỗ đến nhiều nơi của cơ thể như cơ bắp, dưới da.
4.1. Tác nhân gây bệnh:
- Sán Fasciola hepatica là một sán lớn, hình lá dài khoảng 20-30 mm, bề
ngang 10-13 mm. Thân sán rất dẹt, đặc biệt bờ thân rất mỏng. Vùng thân thấy
hình dạng ruột chia nhánh.
- Trứng sán màu vàng nâu, có nắp ở một đầu, chiều dài khoảng 140 μm, chiều
ngang khoảng 80 μm.
4.2. Chu kỳ:
- Sán trưởng thành đẻ trứng theo đường mật xuống ruột và ra ngoài theo phân.
- Trứng xuống nước nở ra ấu trùng lông và ký sinh trong ốc, phát triển thành
ấu trùng đuôi, rời khỏi ốc và bám vào các thực vật thuỷ sinh để tạo nang trùng
hoặc bơi tự do trong nước.
- Người hoặc trâu bò ăn phải thực vật thuỷ sinh hoặc uống nước lã có ấu trùng
này sẽ bị nhiễm sán lá gan lớn.
4.3. Dịch tễ học
- Bệnh sán lá gan lớn đã gặp ở 61 nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước có
chăn nuôi cừu. Bệnh thường gặp hơn ở các nước vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Tuy phân bố rộng nhưng những trường hợp trên người ít xảy ra. Có trên
2,4 triệu người nhiễm, chủ yếu ở Bolivia, Pêru, Iran, Ai Cập, Bồ Đào Nha và
Pháp.
5