Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT ĐỐT NỘI SOI NGẢ NIỆU ĐẠO
TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT TRÊN BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
Nguyễn Lê Tuyên*, Trần Ngọc Sinh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cắt đốt nội soi ngả niệu đạo tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt trên người bệnh đái tháo đường
týp 2 chưa được nghiên cứu tại nước ta. Tần suất mắc bệnh đái tháo đường cao, biến chứng của bệnh lý đái tháo
đường trên hệ Tiết niệu phức tạp.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chẩn đoán và phẫu thuật tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt trên
người bệnh đái tháo đường bằng phương pháp cắt đốt nội soi qua ngả niệu đạo.
Đối tượng nghiên cứu: Nam giới bệnh tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt kèm theo đái tháo đường týp 2 có
chỉ định cắt đốt nội soi, được phẫu thuật tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Bệnh viện
Nhân Dân Gia Định trong 2 năm 2012 ‐ 2013.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả hàng loạt trường hợp.
Kết quả: Nghiên cứu 78 trường hợp có độ tuổi trung bình 73,85 ± 7,96 tuổi. Khối lượng tuyến tiền liệt
63,36 ± 7,74g. Thể tích nước tiểu tồn lưu 114,64 ± 65,48 mL, thời gian cắt đốt 62,69 ± 27,10 phút. IPSS 29,12 ±
2,69 điểm, QoL 4,32 ± 0,57 điểm. PSA 5,22 ± 2,79 ng/mL, đường huyết khi vào viện 170,06 ± 11,08 mg/dL,
HbA1c 7,31 ± 0,94%. Có 70,5% trường hợp hoàn toàn không biết đang mắc bệnh đái tháo đường, 5,1% trường
hợp gia đình có người bệnh đái tháo đường nhưng bản thân vẫn không biết đang mắc bệnh. Đo áp lựa đồ bàng
quang loại ra 17% trường hợp bàng quang hỗn loạn thần kinh. Sử dụng kháng sinh dự phòng cho các trường
hợp tiểu máu, bí tiểu phải đặt thông. Cấy nước tiểu trước và sau phẫu thuật: 20,5% nhiễm trùng niệu trước
phẫu thuật và 2,6% nhiễm trùng niệu sau phẫu thuật ( E. Choli chiếm 100% trường hợp sau phẫu thuật). Sau
phẫu thuật 3 tháng: RUV 21,47 ± 6,25 mL, IPSS 16,24 ± 1,29 điểm, đường huyết trung bình 116,73 ± 11,08
mg/dL, HbA1c 6,35 ± 0,29%, có 1,3% hẹp niệu đạo. Nghiên cứu này không có trường hợp nào tử vong hay tiểu
không kiểm soát sau phẫu thuật.
Kết luận: Cắt đốt nội soi tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt trên người đái tháo đường týp 2 cho kết quả tốt
như cắt đốt nội soi trên người không mắc bệnh đái tháo đường với điều kiện kiểm soát tốt đường huyết trước,
trong và sau phẫu thuật với moritoring đường huyết và insulin tĩnh mạch. Không có khác biệt về thay đổi đường
huyết sau phẫu thuật khi TURP bằng dung dịch Nacl 0,9% với chế độ bipolar và TURP bằng dung dịch sorbitol
3,3% với chế độ monopolar.
Từ khóa: tuyến tiền liệt, đái tháo đường týp 2, cắt đốt nội soi
ABSTRACT
ASSESSMENT RESULTS ABLATION URETHRA RUSSIAN ENDOSCOPY
PROLIFERATIVE BENIGN PROSTATIC IN PATIENTS 2 DIABETIC
Nguyen Le Tuyen, Tran Ngoc Sinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 67 ‐ 76
Background: Endoscopic Ablation reclining urethra proliferative benign prostate disease in people with type
* Bệnh viện Đa Khoa Tiền Giang ** Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Lê Tuyên ĐT: 0928033323 Email:
Niệu Khoa
67
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
2 diabetes have not been studied in our country. The incidence of high diabetes, complications of diabetes mellitus
on the system Urology complex.
Study objectives: Review the diagnosis and surgical proliferative benign prostate disease in people with
diabetes by endoscopic ablation methods by way of the urethra.
Study subjects: Men benign proliferative disease prostate with type 2 diabetes indicated endoscopic
ablation, surgery at the Medical University Hospital in Ho Chi Minh City Peopleʹs Hospital, Gia Dinh in 2
years from 2012 to 2013.
Research Methodology: Prospective descriptive case series.
Results: 78 case studies with an average age of 73.85 ± 7.96 years old. Prostate weight 63.36 ± 7.74 g.
Residual urine volume of 114.64 ± 65.48 mL, 62.69 ± ablation time 27.10 minutes. IPSS score 29.12 ± 2.69, 4.32
± 0.57 QOL. PSA 5.22 ± 2.79 ng / mL, glucose on admission 170.06 ± 11.08 mg / dL, HbA1c 7.31 ± 0.94 %.
There are 70.5 % of cases are totally ignorant with diabetes, 5.1 % of families who have diabetes but still do not
know themselves are sick. Map bladder manometry for 17% of the cases bladder nerve disorder. Use of
prophylactic antibiotics for cases of hematuria, urinary retention to put information. Urine culture before and
after surgery: 20.5 % preoperative urinary infection and urinary tract infection 2.6 % after surgery ( up 100 %
E. choli cases after surgery). After surgery 3 months: 21.47 ± 6.25 mL RUV, IPSS score of 16.24 ± 1.29, the
average blood sugar 116.73 ± 11.08 mg / dL, HbA1c 6.35 ± 0.29 %, 1.3 % have narrow urethra. This study did
not have any deaths or cases of urinary incontinence after surgery.
Conclusion: Endoscopic Ablation proliferative benign prostate in humans with type 2 diabetes for good
results as endoscopic ablation in non‐diabetics with diabetic conditions good glycemic control before, during and
after surgery with blood sugar and insulin moritoring vein. There was no difference in blood glucose changes
after the TURP surgery in 0.9 % NaCl solution and TURP with bipolar mode with 3.3 % sorbitol solution with
Monopolar mode.
Keywords: prostate, diabetes mellitus type 2, endoscopic ablation
ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị dù quá trình
MỞ ĐẦU
phẫu thuật thành công mỹ mãn. Tại Việt Nam,
Tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt là bệnh lý
nhiều công trình nghiên cứu về bệnh lý này và
phổ biến của nam giới lớn tuổi. Trên Thế giới,
cắt đốt nội soi cũng được áp dụng rộng rãi ở các
khoảng 60% nam giới ở tuổi 60 bị tăng sinh lành
bệnh viện, nhưng vấn đề phẫu thuật tăng sinh
tính tuyến tiền liệt(10,14), tần suất bệnh tăng dần
lành tính tuyến tiền liệt trên người đái tháo
theo tuổi nên số người mắc bệnh ngày càng cao.
đường týp 2 vẫn chưa được nghiên cứu vì
Điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt khi có
những biến chứng phức tạp do đái tháo đường
rối loạn đi tiểu nặng và có biến chứng chủ yếu là
gây nên, mặt khác không ít Bác sĩ Niệu khoa
ngoại khoa. Trong các phương pháp phẫu thuật
chưa thật sự an tâm khi phẫu thuật trên bệnh
thì cắt đốt nội soi qua ngả niệu đạo được ưa
nhân đái tháo đường mà luôn phải có sự hỗ trợ
chuộng nhất vì có ưu thế kỹ thuật ít xâm hại,
tích cực từ Bác sĩ chuyên ngành Nội tiết.
hiệu quả cao và thời gian nằm viện ngắn. Tại các
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
nước Âu Mỹ, cắt đốt nội soi chiếm trên 90% các
trường hợp và được đánh giá là tiêu chuẩn
Đối tượng nghiên cứu
vàng(6,20). Tuy nhiên, cắt đốt nội soi tăng sinh
Tiêu chuẩn chọn bệnh
lành tính tuyến tiền liệt dù được xem là tiêu
Bệnh nhân nam nhập viện được chẩn đoán
chuẩn vàng nhưng vẫn tồn tại một tỷ lệ biến
tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt kèm theo đái
chứng quan trọng, đặc biệt là tiểu không kiểm
tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia
soát sau phẫu thuật. Những biến chứng này làm
68
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Định và Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh. Có chỉ định phẫu thuật cắt đốt
nội soi.
Tiêu chuẩn loại trừ(26)
Bệnh nhân không hợp tác.
Các trường hợp chưa hoặc không có chỉ định
phẫu thuật.
Bàng quang hỗn loạn thần kinh, viêm bàng
quang, hẹp cổ bàng quang.
Ung thư tuyến tiền liệt.
Nghiên cứu Y học
‐ Trước phẫu thuật: Dựa vào chỉ số PSA.
PSA ≤ 4ng/mL.
4 ng/mL < PSA < 10 ng/mL và PSA Free >
25%(8)
10 ng/mL ≤ PSA và PSA Free > 25%: sinh
thiết tuyến tiền liệt.
Nếu sinh thiết lành tính: cho vào lô nghiên
cứu.
Nếu sinh thiết ác tính: loại không nghiên
cứu.
Hôn mê do đái tháo đường, đái tháo đường
týp 1.
4 ng/mL < PSA và PSA Free < 25%: loại
không nghiên cứu.
Rối loạn đông máu, mắc các bệnh kèm theo
chưa ổn định.
Tất cả các trường hợp đều phải có PSA Free
> 25%.
Hẹp niệu đạo, di chứng biến dạng khung
chậu và khớp háng.
Mang máy tạo nhịp tim không hệ thống
chống nhiễu.
Không theo dõi được bệnh nhân.
‐ Sau phẫu thuật:
‐ Các trường hợp cắt đốt nội soi được lấy
mẫu mô TTL gởi Giải phẫu bệnh.
Nếu kết quả lành tính: cho vào loạt nghiên
cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nếu kết quả ác tính: loại không nghiên cứu.
Nghiên cứu tiến hành theo phương pháp
tiến cứu mô tả hàng loạt trường hợp.
● Chẩn đoán đái tháo đường:(1,30)
Nội dung nghiên cứu
Chẩn đoán bệnh
+ Quy trình chẩn đoán và chỉ định phẫu thuật.
Theo trình tự chẩn đoán của phác đồ
AHCPR(19), để chọn bệnh nhân tăng sinh lành
tính tuyến tiền liệt cho phẫu thuật phải qua 3
bước chính:
‐ Chẩn đoán tăng sinh lành tính tuyến tiền
liệt, đánh giá các triệu chứng và dấu hiệu lâm
sàng, đánh giá tình trạng bế tắc do tuyến tiền liệt
gây ra.
● Đo áp lực đồ bàng quang(29)
Đo áp lực đồ bàng quang cho tất cả trường
hợp nhằm:
‐ Phát hiện bàng quang hỗn loạn thần kinh.
‐ Đánh giá sức co bóp của bàng quang.
●Tiêu chí đánh giá tăng sinh lành tính tuyến
tiền liệt:
Niệu Khoa
Chẩn đoán đái tháo đường được Tổ chức Y
tế Thế giới công nhận năm 2010, cập nhật 2013,
thỏa một trong các tiêu chí sau:
‐ Một mẫu đường huyết bất kỳ ≥ 11,1
mmol/L.
‐ Đường huyết lúc đói ≥ 7 mmol/L.
‐ Đường huyết 2 giờ sau khi uống 75g
glucose ≥ 11,1 mmol/L.
‐ HbA1c ≥ 6,5%.
Các xét nghiệm được thực hiện 2 lần, vào 2
thời điểm khác nhau.
Đánh giá kết quả
Kết quả phẫu thuật
Có nhiều cách đánh giá kết quả cắt đốt nội
soi tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt: Tác giả
Yukio Homma và cộng sự(31), tác giả Nguyễn
Bửu Triều... Nghiên cứu này chọn cách đánh giá
theo tác giả Nguyễn Bửu Triều.
Phép kiểm thống kê
69
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Nghiên cứu Y học
Các tham số nghiên cứu được mã hóa và xử
lý bằng phần mềm SPSS 16.0, các biến số rời rạc
được phân tích và kiểm định bằng test chi bình
phương và các biến số liên tục được kiểm định
bằng T‐test. Kết quả trình bày dưới dạng trung
bình và chỉ số p có ý nghĩa khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 78 trường hợp được chọn chỉ định cắt đốt
nội soi theo phác đồ. Trong đó: 29 trường hợp
tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ
Chí Minh cắt đốt nội soi bằng bipolar với dung
dịch Nacl 0,9% và 49 trường hợp tại Bệnh viện
Nhân Dân Gia Định cắt đốt nội soi bằng
monopolar với dung dịch Sorbitol 3,3%.
Đặc điểm bệnh nhân
Tuổi
Bảng 1. Phân bố theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
Tần số
Tỷ lệ %
60 - 69
23
29,5%
70 - 79
36
46,2%
≥ 80
19
24,3%
Tổng
78
100%
Lý do vào viện
Bảng 2: Lý do vào viện chủ yếu của mẫu nghiên cứu.
Lý do vào viện
Tiểu khó
Bí tiểu cấp
Tiểu máu
Mở BQRD do bí tiểu
cấp
Tổng cộng
Số trường hợp Tỷ lệ %,(n = 78)
54
69,2%
19
24,4%
4
5,1%
1
1,3%
78
100%
Tiền căn Đái tháo đường
Số trường Tỷ lệ %,
hợp
(n=78)
Đang điều trị đái tháo đường
23
29,5%
Không biết mắc bệnh ĐTĐ trước khi
55
70,5%
vào viện
Tổng cộng
78
100%
Tăng đường huyết sau phẫu thuật
Bảng 3. Tăng đường huyết sau phẫu thuật.
70
28,55 ± 25,66 34,78 ± 27,77 32,46±27,01
20
20
20
Nghiên cứu này được chia làm 2 nhóm ngẫu
nhiên:
Nhóm 1: gồm 29 trường hợp của bệnh viện
Đại Học Y Dược được cắt đốt nội soi với chế độ
cắt bipolar và dung dịch cắt đốt là Nacl 0,9%
Nhóm 2: gồm 49 trường hợp của bệnh viện
Nhân Dân Gia Định được cắt đốt nội soi với chế
độ cắt monopolar và dung dịch cắt đốt là
Sorbitol 3,3%.
Tăng đường huyết trung bình sau phẫu
thuật của nhóm 1 là 28,55 ± 25,66 mg/dL và
nhóm 2 là 34,78 ± 27,77 mg/dL với p = 0,328 cho
thấy tăng đường huyết trung bình sau phẫu
thuật của 2 nhóm là tương đồng nhau, không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Thể tích nước tiểu tồn lưu (RUV)
Bảng 4. So sánh nước tiểu tồn lưu trước và sau phẫu
thuật
Nước tiểu tồn Trước phẫu Sau phẫu thuật Giá trị p
lưu (mL)
thuật
Thấp nhất
40
10
Cao nhất
450
40
< 0.001
Trung bình
114,64 ± 65,48 21,47 ± 6,25
Trung vị
100
20
Điểm số IPSS:
Bảng 5. So sánh điểm số IPSS trước và sau phẫu
thuật
Điểm số IPSS
Tiền căn Đái tháo đường týp 2
Bảng 3: Tiền căn ĐTĐ týp 2
Tăng đường
huyết
(mg/dL)
n
Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị
Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị
Nhóm 2
Tổng
29
10
135
49
3
140
78
3
140
Giá trị p
< 0.001
Điểm chất lượng cuộc sống ( QoL):
Bảng 6. So sánh điểm chất lượng cuộc sống trước và
sau phẫu thuật.
QoL
Nhóm 1
Trước phẫu Sau phẫu
thuật
thuật
19
14
33
20
29,12 ± 2,69 16,24 ± 1,29
30
16
Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị
Trước phẫu
thuật
3
5
4,32 ± 0,57
4
Sau phẫu
thuật
1
4
2,33 ± 0,59
2
Giá trị p
< 0.001
Lưu lượng nước tiểu trung bình ( Qave).
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Bảng 7. So sánh lưu lượng nước tiểu trung bình
trước và sau phẫu thuật
Qave
Trước phẫu Sau phẫu Giá trị p
thuật
thuật
3
1
12
15
< 0.001
4,42 ± 1,85 13,41 ± 1,95
4
14
Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị
HbA1c
Bảng 8. So sánh HbA1c lúc vào viện và sau 3 tháng
HbA1c
Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị
Lúc vào viện Sau 3 tháng Giá trị p
5,3 %
5,3 %
12 %
7%
< 0.001
7,31 ± 0,94 % 6,35 ± 0,29 %
7,0
6,4
Đường huyết
Bảng 9. So sánh đường huyết khi vào viện và sau
điều trị 3 tháng
Đường
huyết
Khi vào viện Sau 3 tháng
170,06 ±
116,73 ±
28,13
11,08
Giá trị p
< 0.001
BÀN LUẬN
Trong 78 mẫu nghiên cứu của chúng tôi có
60,3% trường hợp bệnh nhân ở Thành Phố Hồ
Chí Minh và 39,7% trường hợp đến từ 13 tỉnh
thành khác nhau.Tuổi trung bình là: 73,85 ± 7,96
tuổi, thấp nhất là 60 tuổi, cao nhất là 94 tuổi. Độ
tuổi này cũng tương đồng với các nghiên cứu
tương tự trong nước như: nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Trường An, độ tuổi trung bình là 73,56
± 8,06(23). Đa số bệnh nhân đến bệnh viện trong
tình trạng nặng và có biến chứng. Có 4 lý do
nhập viện là: Tiểu khó, bí tiểu, tiểu máu và mở
bàng quang ra da do bí tiểu có đặt thông niệu
đạo bàng quang nhưng thất bại.
Có 29,5% TH đang điều trị đái tháo đường
týp 2 tại các bệnh viện, những bệnh nhân này
điều trị liên tục và có khám định kỳ hàng tháng
tại cơ sở Y tế. Đa số mắc bệnh trên 10 năm.
Nghiên cứu này cho thấy có 1/3 số bệnh nhân là
biết tình hình bệnh tật của mình và có theo dõi
điều trị. Tuy nhiên có 55/78 trường hợp không
biết bị bệnh Đái tháo đường chiếm tỷ lệ 70,5%,
những bệnh nhân này chỉ phát hiện đái tháo
đường týp 2 sau khi làm xét nghiệm tiền phẫu.
Niệu Khoa
Nghiên cứu Y học
Một tỷ lệ khác cho thấy 5,1% trường hợp gia
đình có người mắc bệnh đái tháo đường nhưng
bản thân người bệnh vẫn không biết mình đang
bị bệnh.
Kết quả phẫu thuật
Nghiên cứu của chúng tôi, IPSS của mẫu
nghiên cứu là 29,12 ± 2,69 điểm, trong đó 1,7%
có điểm số IPSS mức độ trung bình, 98,3% mức
độ nặng và không có trường hợp nhẹ. So sánh
nghiên cứu trong nước của các tác giả, Lương
Minh Tùng, Phạm Hữu Đoàn, Nguyễn Phú Việt
nhận thấy rằng: Tỷ lệ bệnh nhân có thang điểm
IPSS mức độ nặng của chúng tôi cao hơn so với
các tác giả khác. Riêng tỷ lệ điểm số IPSS mức độ
trung bình thì nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn các tác giả khác(24,26,16,22). Nghiên cứu của
Sagnier và cộng sự (n=2011, tuổi 50‐80) thì tỷ lệ
bệnh nhân có thang điểm IPSS mức độ nhẹ là
86%, trung bình 13% và nặng 1%. Nghiên cứu
tại Malaysia (n = 575, tuổi trên 50) cho tỷ lệ thang
điểm IPSS mức độ nhẹ là 41,5%, trung bình
39,6% và nặng là 18,9%(25). Nhận xét chung cho
thấy những nghiên cứu trong nước đều có tỷ lệ
thang điểm IPSS mức độ nặng cao hơn nước
ngoài và mức độ nhẹ thì luôn thấp hơn.
Nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi từ 60 ‐
94, tuổi trung bình là 73,85 ± 7,96 tuổi. Qua thời
gian theo dõi sau cắt đốt nội soi 3 tháng, kết quả
nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện về điểm số
IPSS, điểm trung bình trước phẫu thuật từ 29,12
± 2,69 điểm giảm xuống còn 16,24 ± 1,29 điểm.
Điều này khẳng định sau phẫu thuật tình trạng
tiểu khó của bệnh nhân đã giảm hẳn, dù không
chuyển được IPSS từ mức độ nặng về mức độ
nhẹ, nhưng sau cắt đốt nội soi tất cả bệnh nhân
đều chuyển về mức độ trung bình và họ chấp
nhận được với kết quả phẫu thuật này.
Thể tích nước tiểu tồn lưu là thể tích nước
tiểu còn lại trong bàng quang ngay sau khi đi
tiểu xong(15). Theo Hinman và Cox ( 1967), thể
tích nước tiểu tồn lưu bình thường từ 0,09 ‐
2,24mL, trung bình là 0,53mL. Người đàn ông
bình thường, 78% có thể tích nước tiểu tồn lưu
dưới 5mL, và 100% có thể tích nước tiểu tồn lưu
71
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
dưới 12mL(15). Theo một số tác giả, thể tích nước
tiểu tồn lưu trên 70mL được xem là có chỉ định
phẫu thuật(11,12). Tuy nhiên, có tác giả cho rằng
thể tích nước tiểu tồn lưu trên 100mL mới có ý
nghĩa. Thực tế lâm sàng cho thấy thể tích nước
tiểu tồn lưu không phải là trị số cố định trong
các thời điểm đo khác nhau, sai số của công thức
ước tính và siêu âm. Do đó, ngoài thể tích nước
tiểu tồn lưu ta cũng cần kết hợp thêm các tiêu
chuẩn khác (IPSS, QoL, Qmax...) để đưa ra một
quyết định phẫu thuật hợp lý hơn.
Nghiên cứu của chúng tôi, thể tích nước tiểu
tồn lưu trung bình là 114,64 ± 65,48 mL, của tác
giả Nguyễn Đạo Thuấn là 91,8mL, nghiên cứu
của tác giả Kang Soo Shim là 193,8mL(13). Kết quả
cho thấy thể tích nước tiểu tồn lưu trung bình
trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi cao hơn hai
tác giả trong nước nhưng lại thấp hơn nghiên
cứu của Kang Soo Shim. Khi theo dõi điều trị
qua 3 tháng sau cắt đốt nội soi, chúng tôi nhận
thấy có sự cải thiện đáng kể so với trước khi cắt
đốt nội soi. Thể tích nước tiểu tồn lưu trung bình
sau cắt đốt nội soi là 21,47 ± 6,25 mL. Mặc dù thể
tích nước tiểu tồn lưu sau cắt đốt nội soi vẫn còn
cao nhưng tất cả bệnh nhân khi tái khám đều
tiểu thông, cảm thấy hài lòng, không có trường
hợp nào tiểu không kiểm soát.
Thời gian phẫu thuật trung bình là 62,69 ±
27,10 phút. Loạt nghiên cứu này không có
trường hợp nào bị hội chứng cắt đốt nội soi xảy
ra, thời gian cắt đốt trung bình 62,69 ± 27,10
phút. Nghiên cứu của các tác giả trong nước:
Nguyễn Trường An với thời gian phẫu thuật
trung bình là 61,39 ± 24,04 phút, khối lượng
bướu trung bình 55,94 ± 22,47gram(23), Trần
Thanh Phong với thời gian phẫu thuật trung
bình là 43,1 phút, khối lượng bướu trung bình
47,5gram(28).
Thời gian nằm viện sau cắt đốt nội soi ngắn
nhất là 3 ngày, dài nhất 12 ngày và trung bình là
6,08 ± 2,36 ngày. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Trường An, thời gian nằm viện trung bình sau
phẫu thuật là 5 ± 1,88 ngày(23), của tác giả Đỗ
Tiến Dũng trung bình là 4‐5 ngày(2). Theo chúng
72
tôi, thời gian sau cắt đốt nội soi rất quan trọng
đôi lúc phẫu thuật viên hay chủ quan vì đã ổn
khi phẫu thuật xong. Tuy nhiên, thời gian này có
rất nhiều biến chứng xảy ra như chảy máu sau
phẫu thuật, nhiễm trùng bệnh viện, đau sau
phẫu thuật, viêm phổi..... và đặc biệt là tử vong
do nhồi máu cơ tim đã xảy ra trong một số
nghiên cứu tương tự(26,21). Nghiên cứu của chúng
tôi không có trường hợp nào tai biến phải
chuyển phương pháp khác, không có thủng tạng
hay tử vong xảy ra, có một trường hợp truyền 02
đơn vị máu trước phẫu thuật, nguyên nhân là
do bệnh nhân thiếu máu, hemoglobin và
hematocrit thấp.
Với thời gian nằm viện trung bình là 6,08 ±
2,36 ngày, dài hơn những nghiên cứu khác
nhưng bệnh nhân của chúng tôi phải điều chỉnh
đường huyết sau phẫu thuật ổn định mới cho
xuất viện, điều này với khoảng 6 ngày nằm viện
sau phẫu thuật là chấp nhận được và đây cũng
không phải là một thời gian quá dài so với các
nghiên cứu khác.
Đường huyết trước phẫu thuật
Loạt nghiên cứu này, bệnh nhân khi vào
viện được kiểm tra đường huyết bằng cách thử
nhanh đường huyết mao mạch để tầm soát
những trường hợp có chỉ số đường huyết quá
cao có thể đi vào hôn mê do tăng đường huyết,
sau đó làm xét nghiệm tiền phẫu có kiểm tra lại
đường huyết tương để cho một kết quả chính
xác và khách quan hơn. Kết quả đường huyết
trung bình lúc đói khi vào viện là 170,06 ± 28,13
mg/dL và HbA1c trung bình khi vào viện là 7,31
± 0,94 %, kết quả cho thấy bệnh nhân nhập viện
trong tình trạng chưa kiểm soát được đường
huyết của mình.
Nghiên cứu này có 14,10% TH phải chuyển
từ thuốc viên uống hạ đường huyết sang tiêm
insulin mixtard do đường huyết dao động,
thuốc uống không điều chỉnh được đường
huyết. Các trường hợp này sử dụng insulin đến
khi xuất viện và chỉ có 3,85% TH là sử dụng
thuốc uống trở lại đáp ứng tốt. Nghiên cứu cho
thấy 70,5% trường hợp không biết đang mắc
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
bệnh đái tháo đường, điều này dẫn đến tình
trạng đường huyết rất cao khi vào viện và cho
thấy rằng việc tuyên truyền vận động người dân
tầm soát đái tháo đường týp 2 trong cộng đồng
còn hạn chế.
Đường huyết và HbA1c sau phẫu thu
Tại thời điểm nhập viện, chỉ có một số ít
(29,5%) bệnh nhân biết mình có bệnh đái tháo
đường týp 2 và đang điều trị liên tục, số này
được theo dõi đường huyết hàng tháng tại cơ sở
Y tế và có kiểm tra HbA1c định kỳ, do đó kiểm
soát được đường huyết, số còn lại 70,5% không
biết mình đang bệnh đái tháo đường. Đây là
một tai họa thật sự khi phải phẫu thuật cấp cứu
tại các bệnh viện. Nghiên cứu của chúng tôi có
đường huyết trung bình lúc đói khi vào viện là
170,06 ± 28,13 mg/dL, nếu so với tiêu chuẩn chẩn
đoán đái tháo đường là 126mg/dL ( 7 mmol/L)
thì đây là mức đường huyết khá cao. Tình trạng
HbA1c trung bình khi vào viện là 7,31 ± 0,94 %,
kết quả cho thấy trong loạt nghiên cứu này bệnh
nhân nhập viện trong tình trạng chưa kiểm soát
tốt đường huyết của mình. Theo Guidelines của
Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ năm 2013
hướng dẫn: Nên thử HbA1c ít nhất mỗi năm 2
lần ở bệnh nhân đạt được mục tiêu điều trị và có
kiểm soát đường huyết ổn định(9), và Guidelines
cũng nêu rõ: Xét nghiệm HbA1c được khuyến
cáo sử dụng cho cả đái tháo đường týp1 và đái
tháo đường týp 2 tối thiểu hai lần trong một
năm. Khi đường huyết lúc đói không ổn định
trong ngày thì cho bệnh nhân xét nghiệm
HbA1c thường xuyên hơn 3 ‐ 4 tháng một lần.
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện xét nghiệm
đường huyết hàng tháng và HbA1c thực hiện
sau 3 tháng để đánh giá kết quả điều trị(9). Tái
khám sau 3 tháng: Đường huyết lúc đói trung
bình là 116,73 ± 11,08 mg/dL, so với đường
huyết lúc đói trung bình khi vào viện là 170,06 ±
28,13 mg/dL cho thấy quá trình điều trị có hiệu
quả, đường huyết trung bình giảm đáng kể và
gần như trở về mức bình thường. Tuy nhiên, để
đánh giá kết quả này, chúng tôi xét nghiệm lại
HbA1c với kết quả như sau: HbA1c trung bình
Niệu Khoa
Nghiên cứu Y học
lúc vào viện là 7,31 ± 0,94 %, HbA1c trung bình
sau 3 tháng là 6,35 ± 0,29 %. Theo các tác giả:
Trần Văn Thọ, Nguyễn Thy Khuê, Tạ Văn Bình
thì đường huyết được kiểm soát tốt nhất khi
HbA1c ≤6,5%(1,18). Việc theo dõi chỉ số HbA1c
giúp định hướng điều trị cho bệnh nhân, từ đó
ngăn ngừa và làm giảm các biến chứng của đái
tháo đường gây ra. Theo nhiều nghiên cứu lớn
trên thế giới, kiểm soát tốt đường huyết hàng
ngày bên cạnh chế độ ăn uống và tập luyện,
dùng thuốc đúng theo hướng dẫn có thể làm
thay đổi chỉ số HbA1c. Nhờ vậy, các nguy cơ
biến chứng của bệnh giảm đáng kể. Cụ thể, khi
HbA1c giảm 1%, bệnh nhân giảm được 21%
nguy cơ tiến triển đến bất kỳ biến chứng nào của
bệnh, giảm 37% nguy cơ biến chứng mạch máu
nhỏ, giảm 12% nguy cơ đột quỵ và giảm 14%
nguy cơ nhồi máu cơ tim(18).
+ Thay đổi đường huyết ở nhóm bệnh nhân
TURP với dung dịch Sorbitol và nhóm bệnh
nhân TURP bằng dung dịch Nacl 9‰.
Bảng 10
Tăng đường
huyết
Nhóm 1
Nhóm 2
Tổng
(mg/dL)
n
29
49
78
Thấp nhất
10
3
3
Cao nhất
135
140
140
Trung bình 28,55 ± 25,66 34,78 ± 27,77 32,46 ± 27,01
Trung vị
20
20
20
Nghiên cứu của chúng tôi chia 2 nhóm ngẫu
nhiên: Nhóm 1 gồm các trường hợp cắt đốt nội
soi tại Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM với
dung dịch cắt đốt là Nacl 0,9%, nhóm 2 gồm các
trường hợp cắt đốt nội soi tại Bệnh viện Nhân
Dân Gia Định với dung dịch cắt đốt là Sorbitol
3,3%. Trong mẫu nghiên cứu này, cả 2 nhóm
đều không có trường hợp nào hạ đường huyết
sau phẫu thuật.
Vấn đề tăng đường huyết được đánh giá
như sau: Sự thay đổi đường huyết được tính chỉ
số đường huyết trước phẫu thuật và đường
huyết sau khi phẫu thuật xong với cùng một
phương pháp đo. Theo phân tích, tăng đường
huyết trung bình của nghiên cứu chung là 32,46
73
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
± 27,01 mg/dL.
Phân tích theo nhóm, kết quả nhóm 1 có
tăng đường huyết trung bình sau phẫu thuật là
28,55 ± 25,66 mg/dL và nhóm 2 là 34,78 ± 27,77
mg/dL, với phép kiểm t Student: p=0,328, nhận
thấy sự thay đổi đường huyết sau phẫu thuật
của 2 nhóm là tương đương nhau, không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Điều này cho kết
quả là cắt đốt nội soi tăng sinh lành tính tuyến
tiền liệt trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2
bằng dung dịch Sorbitol 3,3% hay Nacl 0,9% thì
sự thay đổi đường huyết sau phẫu thuật tương
đồng nhau.
Khác nhau khi turp trên bệnh nhân đái
tháo đường
Về cơ bản, chỉ định của cắt đốt nội soi tăng
sinh lành tính tuyến tiền liệt trên bệnh nhân đái
tháo đường týp 2 phải tuân theo chỉ định chung
của cắt đốt nội soi. Đối với phẫu thuật chương
trình thì đường huyết từ 100 ‐ 180mg/dL, đường
niệu âm tính. Trong phẫu thuật cấp cứu thì
đường huyết phải dưới 300mg/dL(1). Khác biệt
khi cắt đốt nội soi trên bệnh nhân đái tháo
đường là phải dự hậu những biến chứng có thể
xảy ra do đái tháo đường gây nên, đặc biệt là
biến chứng về mạch máu và thần kinh. Đái tháo
đường gây tổn thương không hồi phục của hệ
thần kinh thực vật, tổn thương làm giảm khả
năng co bóp của bàng quang, ở mức độ nặng
dẫn đến đưa đến bàng quang hỗn loạn thần
kinh thể giảm trương lực. Bàng quang dần dần
giãn to, ứ đọng nước tiểu càng nhiều sẽ dẫn tới
ứ nước ở thận, nhiễm trùng tiết niệu, viêm mủ
bàng quang và bệnh lý bàng quang hỗn loạn
thần kinh ngày càng nặng thêm(4). Góp phần hạn
chế tình trạng tiểu không kiểm soát sau phẫu
thuật do biến chứng thần kinh của bệnh lý đái
tháo đường týp 2 gây nên. Chúng tôi thực hiện
đo áp lực đồ bàng quang cho tất cả mẫu nghiên
cứu nhằm đánh giá sức co bóp của bàng quang,
từ đó phát hiện sớm bệnh lý bàng quang hỗn
loạn thần kinh. Đánh giá lại kết quả phẫu thuật
của chúng tôi sau 3 tháng cho kết quả tốt. Nhằm
tránh những thay đổi lớn nồng độ đường huyết
74
trong quá trình phẫu thuật, chúng tôi thực hiện
theo hướng dẫn của tác giả Tạ Văn Bình (1) là sử
dụng monitoring đường huyết theo dõi chặt chẽ
khi phẫu thuật và chọn đường truyền tĩnh mạch
insulin ngay từ đầu để có thể theo dõi và quyết
định nồng độ đường huyết một cách có lợi nhất
cho bệnh nhân.
Phẫu thuật trên bệnh nhân đái tháo đường
dù thành công về mặt kỹ thuật và giải quyết
nguyên nhân của bệnh gốc nhưng thời gian hậu
phẫu mới thật sự khó khăn cho người thầy
thuốc. Bên cạnh những biến chứng có thể xảy ra
sau phẫu thuật thì tình trạng thay đổi đường
huyết cũng góp phần quan trọng cho thành
công hay thất bại của quá trình điều trị. Ngoài
những biến chứng như chảy máu kéo dài do xơ
cứng mạch máu, hôn mê do rối loạn chuyển
hóa, biến chứng rối loạn thần kinh, biến chứng
tim mạch, thận....thì việc kiểm soát tốt nồng độ
đường huyết sau phẫu thuật sẽ là một đóng góp
đáng kể cho việc hạn chế các biến chứng trên.
Lấy mẫu máu xét nghiệm nồng độ glucose mỗi 1
‐ 2 giờ trong lúc phẫu thuật và sau phẫu thuật
cho đến khi chuyển sang chế độ điều trị bằng
insulin tiêm dưới da hay thuốc hạ đường huyết
uống ( khi bệnh nhân đã ăn uống trở lại). Trong
thời gian này, giữ đường truyền dung dịch NaCl
0,9% sử dụng bồi hoàn sự thiếu hụt dịch trong
lòng mạch. Việc theo dõi đường huyết bằng
monitoring sau phẫu thuật là một khác biệt có ý
nghĩa khi phẫu thuật trên người bệnh đái tháo
đường. Monitoring đường huyết với insulin tĩnh
mạch sẽ giúp thầy thuốc điều chỉnh đường
huyết một cách hiệu quả.
KẾT LUẬN
‐ Có 11,2% số người phẫu thuật tăng sinh
lành tính tuyến tiền liệt mắc bệnh đái tháo
đường kèm theo có chỉ định phẫu thuật. Kết quả
chẩn đoán bệnh lý bướu lành tuyến tiền liệt và
đái tháo đường chính xác dựa theo hướng dẫn
của ADA 2013 và phác đồ AHCPR. Đánh giá
sau phẫu thuật 3 tháng có 97,4% kết quả tốt,
2,6% kết quả khá và không có loại kém.
‐ Trước phẫu thuật có 14,10% trường hợp
Chuyên Đề Ngoại Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
phải chuyển từ thuốc uống hạ đường huyết
sang tiêm insulin mixtard do đường huyết dao
động, loạt mẫu này sử dụng insulin đến khi xuất
viện, chỉ có 3,85% sử dụng trở lại thuốc uống
đáp ứng được điều trị. Theo dõi đường huyết
bằng monitoring trong lúc phẫu thuật với
insulin truyền tĩnh mạch giúp kiểm soát đường
huyết một cách an toàn. Không có trường hợp
nào hôn mê do tăng đường huyết.
‐ Sau 3 tháng điều trị, tình trạng đái tháo
đường trong mẫu nghiên cứu đạt được đường
huyết mục tiêu, qua việc kiểm soát đường huyết
nhỏ hơn 126mg/dL và HbA1c giảm 1%. Không
có sự khác biệt về đường huyết khi cắt đốt nội
soi bằng dung dịch Nacl 0,9% hay Sobitol 3,3%.
‐ Có 20,5% trường hợp nhiễm trùng niệu
trước phẫu thuật và 2,6% nhiễm trùng niệu sau
phẫu thuật. Trong đó Escherichia coli chiếm lần
lượt 81,2% và 100% trước và sau phẫu thuật.
‐ Đo áp lực đồ bàng quang trước phẫu thuật
loại ra 17% trường hợp bàng quang hỗn loạn
thần kinh góp phần giảm tỷ lệ tiểu không kiểm
soát sau phẫu thuật.
‐ Loạt nghiên cứu này không có trường
hợp nào tử vong, không có biến chứng tiểu
không kiểm soát sau phẫu thuật. Nghiên cứu
được đánh giá lại sau phẫu thuật 3 tháng cho
kết quả tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
American Diabetes Association (2010). ” Standards of Medical
Care in Diabetes ‐ 2010”. Diabetes Care, Vol 33, Suppl 1, pp.
11‐ 61.
Đỗ Tiến Dũng, Bùi Lê Vĩ Chinh, Phạm Thạnh (2010).” Nghiên
cứu ứng dụng kỹ thuật mổ cắt đốt nội soi điều trị u phì đại
lành tính tuyến tiền liệt”. Tạp chí Y Học Thành phố Hồ Chí
Minh, tập 17, phụ bản số 3‐2013, tr. 328 ‐ 333.
Đoàn Văn Nhã, Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Văn Sách
(2009).” Đánh giá sự thay đổi đường huyết ở bệnh nhân gây
mê nội khí quản để phẫu thuật”. Tạp chí Y Học Thành phố Hồ
Chí Minh, số 1‐ 2009, tr. 476 ‐ 480.
Đỗ Trung Quân (1998). ” Bệnh Đái tháo đường”. Nhà xuất
bản Y học Hà Nội, tr. 1 ‐ 30.
Đỗ Trung Quân (2007). ” Bệnh Đái tháo đường và điều trị”.
Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr. 7 ‐ 88.
Foo KT (1998). ” BPH in Asians – Singapore perspectives”. In
the 4th Asian Congress in Urology worshop. 16 September
1998, edited by UAA. FAUA and SUA, Singapore.
Guideline (2010). ” Phác đồ hướng dẫn chẩn đoán và điều trị
ung thư tuyến tiền liệt”. Hội Tiết Niệu Thận Học Việt Nam,
Niệu Khoa
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
Nghiên cứu Y học
tr. 1‐ 3.
Guideline (2012). ” Hướng dẫn xử trí tăng sinh lành tính
tuyến tiền liệt”. Hội Tiết Niệu Thận Học Việt Nam, tr. 5 ‐ 6.
Guidelines ADA (2013). ” Perform A1C Test: At least 2 times each
year in patients who are meeting treatment goals and have stable
glycemic control”. American Diabetes Association. Standards
of medical care in diabetes‐2013. Diabetes Care. 2013, 36,
(suppl 1), pp. 11‐ 66.
Holtgrewe HL (2000). ” Transurethral resection of the
prostate”. Prostatic diseases, W.B. Saunders Company,
Philadelphia, pp. 232 ‐ 245.
Javle P, Jenkins S, et al (1996). ” Quantification of voiding
dysfuntion in patients awaiting transurethral prostatectomy”.
J Urol, vol 156, pp. 1014 ‐ 1019.
Javle P, Jenkins S, Machin D, Parsons K (1998). ” Grading of
benign prostatic obtruction can predict the outcome of
transurethral prostatectomy”. J Urol, vol 160, (5), pp. 1713 ‐
1717.
Shim KS, Koh SK, Lee JG (1999). ” Correlation among
symptom score, peak urine flow, prostate volume and
obstructive parameters as analyzed in pressure‐flow studies
for the patients with benign prostate hyperplasia in whom
TURP will be contemplated”. J Korean Continence Society, vol
3, (1), pp. 41‐ 50.
Kirby RS (2000). The natural history of BPH: what have we
learned in the last decade ? Urology, 56, pp. 3 ‐ 6.
Lepor H, et al (2002). ” Evaluation and non surgical
management of benign prostatic hyperplasia”. Campbell′s
Urology, W. B. Saunders Company, vol 2, pp. 1337 ‐ 1378.
Lương Minh Tùng (2010). Đánh giá kết quả điều trị nội khoa bí
tiểu cấp do bướu lành tuyến tiền liệt. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ
Nội trú, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 76 ‐ 78.
Marmiroli R, Antunes AA, Reis ST, Nakano E, Srougi M
(2012). ” Standard Surgical treament for benign prostatic
hyperplasia is safe for patients over 75 years: analysis of 100
cases from a high‐volume urologic center”. Hospital das
Clínicas da Faculdade de Medicina da Universidade Sao
Paulo, Division of Urology, 67(12), pp. 1415 ‐ 1418.
Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007). ”Nội Tiết học đại
cương”. Tập 2, Nhà xuất bản Y học, chi nhánh Thành phố Hồ
Chí Minh.
McConnell JD, Barry NJ, Bruskewitz RC, et al (1996). ”Clinical
practice guideline of benign prostatic hyperplasia”. edited by
Public Health Service and Agency for Health Care Policy and
research (AHCPR), U.S. Department of Health and Human
Services, AHCPR, Publication No. 94 ‐ 0582, number 8, in
Urology Medline 96, National Library of Medicine USA.
Mebust WK (1992). ”Transurethral Surgery”. In Campbell′s
Urology, Sixth Edition, published by W. B. Saunders
Company, Volum 3, chapter 80, pp. 2900 ‐ 2941.
Nguyễn Bửu Triều, Nguyễn Kỳ (1995) ”Biến chứng sau cắt
nội soi u phì đại lành tính tuyến tiền liệt trên 50gram”. Y Học
thực hành, (7+8), tr. 35‐36.
Nguyễn Phú Việt (2006). Nghiên cứu kết quả điều trị u phì đại
lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp cắt nội soi tại bệnh viện
103. Luận án Tiến sĩ, Học viện Quân Y 103.
Nguyễn Trường An (2008). ”Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt
u lành tính tuyến tiền liệt bằng nội soi qua niệu đạo”. Đề tài
nghiên cứu khoa học tại khoa Ngoại trường Đại học Y Dược
Huế. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, số đặc biệt 2008, tr.
187 ‐ 192.
75
Nghiên cứu Y học
24.
25.
26.
27.
28.
76
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Phạm Hữu Đoàn (2008). Mối liên quan giữa độ nhô vào lòng
bàng quang của bướu lành tuyến tiền liệt và sự bế tắc dòng tiểu.
Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược Thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 69 ‐ 79.
Somers WJ, Mora MJ, Mason MF, Padley RJ (1996). ”The
natural history of benign prostatic hypertrophy: incidence of
urinary retention and significance of AUA symptom score”. J
Urol, 155: abstract 1102
Trần Ngọc Sinh (2001). Chỉ định cắt đốt nội soi trong bế tắc
đường tiết niệu dưới do bướu lành tiền liệt tuyến. Luận án Tiến sĩ
Y khoa, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 52 ‐ 58.
Tạ Văn Bình (2007). ”Những nguyên lý nền tảng bệnh Đái
tháo đường ‐ tăng glucose máu”. Nhà xuất bản Y học Hà Nội,
tr. 3 ‐ 23.
Trần Thanh Phong, Trương Hoàng Minh, Võ Phước Khương,
Lê Đình Hiếu, Phạm Lê Duy, Đỗ Anh Đức, Trương Sĩ Vinh,
Phạm Mạnh Sùng (2010). ”Đánh giá kết quả điều trị bướu
lành tiền liệt tuyến bằng phương pháp cắt đốt nội soi tại bệnh
viện 115”. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 14, phụ bản số 3
‐ 2010.
29.
30.
31.
Trần Văn Hinh (2013). ”Bệnh tăng sản lành tính tuyến tiền
liệt”. Trong quyển: Bệnh lý các khối u đường tiết niệu. Nhà
xuất bản Y học Hà Nội, tr. 7 ‐ 33.
World Health Organization (2011). Use of Glycated
Haemoglobin (HbA1c) in the Diagnosis of Diabetes Mellitus ‐
Abbreviated Report of a WHO Consultation.
Yamaguchi Y, Homma Y, Kawaben K, Tsukamoto T,
Yamaguchi O, Okada K, Aso Y, Watanabe H, Okajima E,
Kumazawa J, Ohashi Y (1996). ”Estimate Criteria for Efficacy
of Treatment in Benign Prostatic Hyperplasia”. International
Journal of Urology, pp. 267 ‐ 273.
Ngày nhận bài báo: 15/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa