Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đánh giá kết quả cắt đốt nội soi ngả niệu đạo tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.35 KB, 10 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẮT ĐỐT NỘI SOI NGẢ NIỆU ĐẠO  
TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT TRÊN BỆNH NHÂN  
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 
Nguyễn Lê Tuyên*, Trần Ngọc Sinh** 

TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Cắt đốt nội soi ngả niệu đạo tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt trên người bệnh đái tháo đường 
týp 2 chưa được nghiên cứu tại nước ta. Tần suất mắc bệnh đái tháo đường cao, biến chứng của bệnh lý đái tháo 
đường trên hệ Tiết niệu phức tạp. 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chẩn đoán và phẫu thuật tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt trên 
người bệnh đái tháo đường bằng phương pháp cắt đốt nội soi qua ngả niệu đạo. 
Đối tượng nghiên cứu: Nam giới bệnh tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt kèm theo đái tháo đường týp 2 có 
chỉ định cắt đốt nội soi, được phẫu thuật tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Bệnh viện 
Nhân Dân Gia Định trong 2 năm 2012 ‐ 2013. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả hàng loạt trường hợp. 
Kết  quả: Nghiên cứu 78 trường hợp có độ tuổi trung bình 73,85 ± 7,96 tuổi. Khối lượng tuyến tiền liệt 
63,36 ± 7,74g. Thể tích nước tiểu tồn lưu 114,64 ± 65,48 mL, thời gian cắt đốt 62,69 ± 27,10 phút. IPSS 29,12 ± 
2,69 điểm, QoL 4,32 ± 0,57 điểm. PSA 5,22 ± 2,79 ng/mL, đường huyết khi vào viện 170,06 ± 11,08 mg/dL, 
HbA1c 7,31 ± 0,94%. Có 70,5% trường hợp hoàn toàn không biết đang mắc bệnh đái tháo đường, 5,1% trường 
hợp gia đình có người bệnh đái tháo đường nhưng bản thân vẫn không biết đang mắc bệnh. Đo áp lựa đồ bàng 
quang loại ra 17% trường hợp bàng quang hỗn loạn thần kinh. Sử dụng kháng sinh dự phòng cho các trường 
hợp tiểu máu, bí tiểu phải đặt thông. Cấy nước tiểu trước và sau phẫu thuật: 20,5% nhiễm trùng niệu trước 
phẫu thuật và 2,6% nhiễm trùng niệu sau phẫu thuật ( E. Choli chiếm 100% trường hợp sau phẫu thuật). Sau 
phẫu thuật 3 tháng: RUV 21,47 ± 6,25 mL, IPSS 16,24 ± 1,29 điểm, đường huyết trung bình 116,73 ± 11,08 
mg/dL, HbA1c 6,35 ± 0,29%, có 1,3% hẹp niệu đạo. Nghiên cứu này không có trường hợp nào tử vong hay tiểu 
không kiểm soát sau phẫu thuật. 
Kết luận: Cắt đốt nội soi tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt trên người đái tháo đường týp 2 cho kết quả tốt 


như cắt đốt nội soi trên người không mắc bệnh đái tháo đường với điều kiện kiểm soát tốt đường huyết trước, 
trong và sau phẫu thuật với moritoring đường huyết và insulin tĩnh mạch. Không có khác biệt về thay đổi đường 
huyết sau phẫu thuật khi TURP bằng dung dịch Nacl 0,9% với chế độ bipolar và TURP bằng dung dịch sorbitol 
3,3% với chế độ monopolar.  
Từ khóa: tuyến tiền liệt, đái tháo đường týp 2, cắt đốt nội soi 

ABSTRACT 
ASSESSMENT RESULTS ABLATION URETHRA RUSSIAN ENDOSCOPY 
PROLIFERATIVE BENIGN PROSTATIC IN PATIENTS 2 DIABETIC 
Nguyen Le Tuyen, Tran Ngoc Sinh  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 – 2014: 67 ‐ 76 
Background: Endoscopic Ablation reclining urethra proliferative benign prostate disease in people with type 
* Bệnh viện Đa Khoa Tiền Giang   ** Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Lê Tuyên  ĐT: 0928033323  Email:  

Niệu Khoa 

67


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

2 diabetes have not been studied in our country. The incidence of high diabetes, complications of diabetes mellitus 
on the system Urology complex. 
Study  objectives:  Review  the  diagnosis  and  surgical  proliferative  benign  prostate  disease  in  people  with 
diabetes by endoscopic ablation methods by way of the urethra. 
Study  subjects:  Men  benign  proliferative  disease  prostate  with  type  2  diabetes  indicated  endoscopic 
ablation,  surgery  at  the  Medical  University  Hospital  in  Ho  Chi  Minh  City  Peopleʹs  Hospital,  Gia  Dinh  in  2 

years from 2012 to 2013. 
Research Methodology: Prospective descriptive case series. 
Results:  78  case  studies  with  an  average  age  of  73.85  ±  7.96  years  old.  Prostate  weight  63.36  ±  7.74  g. 
Residual urine volume of 114.64 ± 65.48 mL, 62.69 ± ablation time 27.10 minutes. IPSS score 29.12 ± 2.69, 4.32 
± 0.57 QOL. PSA 5.22 ± 2.79 ng / mL, glucose on admission 170.06 ± 11.08 mg / dL, HbA1c 7.31 ± 0.94 %. 
There are 70.5 % of cases are totally ignorant with diabetes, 5.1 % of families who have diabetes but still do not 
know  themselves  are  sick.  Map  bladder  manometry  for  17%  of  the  cases  bladder  nerve  disorder.  Use  of 
prophylactic  antibiotics  for  cases  of  hematuria,  urinary  retention  to  put  information.  Urine  culture  before  and 
after surgery: 20.5 % preoperative urinary infection and urinary tract infection 2.6 % after surgery ( up 100 % 
E. choli cases after surgery). After surgery 3 months: 21.47 ± 6.25 mL RUV,  IPSS  score  of  16.24  ±  1.29,  the 
average blood sugar 116.73 ± 11.08 mg / dL, HbA1c 6.35 ± 0.29 %, 1.3 % have narrow urethra. This study did 
not have any deaths or cases of urinary incontinence after surgery. 
Conclusion: Endoscopic  Ablation  proliferative  benign  prostate  in  humans  with  type  2  diabetes  for  good 
results as endoscopic ablation in non‐diabetics with diabetic conditions good glycemic control before, during and 
after surgery with blood sugar and insulin  moritoring  vein.  There  was  no  difference  in  blood  glucose  changes 
after the TURP surgery in 0.9 % NaCl solution and TURP with bipolar mode with 3.3 % sorbitol solution with 
Monopolar mode. 
Keywords: prostate, diabetes mellitus type 2, endoscopic ablation 
ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị dù quá trình 
MỞ ĐẦU 
phẫu thuật thành công mỹ mãn. Tại Việt Nam, 
Tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt là bệnh lý 
nhiều công trình nghiên cứu về bệnh lý này và 
phổ  biến  của  nam  giới  lớn  tuổi.  Trên  Thế  giới, 
cắt đốt nội soi cũng được áp dụng rộng rãi ở các 
khoảng 60% nam giới ở tuổi 60 bị tăng sinh lành 
bệnh  viện,  nhưng  vấn  đề  phẫu  thuật  tăng  sinh 
tính tuyến tiền liệt(10,14), tần suất bệnh tăng dần 
lành  tính  tuyến  tiền  liệt  trên  người  đái  tháo 
theo tuổi nên số người mắc bệnh ngày càng cao. 

đường  týp  2  vẫn  chưa  được  nghiên  cứu  vì 
Điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt khi có 
những biến chứng phức tạp do đái tháo đường 
rối loạn đi tiểu nặng và có biến chứng chủ yếu là 
gây  nên,  mặt  khác  không  ít  Bác  sĩ  Niệu  khoa 
ngoại khoa. Trong các phương pháp phẫu thuật 
chưa  thật  sự  an  tâm  khi  phẫu  thuật  trên  bệnh 
thì  cắt  đốt  nội  soi  qua  ngả  niệu  đạo  được  ưa 
nhân đái tháo đường mà luôn phải có sự hỗ trợ 
chuộng  nhất  vì  có  ưu  thế  kỹ  thuật  ít  xâm  hại, 
tích cực từ Bác sĩ chuyên ngành Nội tiết.  
hiệu quả cao và thời gian nằm viện ngắn. Tại các 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
nước Âu Mỹ, cắt đốt nội soi chiếm trên 90% các 
trường  hợp  và  được  đánh  giá  là  tiêu  chuẩn 
Đối tượng nghiên cứu 
vàng(6,20).  Tuy  nhiên,  cắt  đốt  nội  soi  tăng  sinh 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
lành  tính  tuyến  tiền  liệt  dù  được  xem  là  tiêu 
Bệnh nhân nam nhập viện được chẩn đoán 
chuẩn  vàng  nhưng  vẫn  tồn  tại  một  tỷ  lệ  biến 
tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt kèm theo đái 
chứng  quan  trọng,  đặc  biệt  là  tiểu  không  kiểm 
tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia 
soát sau phẫu thuật. Những biến chứng này làm 

68

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Định và Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố 
Hồ  Chí  Minh.  Có  chỉ  định  phẫu  thuật  cắt  đốt 
nội soi.  

Tiêu chuẩn loại trừ(26) 
Bệnh nhân không hợp tác. 
Các trường hợp chưa hoặc không có chỉ định 
phẫu thuật. 
Bàng quang hỗn loạn thần kinh, viêm bàng 
quang, hẹp cổ bàng quang. 
Ung thư tuyến tiền liệt. 

Nghiên cứu Y học

‐ Trước phẫu thuật: Dựa vào chỉ số PSA. 
PSA ≤ 4ng/mL. 
4  ng/mL  <  PSA  <  10  ng/mL  và  PSA  Free  > 
25%(8) 
10  ng/mL  ≤  PSA  và  PSA  Free  >  25%:  sinh 
thiết tuyến tiền liệt. 
Nếu  sinh  thiết  lành  tính:  cho  vào  lô  nghiên 
cứu. 
Nếu  sinh  thiết  ác  tính:  loại  không  nghiên 
cứu. 

Hôn mê do đái tháo đường, đái tháo đường 
týp 1. 


4  ng/mL  <  PSA  và  PSA  Free  <  25%:  loại 
không nghiên cứu. 

Rối loạn đông máu, mắc các bệnh kèm theo 
chưa ổn định. 

Tất cả các trường hợp đều phải có PSA Free 
> 25%. 

Hẹp  niệu  đạo,  di  chứng  biến  dạng  khung 
chậu và khớp háng. 
Mang  máy  tạo  nhịp  tim  không  hệ  thống 
chống nhiễu. 
Không theo dõi được bệnh nhân. 

‐ Sau phẫu thuật: 
‐  Các  trường  hợp  cắt  đốt  nội  soi  được  lấy 
mẫu mô TTL gởi Giải phẫu bệnh. 
Nếu  kết  quả  lành  tính:  cho  vào  loạt  nghiên 
cứu. 

Phương pháp nghiên cứu 

Nếu kết quả ác tính: loại không nghiên cứu. 

Nghiên  cứu  tiến  hành  theo  phương  pháp 
tiến cứu mô tả hàng loạt trường hợp. 

● Chẩn đoán đái tháo đường:(1,30) 


Nội dung nghiên cứu 
Chẩn đoán bệnh  
+ Quy trình chẩn đoán và chỉ định phẫu thuật. 
Theo  trình  tự  chẩn  đoán  của  phác  đồ 
AHCPR(19),  để  chọn  bệnh  nhân  tăng  sinh  lành 
tính  tuyến  tiền  liệt  cho  phẫu  thuật  phải  qua  3 
bước chính: 
‐  Chẩn  đoán  tăng  sinh  lành  tính  tuyến  tiền 
liệt,  đánh  giá  các  triệu  chứng  và  dấu  hiệu  lâm 
sàng, đánh giá tình trạng bế tắc do tuyến tiền liệt 
gây ra. 
● Đo áp lực đồ bàng quang(29) 
Đo áp lực đồ bàng quang cho tất cả trường 
hợp nhằm: 
‐ Phát hiện bàng quang hỗn loạn thần kinh. 
‐ Đánh giá sức co bóp của bàng quang. 
●Tiêu chí đánh giá tăng sinh lành tính tuyến 
tiền liệt: 

Niệu Khoa 

Chẩn đoán đái tháo đường được Tổ chức Y 
tế Thế giới công nhận năm 2010, cập nhật 2013, 
thỏa một trong các tiêu chí sau:  
‐  Một  mẫu  đường  huyết  bất  kỳ  ≥  11,1 
mmol/L. 
‐ Đường huyết lúc đói ≥ 7 mmol/L. 
‐  Đường  huyết  2  giờ  sau  khi  uống  75g 
glucose ≥ 11,1 mmol/L. 
‐ HbA1c ≥ 6,5%. 

Các xét nghiệm được thực hiện 2 lần, vào 2 
thời điểm khác nhau. 

Đánh giá kết quả 
Kết quả phẫu thuật 
Có  nhiều  cách  đánh  giá  kết  quả  cắt  đốt  nội 
soi  tăng  sinh  lành  tính  tuyến  tiền  liệt:  Tác  giả 
Yukio  Homma  và  cộng  sự(31),  tác  giả  Nguyễn 
Bửu Triều... Nghiên cứu này chọn cách đánh giá 
theo tác giả Nguyễn Bửu Triều. 
Phép kiểm thống kê 

69


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

Các tham số nghiên cứu được mã hóa và xử 
lý bằng phần mềm SPSS 16.0, các biến số rời rạc 
được phân tích và kiểm định bằng test chi bình 
phương và các biến số liên tục được kiểm định 
bằng T‐test. Kết quả trình bày dưới dạng trung 
bình và chỉ số p có ý nghĩa khi p < 0,05. 

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Có 78 trường hợp được chọn chỉ định cắt đốt 
nội  soi  theo  phác  đồ.  Trong  đó:  29  trường  hợp 
tại  Bệnh  viện  Đại  Học  Y  Dược  Thành  phố  Hồ 

Chí Minh cắt đốt nội soi bằng bipolar với dung 
dịch  Nacl  0,9%  và  49  trường  hợp  tại  Bệnh  viện 
Nhân  Dân  Gia  Định  cắt  đốt  nội  soi  bằng 
monopolar với dung dịch Sorbitol 3,3%. 

Đặc điểm bệnh nhân  
Tuổi 
Bảng 1. Phân bố theo nhóm tuổi  
Nhóm tuổi
Tần số
Tỷ lệ %

60 - 69
23
29,5%

70 - 79
36
46,2%

≥ 80
19
24,3%

Tổng
78
100%

Lý do vào viện 
Bảng 2: Lý do vào viện chủ yếu của mẫu nghiên cứu.  

Lý do vào viện
Tiểu khó
Bí tiểu cấp
Tiểu máu
Mở BQRD do bí tiểu
cấp
Tổng cộng

Số trường hợp Tỷ lệ %,(n = 78)
54
69,2%
19
24,4%
4
5,1%
1
1,3%
78

100%

Tiền căn Đái tháo đường

Số trường Tỷ lệ %,
hợp
(n=78)
Đang điều trị đái tháo đường
23
29,5%
Không biết mắc bệnh ĐTĐ trước khi

55
70,5%
vào viện
Tổng cộng
78
100%

Tăng đường huyết sau phẫu thuật 
Bảng 3. Tăng đường huyết sau phẫu thuật. 

70

28,55 ± 25,66 34,78 ± 27,77 32,46±27,01
20
20
20

Nghiên cứu này được chia làm 2 nhóm ngẫu 
nhiên: 
Nhóm 1:  gồm  29  trường  hợp  của  bệnh  viện 
Đại Học Y Dược được cắt đốt nội soi với chế độ 
cắt bipolar và dung dịch cắt đốt là Nacl 0,9%  
Nhóm 2:  gồm  49  trường  hợp  của  bệnh  viện 
Nhân Dân Gia Định được cắt đốt nội soi với chế 
độ  cắt  monopolar  và  dung  dịch  cắt  đốt  là 
Sorbitol 3,3%. 
Tăng  đường  huyết  trung  bình  sau  phẫu 
thuật  của  nhóm  1  là  28,55  ±  25,66  mg/dL  và 
nhóm 2 là 34,78 ± 27,77 mg/dL với p = 0,328 cho 
thấy  tăng  đường  huyết  trung  bình  sau  phẫu 

thuật của 2 nhóm là tương đồng nhau, không có 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 

Thể tích nước tiểu tồn lưu (RUV) 
Bảng 4. So sánh nước tiểu tồn lưu trước và sau phẫu 
thuật 
Nước tiểu tồn Trước phẫu Sau phẫu thuật Giá trị p
lưu (mL)
thuật
Thấp nhất
40
10
Cao nhất
450
40
< 0.001
Trung bình
114,64 ± 65,48 21,47 ± 6,25
Trung vị
100
20

Điểm số IPSS: 
Bảng 5. So sánh điểm số IPSS trước và sau phẫu 
thuật 
Điểm số IPSS

Tiền căn Đái tháo đường týp 2 
Bảng 3: Tiền căn ĐTĐ týp 2 


Tăng đường
huyết
(mg/dL)
n
Thấp nhất
Cao nhất

Trung bình
Trung vị

Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị

Nhóm 2

Tổng

29
10
135

49
3
140

78
3
140


Giá trị p

< 0.001

Điểm chất lượng cuộc sống ( QoL): 
Bảng 6. So sánh điểm chất lượng cuộc sống trước và 
sau phẫu thuật. 
QoL

Nhóm 1

Trước phẫu Sau phẫu
thuật
thuật
19
14
33
20
29,12 ± 2,69 16,24 ± 1,29
30
16

Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị

Trước phẫu
thuật

3
5
4,32 ± 0,57
4

Sau phẫu
thuật
1
4
2,33 ± 0,59
2

Giá trị p

< 0.001

Lưu lượng nước tiểu trung bình ( Qave).  

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Bảng 7. So sánh lưu lượng nước tiểu trung bình 
trước và sau phẫu thuật 
Qave

Trước phẫu Sau phẫu Giá trị p
thuật
thuật
3

1
12
15
< 0.001
4,42 ± 1,85 13,41 ± 1,95
4
14

Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị

HbA1c  
Bảng 8. So sánh HbA1c lúc vào viện và sau 3 tháng 
HbA1c
Thấp nhất
Cao nhất
Trung bình
Trung vị

Lúc vào viện Sau 3 tháng Giá trị p
5,3 %
5,3 %
12 %
7%
< 0.001
7,31 ± 0,94 % 6,35 ± 0,29 %
7,0
6,4


Đường huyết 
Bảng 9. So sánh đường huyết khi vào viện và sau 
điều trị 3 tháng 
Đường
huyết

Khi vào viện Sau 3 tháng
170,06 ±
116,73 ±
28,13
11,08

Giá trị p
< 0.001

BÀN LUẬN 
Trong  78  mẫu  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có 
60,3%  trường  hợp  bệnh  nhân  ở  Thành  Phố  Hồ 
Chí  Minh  và  39,7%  trường  hợp  đến  từ  13  tỉnh 
thành khác nhau.Tuổi trung bình là: 73,85 ± 7,96 
tuổi, thấp nhất là 60 tuổi, cao nhất là 94 tuổi. Độ 
tuổi  này  cũng  tương  đồng  với  các  nghiên  cứu 
tương tự trong nước như: nghiên cứu của tác giả 
Nguyễn Trường An, độ tuổi trung bình là 73,56 
± 8,06(23). Đa số bệnh nhân đến bệnh viện trong 
tình  trạng  nặng  và  có  biến  chứng.  Có  4  lý  do 
nhập viện là: Tiểu khó, bí tiểu, tiểu máu và mở 
bàng  quang  ra  da  do  bí  tiểu  có  đặt  thông  niệu 
đạo bàng quang nhưng thất bại.  

Có  29,5%  TH  đang  điều  trị  đái  tháo  đường 
týp  2  tại  các  bệnh  viện,  những  bệnh  nhân  này 
điều trị liên tục và có khám định kỳ hàng tháng 
tại  cơ  sở  Y  tế.  Đa  số  mắc  bệnh  trên  10  năm. 
Nghiên cứu này cho thấy có 1/3 số bệnh nhân là 
biết tình hình bệnh tật của mình và có theo dõi 
điều  trị.  Tuy  nhiên  có  55/78  trường  hợp  không 
biết bị bệnh Đái tháo đường chiếm tỷ lệ 70,5%, 
những  bệnh  nhân  này  chỉ  phát  hiện  đái  tháo 
đường týp 2 sau khi làm xét nghiệm tiền phẫu. 

Niệu Khoa 

Nghiên cứu Y học

Một  tỷ  lệ  khác  cho  thấy  5,1%  trường  hợp  gia 
đình có người mắc bệnh đái tháo đường nhưng 
bản thân người bệnh vẫn không biết mình đang 
bị bệnh. 

Kết quả phẫu thuật 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  IPSS  của  mẫu 
nghiên  cứu  là  29,12  ±  2,69  điểm,  trong  đó  1,7% 
có điểm số IPSS mức độ trung bình, 98,3% mức 
độ  nặng  và  không  có  trường  hợp  nhẹ.  So  sánh 
nghiên  cứu  trong  nước  của  các  tác  giả,  Lương 
Minh Tùng, Phạm Hữu Đoàn, Nguyễn Phú Việt 
nhận thấy rằng: Tỷ lệ bệnh nhân có thang điểm 
IPSS mức độ nặng của chúng tôi cao hơn so với 
các tác giả khác. Riêng tỷ lệ điểm số IPSS mức độ 

trung  bình  thì  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  thấp 
hơn  các  tác  giả  khác(24,26,16,22).  Nghiên  cứu  của 
Sagnier và cộng sự (n=2011, tuổi 50‐80) thì tỷ lệ 
bệnh  nhân  có  thang  điểm  IPSS  mức  độ  nhẹ  là 
86%,  trung  bình  13%  và  nặng  1%.  Nghiên  cứu 
tại Malaysia (n = 575, tuổi trên 50) cho tỷ lệ thang 
điểm  IPSS  mức  độ  nhẹ  là  41,5%,  trung  bình 
39,6%  và  nặng  là  18,9%(25).  Nhận  xét  chung  cho 
thấy những nghiên cứu trong nước đều có tỷ lệ 
thang  điểm  IPSS  mức  độ  nặng  cao  hơn  nước 
ngoài và mức độ nhẹ thì luôn thấp hơn. 
Nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi từ 60 ‐ 
94, tuổi trung bình là 73,85 ± 7,96 tuổi. Qua thời 
gian theo dõi sau cắt đốt nội soi 3 tháng, kết quả 
nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện về điểm số 
IPSS, điểm trung bình trước phẫu thuật từ 29,12 
±  2,69  điểm  giảm  xuống  còn  16,24  ±  1,29  điểm. 
Điều này khẳng định sau phẫu thuật tình trạng 
tiểu khó của bệnh nhân đã giảm hẳn, dù không 
chuyển  được  IPSS  từ  mức  độ  nặng  về  mức  độ 
nhẹ, nhưng sau cắt đốt nội soi tất cả bệnh nhân 
đều  chuyển  về  mức  độ  trung  bình  và  họ  chấp 
nhận được với kết quả phẫu thuật này. 
Thể  tích  nước  tiểu  tồn  lưu  là  thể  tích  nước 
tiểu  còn  lại  trong  bàng  quang  ngay  sau  khi  đi 
tiểu  xong(15).  Theo  Hinman  và  Cox  (  1967),  thể 
tích  nước  tiểu  tồn  lưu  bình  thường  từ  0,09  ‐ 
2,24mL,  trung  bình  là  0,53mL.  Người  đàn  ông 
bình thường,  78%  có  thể  tích  nước  tiểu  tồn  lưu 
dưới 5mL, và 100% có thể tích nước tiểu tồn lưu 


71


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

dưới 12mL(15). Theo một số tác giả, thể tích nước 
tiểu tồn lưu trên 70mL được xem là có chỉ định 
phẫu  thuật(11,12).  Tuy  nhiên,  có  tác  giả  cho  rằng 
thể tích nước tiểu tồn lưu trên 100mL mới có ý 
nghĩa. Thực tế lâm sàng cho thấy thể tích nước 
tiểu  tồn  lưu  không  phải  là  trị  số  cố  định  trong 
các thời điểm đo khác nhau, sai số của công thức 
ước tính và siêu âm. Do đó, ngoài thể tích nước 
tiểu  tồn  lưu  ta  cũng  cần  kết  hợp  thêm  các  tiêu 
chuẩn  khác  (IPSS,  QoL,  Qmax...)  để  đưa  ra  một 
quyết định phẫu thuật hợp lý hơn. 
Nghiên cứu của chúng tôi, thể tích nước tiểu 
tồn lưu trung bình là 114,64 ± 65,48 mL, của tác 
giả  Nguyễn  Đạo  Thuấn  là  91,8mL,  nghiên  cứu 
của tác giả Kang Soo Shim là 193,8mL(13). Kết quả 
cho  thấy  thể  tích  nước  tiểu  tồn  lưu  trung  bình 
trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi cao hơn hai 
tác  giả  trong  nước  nhưng  lại  thấp  hơn  nghiên 
cứu  của  Kang  Soo  Shim.  Khi  theo  dõi  điều  trị 
qua 3 tháng sau cắt đốt nội soi, chúng tôi nhận 
thấy có sự cải thiện đáng kể so với trước khi cắt 
đốt nội soi. Thể tích nước tiểu tồn lưu trung bình 

sau cắt đốt nội soi là 21,47 ± 6,25 mL. Mặc dù thể 
tích nước tiểu tồn lưu sau cắt đốt nội soi vẫn còn 
cao  nhưng  tất  cả  bệnh  nhân  khi  tái  khám  đều 
tiểu thông, cảm thấy hài lòng, không có trường 
hợp nào tiểu không kiểm soát.  
Thời  gian  phẫu  thuật  trung  bình  là  62,69  ± 
27,10  phút.  Loạt  nghiên  cứu  này  không  có 
trường hợp nào bị hội chứng cắt đốt nội soi xảy 
ra,  thời  gian  cắt  đốt  trung  bình  62,69  ±  27,10 
phút.  Nghiên  cứu  của  các  tác  giả  trong  nước: 
Nguyễn  Trường  An  với  thời  gian  phẫu  thuật 
trung  bình  là  61,39  ±  24,04  phút,  khối  lượng 
bướu  trung  bình  55,94  ±  22,47gram(23),  Trần 
Thanh  Phong  với  thời  gian  phẫu  thuật  trung 
bình  là  43,1  phút,  khối  lượng  bướu  trung  bình 
47,5gram(28).  
Thời gian nằm viện sau cắt đốt nội soi ngắn 
nhất là 3 ngày, dài nhất 12 ngày và trung bình là 
6,08 ± 2,36 ngày. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Trường  An,  thời  gian  nằm  viện  trung  bình  sau 
phẫu  thuật  là  5  ±  1,88  ngày(23),  của  tác  giả  Đỗ 
Tiến Dũng trung bình là 4‐5 ngày(2). Theo chúng 

72

tôi,  thời  gian  sau  cắt  đốt  nội  soi  rất  quan  trọng 
đôi lúc phẫu  thuật  viên  hay  chủ  quan  vì  đã  ổn 
khi phẫu thuật xong. Tuy nhiên, thời gian này có 
rất nhiều biến chứng xảy ra như  chảy máu sau 
phẫu  thuật,  nhiễm  trùng  bệnh  viện,  đau  sau 

phẫu thuật, viêm phổi..... và đặc biệt là tử vong 
do  nhồi  máu  cơ  tim  đã  xảy  ra  trong  một  số 
nghiên cứu tương tự(26,21). Nghiên cứu của chúng 
tôi  không  có  trường  hợp  nào  tai  biến  phải 
chuyển phương pháp khác, không có thủng tạng 
hay tử vong xảy ra, có một trường hợp truyền 02 
đơn  vị  máu  trước  phẫu  thuật,  nguyên  nhân  là 
do  bệnh  nhân  thiếu  máu,  hemoglobin  và 
hematocrit thấp. 
Với thời gian nằm viện trung bình là 6,08 ± 
2,36  ngày,  dài  hơn  những  nghiên  cứu  khác 
nhưng bệnh nhân của chúng tôi phải điều chỉnh 
đường  huyết  sau  phẫu  thuật  ổn  định  mới  cho 
xuất viện, điều này với khoảng 6 ngày nằm viện 
sau phẫu thuật là chấp nhận được và đây cũng 
không  phải  là  một  thời  gian  quá  dài  so  với  các 
nghiên cứu khác. 

Đường huyết trước phẫu thuật 
Loạt  nghiên  cứu  này,  bệnh  nhân  khi  vào 
viện được kiểm tra đường huyết bằng cách thử 
nhanh  đường  huyết  mao  mạch  để  tầm  soát 
những  trường  hợp  có  chỉ  số  đường  huyết  quá 
cao có thể đi vào hôn mê do tăng đường huyết, 
sau đó làm xét nghiệm tiền phẫu có kiểm tra lại 
đường  huyết  tương  để  cho  một  kết  quả  chính 
xác  và  khách  quan  hơn.  Kết  quả  đường  huyết 
trung bình lúc đói khi vào viện là 170,06 ± 28,13 
mg/dL và HbA1c trung bình khi vào viện là 7,31 
± 0,94 %, kết quả cho thấy bệnh nhân nhập viện 

trong  tình  trạng  chưa  kiểm  soát  được  đường 
huyết của mình. 
Nghiên cứu này có 14,10% TH phải chuyển 
từ  thuốc  viên  uống  hạ  đường  huyết  sang  tiêm 
insulin  mixtard  do  đường  huyết  dao  động, 
thuốc  uống  không  điều  chỉnh  được  đường 
huyết. Các trường hợp này sử dụng insulin đến 
khi  xuất  viện  và  chỉ  có  3,85%  TH  là  sử  dụng 
thuốc uống trở lại đáp ứng tốt. Nghiên cứu cho 
thấy  70,5%  trường  hợp  không  biết  đang  mắc 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
bệnh  đái  tháo  đường,  điều  này  dẫn  đến  tình 
trạng  đường  huyết  rất  cao  khi  vào  viện  và  cho 
thấy rằng việc tuyên truyền vận động người dân 
tầm soát đái tháo đường týp 2 trong cộng đồng 
còn hạn chế.  

Đường huyết và HbA1c sau phẫu thu 
Tại  thời  điểm  nhập  viện,  chỉ  có  một  số  ít 
(29,5%)  bệnh  nhân  biết  mình  có  bệnh  đái  tháo 
đường  týp  2  và  đang  điều  trị  liên  tục,  số  này 
được theo dõi đường huyết hàng tháng tại cơ sở 
Y tế và có kiểm tra HbA1c định kỳ, do đó kiểm 
soát được đường huyết, số còn lại 70,5% không 
biết  mình  đang  bệnh  đái  tháo  đường.  Đây  là 
một tai họa thật sự khi phải phẫu thuật cấp cứu 

tại các bệnh viện. Nghiên cứu của  chúng  tôi  có 
đường huyết trung bình lúc đói khi vào viện là 
170,06 ± 28,13 mg/dL, nếu so với tiêu chuẩn chẩn 
đoán  đái  tháo  đường  là  126mg/dL  (  7  mmol/L) 
thì đây là mức đường huyết khá cao. Tình trạng 
HbA1c trung bình khi vào viện là 7,31 ± 0,94 %, 
kết quả cho thấy trong loạt nghiên cứu này bệnh 
nhân nhập viện trong tình trạng chưa kiểm soát 
tốt đường huyết của mình. Theo Guidelines của 
Hiệp  hội  Đái  tháo  đường  Hoa  Kỳ  năm  2013 
hướng  dẫn:  Nên  thử  HbA1c  ít  nhất  mỗi  năm  2 
lần ở bệnh nhân đạt được mục tiêu điều trị và có 
kiểm soát đường huyết ổn định(9), và Guidelines 
cũng  nêu  rõ:  Xét  nghiệm  HbA1c  được  khuyến 
cáo sử dụng cho cả đái tháo đường týp1 và đái 
tháo  đường  týp  2  tối  thiểu  hai  lần  trong  một 
năm.  Khi  đường  huyết  lúc  đói  không  ổn  định 
trong  ngày  thì  cho  bệnh  nhân  xét  nghiệm 
HbA1c  thường  xuyên  hơn  3  ‐  4  tháng  một  lần. 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện xét nghiệm 
đường  huyết  hàng  tháng  và  HbA1c  thực  hiện 
sau  3  tháng  để  đánh  giá  kết  quả  điều  trị(9).  Tái 
khám  sau  3  tháng:  Đường  huyết  lúc  đói  trung 
bình  là  116,73  ±  11,08  mg/dL,  so  với  đường 
huyết lúc đói trung bình khi vào viện là 170,06 ± 
28,13 mg/dL cho thấy quá trình điều trị có hiệu 
quả,  đường  huyết  trung  bình  giảm  đáng  kể  và 
gần như trở về mức bình thường. Tuy nhiên, để 
đánh  giá  kết  quả  này,  chúng  tôi  xét  nghiệm  lại 
HbA1c với kết quả như sau: HbA1c trung bình 


Niệu Khoa 

Nghiên cứu Y học

lúc vào viện là 7,31 ± 0,94 %, HbA1c trung bình 
sau  3  tháng  là  6,35  ±  0,29  %.  Theo  các  tác  giả: 
Trần Văn Thọ, Nguyễn Thy Khuê, Tạ Văn Bình 
thì  đường  huyết  được  kiểm  soát  tốt  nhất  khi 
HbA1c  ≤6,5%(1,18).  Việc  theo  dõi  chỉ  số  HbA1c 
giúp định hướng điều trị cho bệnh nhân, từ đó 
ngăn ngừa và làm giảm các biến chứng của đái 
tháo đường  gây  ra.  Theo  nhiều  nghiên  cứu  lớn 
trên  thế  giới,  kiểm  soát  tốt  đường  huyết  hàng 
ngày  bên  cạnh  chế  độ  ăn  uống  và  tập  luyện, 
dùng  thuốc  đúng  theo  hướng  dẫn  có  thể  làm 
thay  đổi  chỉ  số  HbA1c.  Nhờ  vậy,  các  nguy  cơ 
biến chứng của bệnh giảm đáng kể. Cụ thể, khi 
HbA1c  giảm  1%,  bệnh  nhân  giảm  được  21% 
nguy cơ tiến triển đến bất kỳ biến chứng nào của 
bệnh, giảm 37% nguy cơ biến chứng mạch máu 
nhỏ,  giảm  12%  nguy  cơ  đột  quỵ  và  giảm  14% 
nguy cơ nhồi máu cơ tim(18).  
+ Thay đổi đường huyết ở nhóm bệnh nhân 
TURP  với  dung  dịch  Sorbitol  và  nhóm  bệnh 
nhân TURP bằng dung dịch Nacl 9‰. 
Bảng 10 
Tăng đường
huyết
Nhóm 1

Nhóm 2
Tổng
(mg/dL)
n
29
49
78
Thấp nhất
10
3
3
Cao nhất
135
140
140
Trung bình 28,55 ± 25,66 34,78 ± 27,77 32,46 ± 27,01
Trung vị
20
20
20

Nghiên cứu của chúng tôi chia 2 nhóm ngẫu 
nhiên: Nhóm 1 gồm các trường hợp cắt đốt nội 
soi tại Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM với 
dung dịch cắt đốt là Nacl 0,9%, nhóm 2 gồm các 
trường  hợp  cắt  đốt  nội  soi  tại  Bệnh  viện  Nhân 
Dân Gia Định với dung dịch cắt đốt là Sorbitol 
3,3%.  Trong  mẫu  nghiên  cứu  này,  cả  2  nhóm 
đều  không  có  trường  hợp  nào  hạ  đường  huyết 
sau phẫu thuật. 

Vấn  đề  tăng  đường  huyết  được  đánh  giá 
như sau: Sự thay đổi đường huyết được tính chỉ 
số  đường  huyết  trước  phẫu  thuật  và  đường 
huyết  sau  khi  phẫu  thuật  xong  với  cùng  một 
phương  pháp  đo.  Theo  phân  tích,  tăng  đường 
huyết trung bình của nghiên cứu chung là 32,46 

73


Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

± 27,01 mg/dL. 
Phân  tích  theo  nhóm,  kết  quả  nhóm  1  có 
tăng đường huyết trung bình sau phẫu thuật là 
28,55 ± 25,66 mg/dL và nhóm 2 là 34,78 ±  27,77 
mg/dL, với  phép  kiểm  t  Student:  p=0,328,  nhận 
thấy  sự  thay  đổi  đường  huyết  sau  phẫu  thuật 
của 2 nhóm là tương đương nhau, không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Điều này cho kết 
quả là cắt đốt nội soi tăng sinh lành tính tuyến 
tiền  liệt  trên  bệnh  nhân  đái  tháo  đường  týp  2 
bằng dung dịch Sorbitol 3,3% hay Nacl 0,9% thì 
sự thay đổi đường huyết sau phẫu thuật tương 
đồng nhau. 

Khác  nhau  khi  turp  trên  bệnh  nhân  đái 
tháo đường 

Về cơ bản, chỉ định của cắt đốt nội soi tăng 
sinh lành tính tuyến tiền liệt trên bệnh nhân đái 
tháo đường týp 2 phải tuân theo chỉ định chung 
của  cắt  đốt  nội  soi.  Đối  với  phẫu  thuật  chương 
trình thì đường huyết từ 100 ‐ 180mg/dL, đường 
niệu  âm  tính.  Trong  phẫu  thuật  cấp  cứu  thì 
đường  huyết  phải  dưới  300mg/dL(1).  Khác  biệt 
khi  cắt  đốt  nội  soi  trên  bệnh  nhân  đái  tháo 
đường là phải dự hậu những biến chứng có thể 
xảy  ra  do  đái  tháo  đường  gây  nên,  đặc  biệt  là 
biến chứng về mạch máu và thần kinh. Đái tháo 
đường  gây  tổn  thương  không  hồi  phục  của  hệ 
thần  kinh  thực  vật,  tổn  thương  làm  giảm  khả 
năng  co  bóp  của  bàng  quang,  ở  mức  độ  nặng 
dẫn  đến  đưa  đến  bàng  quang  hỗn  loạn  thần 
kinh thể giảm trương lực. Bàng quang dần dần 
giãn to, ứ đọng nước tiểu càng nhiều sẽ dẫn tới 
ứ  nước ở thận, nhiễm  trùng  tiết  niệu,  viêm  mủ 
bàng  quang  và  bệnh  lý  bàng  quang  hỗn  loạn 
thần kinh ngày càng nặng thêm(4). Góp phần hạn 
chế  tình  trạng  tiểu  không  kiểm  soát  sau  phẫu 
thuật  do  biến  chứng  thần  kinh  của  bệnh  lý  đái 
tháo đường týp 2 gây nên. Chúng tôi thực hiện 
đo áp lực đồ bàng quang cho tất cả mẫu nghiên 
cứu nhằm đánh giá sức co bóp của bàng quang, 
từ  đó  phát  hiện  sớm  bệnh  lý  bàng  quang  hỗn 
loạn thần kinh. Đánh giá lại kết quả phẫu thuật 
của chúng tôi sau 3 tháng cho kết quả tốt. Nhằm 
tránh những thay đổi lớn nồng độ đường huyết 


74

trong quá trình phẫu thuật, chúng tôi thực hiện 
theo hướng dẫn của tác giả Tạ Văn Bình  (1) là sử 
dụng monitoring đường huyết theo dõi chặt chẽ 
khi phẫu thuật và chọn đường truyền tĩnh mạch 
insulin ngay từ đầu để có thể theo dõi và quyết 
định nồng độ đường huyết một cách có lợi nhất 
cho bệnh nhân. 
Phẫu  thuật  trên  bệnh  nhân  đái  tháo  đường 
dù  thành  công  về  mặt  kỹ  thuật  và  giải  quyết 
nguyên nhân của bệnh gốc nhưng thời gian hậu 
phẫu  mới  thật  sự  khó  khăn  cho  người  thầy 
thuốc. Bên cạnh những biến chứng có thể xảy ra 
sau  phẫu  thuật  thì  tình  trạng  thay  đổi  đường 
huyết  cũng  góp  phần  quan  trọng  cho  thành 
công  hay  thất  bại  của  quá  trình  điều  trị.  Ngoài 
những biến chứng như chảy máu kéo dài do xơ 
cứng  mạch  máu,  hôn  mê  do  rối  loạn  chuyển 
hóa, biến chứng rối loạn thần kinh, biến  chứng 
tim mạch, thận....thì việc kiểm soát tốt nồng độ 
đường huyết sau phẫu thuật sẽ là một đóng góp 
đáng  kể  cho  việc  hạn  chế  các  biến  chứng  trên. 
Lấy mẫu máu xét nghiệm nồng độ glucose mỗi 1 
‐  2  giờ  trong  lúc  phẫu  thuật  và  sau  phẫu  thuật 
cho  đến  khi  chuyển  sang  chế  độ  điều  trị  bằng 
insulin tiêm dưới da hay thuốc hạ đường huyết 
uống ( khi bệnh nhân đã ăn uống trở lại). Trong 
thời gian này, giữ đường truyền dung dịch NaCl 
0,9% sử  dụng bồi  hoàn  sự  thiếu  hụt  dịch  trong 

lòng  mạch.  Việc  theo  dõi  đường  huyết  bằng 
monitoring sau phẫu thuật là một khác biệt có ý 
nghĩa  khi  phẫu  thuật  trên  người  bệnh  đái  tháo 
đường. Monitoring đường huyết với insulin tĩnh 
mạch  sẽ  giúp  thầy  thuốc  điều  chỉnh  đường 
huyết một cách hiệu quả. 

KẾT LUẬN 
‐  Có  11,2%  số  người  phẫu  thuật  tăng  sinh 
lành  tính  tuyến  tiền  liệt  mắc  bệnh  đái  tháo 
đường kèm theo có chỉ định phẫu thuật. Kết quả 
chẩn đoán bệnh lý bướu lành tuyến tiền liệt và 
đái  tháo  đường  chính  xác  dựa  theo  hướng  dẫn 
của  ADA  2013  và  phác  đồ  AHCPR.  Đánh  giá 
sau  phẫu  thuật  3  tháng  có  97,4%  kết  quả  tốt, 
2,6% kết quả khá và không có loại kém.  
‐  Trước  phẫu  thuật  có  14,10%  trường  hợp 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
phải  chuyển  từ  thuốc  uống  hạ  đường  huyết 
sang  tiêm  insulin  mixtard  do  đường  huyết  dao 
động, loạt mẫu này sử dụng insulin đến khi xuất 
viện,  chỉ  có  3,85%  sử  dụng  trở  lại  thuốc  uống 
đáp  ứng  được  điều  trị.  Theo  dõi  đường  huyết 
bằng  monitoring  trong  lúc  phẫu  thuật  với 
insulin truyền tĩnh mạch giúp kiểm soát đường 
huyết  một  cách  an  toàn.  Không  có  trường  hợp 

nào hôn mê do tăng đường huyết.  
‐  Sau  3  tháng  điều  trị,  tình  trạng  đái  tháo 
đường  trong  mẫu  nghiên  cứu  đạt  được  đường 
huyết mục tiêu, qua việc kiểm soát đường huyết 
nhỏ  hơn  126mg/dL  và  HbA1c  giảm  1%.  Không 
có sự  khác  biệt  về  đường  huyết  khi  cắt  đốt  nội 
soi bằng dung dịch Nacl 0,9% hay Sobitol 3,3%. 
‐  Có  20,5%  trường  hợp  nhiễm  trùng  niệu 
trước phẫu thuật và 2,6% nhiễm trùng niệu sau 
phẫu thuật. Trong đó Escherichia coli chiếm lần 
lượt 81,2% và 100% trước và sau phẫu thuật. 
‐ Đo áp lực đồ bàng quang trước phẫu thuật 
loại  ra  17%  trường  hợp  bàng  quang  hỗn  loạn 
thần kinh góp phần giảm tỷ lệ tiểu không kiểm 
soát sau phẫu thuật. 
‐  Loạt  nghiên  cứu  này  không  có  trường 
hợp  nào  tử  vong,  không  có  biến  chứng  tiểu 
không  kiểm  soát  sau  phẫu  thuật.  Nghiên  cứu 
được đánh giá lại sau phẫu thuật 3 tháng cho 
kết quả tốt. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.
5.

6.

7.

American Diabetes Association (2010). ” Standards of Medical 
Care in Diabetes ‐ 2010”. Diabetes Care, Vol 33, Suppl 1, pp. 
11‐ 61. 
Đỗ Tiến Dũng, Bùi Lê Vĩ Chinh, Phạm Thạnh (2010).” Nghiên 
cứu ứng dụng kỹ thuật mổ cắt đốt nội soi điều trị u phì đại 
lành  tính  tuyến  tiền  liệt”.  Tạp  chí  Y  Học  Thành  phố  Hồ  Chí 
Minh, tập 17, phụ bản số 3‐2013, tr. 328 ‐ 333.  
Đoàn  Văn  Nhã,  Nguyễn  Văn  Chừng,  Nguyễn  Văn  Sách 
(2009).” Đánh giá sự thay đổi đường huyết ở bệnh nhân gây 
mê nội khí quản để phẫu thuật”. Tạp chí Y Học Thành phố Hồ 
Chí Minh, số 1‐ 2009, tr. 476 ‐ 480. 
Đỗ  Trung  Quân  (1998).  ”  Bệnh  Đái  tháo  đường”.  Nhà  xuất 
bản Y học Hà Nội, tr. 1 ‐ 30. 
Đỗ Trung Quân (2007). ” Bệnh Đái tháo đường và điều trị”. 
Nhà xuất bản Y học Hà Nội, tr. 7 ‐ 88. 
Foo KT (1998). ” BPH in Asians – Singapore perspectives”. In 
the  4th  Asian  Congress  in  Urology  worshop.  16  September 
1998, edited by UAA. FAUA and SUA, Singapore.  
Guideline (2010). ” Phác đồ hướng dẫn chẩn đoán và điều trị 
ung thư tuyến tiền liệt”. Hội Tiết Niệu Thận Học Việt Nam, 

Niệu Khoa 

8.
9.


10.

11.

12.

13.

14.
15.

16.

17.

18.

19.

20.

21.

22.

23.

Nghiên cứu Y học

tr. 1‐ 3. 

Guideline  (2012).  ”  Hướng  dẫn  xử  trí  tăng  sinh  lành  tính 
tuyến tiền liệt”. Hội Tiết Niệu Thận Học Việt Nam, tr. 5 ‐ 6. 
Guidelines ADA (2013). ” Perform A1C Test: At least 2 times each 
year  in  patients  who  are  meeting  treatment  goals  and  have  stable 
glycemic  control”.  American  Diabetes  Association.  Standards 
of  medical  care  in  diabetes‐2013.  Diabetes  Care.  2013,  36, 
(suppl 1), pp. 11‐ 66. 
Holtgrewe  HL  (2000).  ”  Transurethral  resection  of  the 
prostate”.  Prostatic  diseases,  W.B.  Saunders  Company, 
Philadelphia, pp. 232 ‐ 245. 
Javle  P,  Jenkins  S,  et  al  (1996).  ”  Quantification  of  voiding 
dysfuntion in patients awaiting transurethral prostatectomy”. 
J Urol, vol 156, pp. 1014 ‐ 1019. 
Javle P, Jenkins S, Machin D, Parsons K (1998). ” Grading of 
benign  prostatic  obtruction  can  predict  the  outcome  of 
transurethral  prostatectomy”.  J  Urol,  vol  160,  (5),  pp.  1713  ‐ 
1717. 
Shim  KS,  Koh  SK,  Lee  JG  (1999).  ”  Correlation  among 
symptom  score,  peak  urine  flow,  prostate  volume  and 
obstructive  parameters  as  analyzed  in  pressure‐flow  studies 
for  the  patients  with  benign  prostate  hyperplasia  in  whom 
TURP will  be  contemplated”.  J Korean Continence Society,  vol 
3, (1), pp. 41‐ 50.  
Kirby  RS  (2000).  The  natural  history  of  BPH:  what  have  we 
learned in the last decade ? Urology, 56, pp. 3 ‐ 6. 
Lepor  H,  et  al  (2002).  ”  Evaluation  and  non  surgical 
management  of  benign  prostatic  hyperplasia”.  Campbell′s 
Urology, W. B. Saunders Company, vol 2, pp. 1337 ‐ 1378. 
Lương Minh Tùng (2010).  Đánh giá kết quả điều trị nội khoa bí 
tiểu cấp do bướu lành tuyến tiền liệt. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ 

Nội trú, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 76 ‐ 78. 
Marmiroli  R,  Antunes  AA,  Reis  ST,  Nakano  E,  Srougi  M 
(2012).  ”  Standard  Surgical  treament  for  benign  prostatic 
hyperplasia is safe for patients over 75 years: analysis of 100 
cases  from  a  high‐volume  urologic  center”.  Hospital  das 
Clínicas  da  Faculdade  de  Medicina  da  Universidade  Sao 
Paulo, Division of Urology, 67(12), pp. 1415 ‐ 1418. 
Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007). ”Nội Tiết học đại 
cương”. Tập 2, Nhà xuất bản Y học, chi nhánh Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
McConnell JD, Barry NJ, Bruskewitz RC, et al (1996). ”Clinical 
practice  guideline  of  benign  prostatic  hyperplasia”.  edited  by 
Public Health Service and Agency for Health Care Policy and 
research  (AHCPR),  U.S.  Department  of  Health  and  Human 
Services,  AHCPR,  Publication  No.  94  ‐  0582,  number  8,  in 
Urology Medline 96, National Library of Medicine USA. 
Mebust  WK  (1992).  ”Transurethral  Surgery”.  In  Campbell′s 
Urology,  Sixth  Edition,  published  by  W.  B.  Saunders 
Company, Volum 3, chapter 80, pp. 2900 ‐ 2941. 
Nguyễn  Bửu  Triều,  Nguyễn  Kỳ  (1995)  ”Biến  chứng  sau  cắt 
nội soi u phì đại lành tính tuyến tiền liệt trên 50gram”. Y Học 
thực hành, (7+8), tr. 35‐36.  
Nguyễn  Phú  Việt  (2006).  Nghiên cứu kết quả điều trị u phì đại 
lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp cắt nội soi tại bệnh viện 
103. Luận án Tiến sĩ, Học viện Quân Y 103.  
Nguyễn Trường An (2008). ”Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt 
u lành tính tuyến tiền liệt bằng nội soi qua niệu đạo”. Đề tài 
nghiên cứu khoa học tại khoa Ngoại trường Đại học Y Dược 
Huế. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, số đặc biệt 2008, tr. 
187 ‐ 192. 


75


Nghiên cứu Y học 
24.

25.

26.

27.

28.

76

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Phạm  Hữu  Đoàn  (2008).  Mối  liên  quan  giữa  độ  nhô  vào  lòng 
bàng quang của bướu lành tuyến tiền liệt và sự bế tắc dòng tiểu. 
Luận  văn  tốt  nghiệp  Bác  sĩ  nội  trú,  Đại  học  Y  Dược  Thành 
phố Hồ Chí Minh, tr. 69 ‐ 79. 
Somers  WJ,  Mora  MJ,  Mason  MF,  Padley  RJ  (1996).  ”The 
natural history of benign prostatic hypertrophy: incidence of 
urinary retention and significance of AUA symptom score”. J 
Urol, 155: abstract 1102 
Trần  Ngọc  Sinh  (2001).  Chỉ  định  cắt  đốt  nội  soi  trong  bế  tắc 
đường tiết niệu dưới do bướu lành tiền liệt tuyến. Luận án Tiến sĩ 
Y khoa, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 52 ‐ 58. 

Tạ  Văn  Bình  (2007).  ”Những  nguyên  lý  nền  tảng  bệnh  Đái 
tháo đường ‐ tăng glucose máu”. Nhà xuất bản Y học Hà Nội, 
tr. 3 ‐ 23. 
Trần Thanh Phong, Trương Hoàng Minh, Võ Phước Khương, 
Lê Đình Hiếu, Phạm Lê Duy, Đỗ Anh Đức, Trương Sĩ Vinh, 
Phạm  Mạnh  Sùng  (2010).  ”Đánh  giá  kết  quả  điều  trị  bướu 
lành tiền liệt tuyến bằng phương pháp cắt đốt nội soi tại bệnh 
viện 115”. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 14, phụ bản số 3 
‐ 2010.  
 

29.

30.

31.

Trần  Văn  Hinh  (2013).  ”Bệnh  tăng  sản  lành  tính  tuyến  tiền 
liệt”. Trong quyển: Bệnh lý các khối u đường tiết niệu. Nhà 
xuất bản Y học Hà Nội, tr. 7 ‐ 33.  
World  Health  Organization  (2011).  Use  of  Glycated 
Haemoglobin (HbA1c) in the Diagnosis of Diabetes Mellitus ‐ 
Abbreviated Report of a WHO Consultation. 
Yamaguchi  Y,  Homma  Y,  Kawaben  K,  Tsukamoto  T, 
Yamaguchi  O,  Okada  K,  Aso  Y,  Watanabe  H,  Okajima  E, 
Kumazawa J, Ohashi Y (1996). ”Estimate Criteria for Efficacy 
of  Treatment  in  Benign  Prostatic  Hyperplasia”.  International 
Journal of Urology, pp. 267 ‐ 273. 
   


 

Ngày nhận bài báo: 15/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2013 
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 



×