Tải bản đầy đủ (.ppt) (27 trang)

ly thuyet chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.66 KB, 27 trang )


CHUYÊN ĐỀ LỊCH PHÁP

Lịch pháp là phương pháp dùng
năm, tháng, ngày để tính thời gian
(chủ yếu có: dương lịch, âm lịch,
âm dương lịch)
(Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ
biên, trang 546)

I. Khái niệm
II. Cơ sơ thiên văn của
lịch
III. Đại cương về ba lịch
hệ.

Lịch là một hệ thống tổ
chức, ghi chép thời gian
theo cách thuận tiện cho
việc điều tiết cuộc sống dân
sự, các lễ nghi tôn giáo
cũng như cho các mục đích
lịch sử và khoa học.
1. Khái niệm
Trong một số ngôn ngữ
châu Âu thì từ lịch
(Calendar, calendrier…) bắt
nguồn từ chữ Calendae
(Kalendae) tiếng Latinh có
nghĩa là ngày đầu tiên của
tháng La Mã, ngày người ta


công bố thời biểu tổ chức
các phiên chợ, lễ hội hay các
sự kiện khác

a. Châu âu
b. Trung cận đông
c. Nam Á và Viễn Đông
d. Trung Mỹ

a. Châu Âu
Cách đây hơn 20 nghìn
năm các thợ săn ở châu âu
đã khắc các vạch lên thân
gỗ và xương, để đếm các
ngày trong tuần trăng
Stonehenge (Anh) được xây
dựng cách đây hơn 4000 năm
có lẽ được sắp xếp nhằm xác
định một số thời điểm đặc
biệt liên quan đến mùa và
hiện tượng thiên văn

a. Châu Âu
Tại Hy Lạp, các bản di vật bằng
đất sét thế kỷ 13 trước CN hay
những ghi chép của Homer và
Hesiod cho thấy người cổ Hy
Lạp sử dụng lịch mặt trăng các
tháng bao gồm 29 và 30 ngày
xen kẽ nhau.

Ở La Mã vào khoảng thế kỷ thứ
7 hoặc thứ 8 trước CN nhà cai
trị thành Rome đầu tiên là
Romulus đưa vào sử dụng loại
lịch gồm 10 tháng, 6 tháng 30
ngày và 4 tháng 31 ngày, tổng
cộng 304 ngày, năm khởi đầu
vào tháng 3.

b. Trung cận Đông
Ai Cập: Cách đây hơn 10 nghìn
năm, người Ai Cập cổ đã sử
dụng lịch bao gồm 12 tháng
mỗi tháng 30 ngày (một năm
dài 360 ngày). Nhưng sau đó họ
nhận ra rằng sao Thiên Lang ở
chòm sao Đại Khuyển cứ sau
365 ngày thì mọc cạnh mặt trời,
lúc sông Nin bắt đầu chu kỳ
ngập lụt hàng năm, dựa trên
điều này Ai Cập làm ra lịch 365
ngày, lịch này có lễ bắt đầu vào
năm 4236 trước CN

b. Trung cận Đông
Lưỡng Hà: Ở thung lũng sông
Tigris- Euphrate (I Răc), cách đây
5000 năm người Xume dùng lịch
chia năm thành các tháng 30 ngày,
chia ngày thành 12 khoảng và mỗi

khoảng này chia ra 30 phần. Cũng
ở I Rắc, vào khoảng 2000 năm
trước c.n người Babylon sử dụng
lịch mặt trăng gồm 12 tháng xen kẽ
29 và 30 ngày . Sau đó, khoảng
năm 380 trước CN, lịch này trở
nên tinh xảo hơn khi chèn thêm 7
tháng nhuận vào chu kỳ 19 năm
Lịch sớm nhất của người Do
Thái có lẽ là lịch Gezer ở thời
kỳ vua Solomon, khoảng cuối
thế kỷ thứ 10 trước CN, sau đó
người Do thái cổ sử dụng lịch
của người Babylon (587 trước
CN).

c. Nam Á và Viễn Đông
-
Ở Việt Nam, hiện còn lưu giữ một thứ lịch của người
Mường gọi là lịch tre, gồm 12 thanh tre ghi lại 12 tháng và
trên mỗi thanh tre khắc các vạch ký hiệu ngày, tháng và các
hiện tượng khác.
-
Ở Ấn Độ theo ghi chép thì lịch cổ nhất có vào năm 1000
trước CN. Một năm lịch có 360 ngày chia thành 12 tháng Âm
bao gồm 27 hoặc 28 ngày, số ngày thiếu được bù bằng cách
chèn tháng nhuận sau mỗi 60 tháng.
-
Còn ở Trung Quốc, lịch âm dương có từ TK 14 trước CN
(đời Thương), theo truyền thuyết vào thời Tam Hoàng Ngũ

Đế (năm 2637 trước CN) đã có lịch do hoàng đế sáng tạo ra.
đời Thương người Trung Hoa đã biết đến độ dài năm là
365.25 ngày và tuần trăng dài 29.5 ngày.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×