Bản chất xã hội của ngôn ngữ và vấn đề Tiếng Anh ở Vi ệt Nam hi ện
nay.
I.Đặt vấn đề
Ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta bởi
vì trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao ti ếp thì ngôn
ngữ là phương tiện duy nhất thoả mãn được tất c ả các nhu c ầu c ủa con
người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng c ủa con
người vì nó hành trình cùng con người, từ lúc con ng ười xu ất hi ện cho đ ến
tận ngày nay. Phương tiện giao tiếp ấy được bổ sung và hoàn thiện dần theo
lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu và xu h ướng tiếp xúc văn
hoá có từ cổ xưa đến tận ngày nay. Ngày nay, h ầu nh ư không còn ngôn ng ữ
nào là chưa có ảnh hưởng của nền văn hoá ngoại lai. Nói cách khác, t ất c ả các
ngôn ngữ đang tồn tại hiện nay đều đã từng trải qua nh ững quá trình ti ếp
xúc văn hoá với ngôn ngữ khác bên ngoài.Trong các nguồn bổ sung từ vựng cho
một ngôn ngữ, bên cạnh các phương thức tạo từ mang tính nội lực thì vay mượn
với tư cách ngoại lực là một nguồn bổ sung có vai trò hết sức quan trọng. Vì thế,
vay mượn từ vựng trở thành hiện tượng phổ biến của mọi ngôn ngữ. Có thể nói,
hầu như không có vốn từ của một ngôn ngữ nào lại không có các từ ngữ vay
mượn. Tuy nhiên, mặc dù là cùng một hiện tượng vay mượn từ ngữ nhưng có sự
khác nhau giữa các ngôn ngữ ở lí do vay mượn, nguồn vay mượn (ngôn ngữ cho
vay), số lượng từ ngữ vay mượn, con đường vay mượn và cách xử lí các từ ngữ
vay mượn ... Tiếng Anh hiện nay đang nổi lên với tư cách là ngôn ngữ giao tiếp
quốc tế với trên 85% thông tin trên thế giới bằng ngôn ngữ này. Nhất là từ đầu thế
kỷ XXI đến nay, tiếng Anh đang như một cơn lốc tràn vào tất cả các ngôn ngữ trên
thế giới và theo đó là các từ ngữ Anh được sử dụng trong các ngôn ngữ. Tiếng Việt
cũng nằm trong vòng xoáy đó. Các từ ngữ tiếng Anh xuất hiện ngày một nhiều,
liên tục và đi vào mọi ngõ ngách của đời sống tiếng Việt hiện nay.
Các phương tiện truyền thông ngày nay cập nhật tin tức nhanh nhất cho nên
cách tiếp nhận và xử lí thông tin nói chung, trong đó có việc xử lí ngôn ngữ, cụ thể
là các từ ngữ mượn (tiếng Anh) cũng chịu áp lực của thời gian đưa tin (nhanh nhất)
và không gian đưa tin (không gian mạng). Đây là lí do dẫn đến nhiều tiếp nhận và
xử lí khác nhau đối với các từ ngữ tiếng Anh. Hệ quả là, các từ ngữ tiếng Anh xuất
hiện trong tiếng Việt ở nhiều dạng biến thể, như biến thể về cách viết, biến thể về
cách đọc và biển thể về cách dùng. Cũng chính vì những lý do đó mà nhu cầu học
Tiếng Anh và các hình thức học Tiếng Anh ở Việt Nam ngày nay cũng rất đa dạng,
1
phong phú. Kết quả dẫn đến nhiều những bất cập trong việc dạy và học Tiếng Anh
trong toàn bộ hệ thống giáo dục của chúng ta hiện nay.
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được đề cập đến ba vấn đề cơ bản:
1.Bản chất xã hội của ngôn ngữ
2. Việc sử dụng Tiếng Anh trên các phương tiện truyền thông ngày nay tác động
đến việc học Tiếng Anh của học sinh.
3.Thực trạng việc dạy và học Tiếng Anh ở Việt Nam ngày nay.
II. Nội dung
1.Bản chất xã hội của ngôn ngữ
1.1.Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội.
Ngôn ngữ ra đời cùng với sự phát triển lịch sử loài người. Ngôn ng ữ có
từ lịch sử xa xưa. Ngôn ngữ gắn bó với đời sống con người và là ph ương ti ện
giao tiếp quan trọng. Không có ngôn ngữ không th ể có xã h ội loài ng ười và
ngược lại. Về mặt lịch sử , con người sử dụng ngôn ngữ t ừ th ời c ổ x ưa. Ngôn
ngữ cùng lao động, tư duy là nhân tố tạo nên con người. Cho đ ến bây gi ờ,
ngôn ngữ luôn gắn bó mật thiết với con người và xã hội loài người. Ngôn ng ữ
là hệ thống các đơn vị ngôn ngữ cùng những quy tắc kết hợp các đ ơn vị ngôn
ngữ ấy. Trước hết, ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp
giữa mọi người, phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, phương tiện giúp cho
người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực
hoạt động của con người. Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để
giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả nhu cầu của
con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng vì nó hành
trình cùng con người từ lúc con người xuất hiện cho tới tận ngày nay. Chúng ta
biết rằng, để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập
rất nhiều các hệ thống tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Có
những hệ thống tín hiệu có thể vượt qua các biên giới quốc gia, các ranh giới của
thể chế chính trị để phục vụ loài người, ví dụ như hệ thống ký hiệu Toán học, Hoá
học…. Nhưng người dùng chúng lại rất chọn lọc, ít nhất phải có trình độ học vấn
nhất định hoặc phải là những nhà chuyên môn có trình độ cao. Tính chọn lọc cao
như vậy là xa lạ với từng dân tộc người. Bởi ngôn ngữ tự nhiên không phân biệt
giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn… mà nó phục vụ cộng đồng một
cách vô tư. Như vậy, khái niệm vạn năng của ngôn ngữ phải được hiểu là một
phương tiện không kén người dùng và có thể chuyển tải được tất cả các nội dung
2
thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu. Từ việc bộc lộ cảm xúc, thái độ của
người nói đến những nhu cầu tinh tế về tình cảm, nhu cầu trao đổi các kinh nghiệm
thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức .… Trong khi đó các phương tiện khác chỉ đáp
ứng một phần nào đó rất nhỏ những nhu cầu bộc lộ và giao tiếp của con người.
Tóm lại, ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp vạn năng vì về mặt số lượng, nó
phục vụ đông đảo các thành viên trong cộng đồng. Về mặt chất lượng, nó giúp các
thành viên trong cộng đồng bộc lộ hết nhu cầu giao tiếp. Do đó ngôn ngữ trở thành
phương tiện giao tiếp giữa mọi người, phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội,
phương tiện giúp cho chúng ta hiểu biết lẫn nhau, từ đó cùng nhau tổ chức công
tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người.
1.2. Ngôn ngữ không phải là hiện tượng tự nhiên .
Nếu các hiện tượng tự nhiên như: mưa, bão, động đất, sóng th ần, cầu
vồng, núi lửa…là hiện tượng khách quan, không lệ thuộc vào ý muốn ch ủ
quan của con người thì ngôn ngữ lại phụ thuộc vào con ng ười, t ồn t ại trong
xã hội loài người.Cụ thể là, chỉ có loài người mới có ngôn ng ữ, ngôn ng ữ ch ỉ
nảy sinh và phát triển trong xã hội loài người và ph ục v ụ cho nhu c ầu giao
tiếp của con người. Các hiện tượng tự nhiên tự nảy sinh, tồn t ại, phát tri ển
và tiêu hủy như tự nhiên, không phụ thuộc vào con người. Ngôn ngữ do con
người quy ước, nó không tự nảy sinh, phát triển nh ư hiện t ượng t ự nhiên, nó
phụ thuộc vào ý thức của con người. Do ảnh hưởng của thuy ết tiến hóa Đácuyn, cho rằng: ngôn ngữ tự hình thành và t ừ tiêu hủy nh ư ti ếng Tiên Ly
(Trung Quốc), tiếng Hán (một số từ cũ không dùng và tiêu hủy, t ừ m ới xu ất
hiện. Đó chưa phải cơ sở khẳng định sự phát triển mang tính t ự nhiên c ủa
ngôn ngữ). Ngôn ngữ luôn mang tính kế thừa và phát triển, cái cũ vẫn còn in
dấu tích trong ngôn ngữ hiện đại.
Ngôn ngữ không phải là một hiện tượng sinh vật.Ngôn ngữ không
mang tính bẩm sinh .Con người sinh ra đã có bản năng: đi, ngồi, ch ạy…đó là
chức năng sinh học trong bản thể của con người không ph ụ thu ộc vào môi
trường và hoàn cảnh sống. Tuy nhiên, con người có các c ơ quan b ẩm sinh liên
quan đến phát âm: khoang phát âm như mũi, răng, môi..., c ơ quan hô h ấp,
trung ương thần kinh. Nhưng không thể coi đó là cơ sở để hiểu tính bẩm sinh
của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là kết quả của sự h ọc h ỏi, bắt ch ước, ti ếp xúc xã
hội, với mọi người xung quanh. Ví dụ 1: Đứa trẻ sinh ra Việt Nam, nh ưng l ớn
lên ở Nga, tiếp xúc với người Nga và nói tiếng Nga. Ví dụ 2 : Đ ức tr ẻ sinh ra
3
mà sống cách biệt xã hội loài người thì sẽ không biết nói tiếng ng ười (không
biết ngôn ngữ). Ví dụ 3: Trong tác phẩm “Hòn đ ảo bí m ật” c ủa nhà văn
J.Vecnơ (1828- 1903) kể lại câu chuyện chàng Ayrơtôn bị bỏ hoang ngoài đảo
vì bị trừng phạt và không nói được, mất kh ả năng t ư duy. Sau tr ở v ề xã h ội
loài người mới dần hồi phục.
Ngôn ngữ không mang tính di truyền .Con người sinh ra có đặc điểm về
bẩm sinh hay di truyền như: màu da, tỉ lệ thân th ể (ng ười châu Âu th ường
cao hơn, da trắng còn người Việt Nam th ấp h ơn và da vàng, tóc đen). Ngôn
ngữ không mang tính di truyền. Con người sinh ra nếu không có giao ti ếp v ới
người khác, với xã hội thì không bao giờ có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ không đồng nhất với tiếng kêu của động vật .Động v ật dùng
tiếng kêu để thông báo theo bầy đàn, báo hiệu s ự nguy hiểm hay g ọi nhau
như: tiếng gà mẹ kêu cục cục gọi đàn con, tiếng gáy của gà là đặc tr ưng c ủa
nó, tiếng chó sủa …. Âm thanh ngôn ngữ khác âm thanh (ti ếng kêu) c ủa m ột
số động vật. Một số con vật nói được tiếng người (sáo, vẹt, y ểng...) đó là k ết
quả quá trình rèn luyện phản xạ không hoặc có điều ki ện của m ột số loài
động vật đó. Ngôn ngữ là sản phẩm của loài người do con người quy ước g ắn
liền tư duy, suy đoán của con người nên không th ể đồng nh ất ngôn ng ữ v ới
tiếng kêu động vật.
Ngôn ngữ không mang tính cá nhân .Ngôn ngữ có tính xã h ội là s ản
phẩm của một dân tộc nên có tính chất chung. Còn lời nói là s ản ph ẩm riêng
của mỗi cá nhân, có tính cụ thể được tạo ra trên cơ sở cái cái chung c ủa ngôn
ngữ. Vì thế, con người mới có thể giao tiếp v ới nhau đ ược. Vì th ế ngôn ng ữ
mang tính chất chung, phổ biến mà mọi người trong cộng đồng s ử d ụng
ngôn ngữ đó phải tuân theo. Ngôn ngữ không của riêng ai. Ngôn ng ữ là s ản
phẩm của cộng đồng, một xã hội và là sự quy ước của cộng đ ồng. Vì th ế,
ngôn ngữ mang bản sắc và phong cách của từng cộng đồng, t ừng dân t ộc. Cá
nhân có thể có phong cách ngôn ngữ riêng, sáng tạo riêng trên c ơ s ở tuân th ủ
những quy ước chung của xã hội. Cá nhân không th ể t ự mình thay đi ngôn
ngữ của xã hội. Ví dụ phong cách thơ Tố H ữu, phong cách Nguy ễn Du trong
“Truyện Kiều”...
1.3. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội hiện tượng xã hội, nó tồn tại và
phát triển theo quy luật khách quan.
Hiện tượng xã hội như cưới xin, nhà trường, gia đình... tồn t ại, phát
triển và tiêu hủy phụ thuộc vào con người. Ngôn ngữ có tính quy ước, là công
4
cụ con người giao tiếp, trao đi tư tưởng tình cảm với nhau. Có ngôn ng ữ thì xã
hội con người mới tồn tại. Ngôn ngữ đứng ngoài xã hội thì ngôn ngữ sẽ không
tồn tại. Mác và Ang- ghen cũng khẳng định: ngôn ngữ ch ỉ n ảy sinh do nhu c ầu
con người giao tiếp với nhau.Ví dụ: Những đứa trẻ, sau khi lọt lòng m ẹ ph ải
sống cách biệt với xã hội loài người thì không thể biết đến giao tiếp bằng
ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội vì:
+ Ngôn ngữ chỉ nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã h ội loài ng ười và ph ụ
thuộc vào xã hội.
+ Ngôn ngữ phục vụ cho toàn thể xã hội với tư cách là ph ương tiện giao tiếp.
+ Ngôn ngữ mang bản sắc của từng cộng đồng xã hội (th ể hiện ý th ức xã
hội).
+ Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát tri ển
của xã hội. Trong quá trình phát triển, cùng v ới nh ững biến đ ổi c ủa xã h ội,
ngôn ngữ có sự chuyển hóa và biến đổi, tiếp thu cái m ới nh ư: t ừ m ới, nghĩa
mới để hoàn thiện hơn. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội là m ối quan hệ
qua lại. Xã hội phát triển và tồn tại nhờ ngôn ngữ và ngược lại. Nh ờ ngôn
ngữ, con người giao lưu với nhau và tự hoàn thiện bản thân. Ngôn ngữ có vai
trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội: là công c ụ đi ều hành, qu ản lý,
tổ chức, phân phối hàng hóa và mọi mặt của đời sống, ban hành văn bản,
phát lệnh nhà nước để mọi người tuân theo. Vì thế, ngôn ngữ không th ể tồn
tại ngoài xã hội. Ngược lại, không có môi trường xã h ội thì ngôn ng ữ không
thể nảy sinh và phát triển.
1.4. Ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng xã hội mà là m ột hiện t ượng
xã hội đặc biệt.
Ngôn ngữ có mối quan hệ với hiện tượng xã hội khác như: kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng theo chủ nghĩa Mác- Lê nin. C ơ s ở h ạ t ầng là:
toàn bộ quan hệ sản xuất của một xã hội ở một giai đoạn phát triển nào đó.
Kiến trúc thượng tầng là những quan điểm về chính trị, phát quy ền, tôn giáo,
nghệ thuật…của xã hội và các tổ chức xã hội tương ứng v ới c ơ s ở h ạ t ầng.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì ngôn ng ữ không ph ụ thu ộc
vào kiến trúc thượng tầng của riêng một xã hội nào. Khi c ơ s ở h ạ t ầng hay
kiến trúc thượng tầng bị phá vỡ thì ngôn ngữ không h ề thay đ ổi. M ỗi ki ến
trúc thượng tầng là sản phẩm của một cơ sở hạ tầng. Khi c ơ sở hạ tầng b ị
tiêu hủy thì kiến trúc thượng tầng cũng bị phá v ỡ. Thay vào đó là ki ến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng mới nhưng ngôn ngữ không thể thay đổi. Ngôn
5
ngữ chỉ có thể biến đổi liên tục chứ không tạo ra ngôn ngữ m ới. Nhà nghiên
cứu ngôn ngữ Marr đã đồng nhất phát triển ngôn ngữ với phát tri ển hình thái
kinh tế. Điều này không có cơ sở vì ngôn ngữ không thuộc c ơ sở hạ tầng.
ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Các giai cấp trong xã h ội đều dùng chung
một ngôn ngữ theo lợi ích riêng của họ. Theo “H ọc thuy ết m ới v ề ngôn ng ữ”
của Marr cho rằng ngôn ngữ có tính giai cấp. Đi ều này hoàn toàn không
đúng. Vì ngôn ngữ ra đời cùng với xã hội loài người. Khi xã h ội phân chia giai
cấp thì có đấu tranh giai cấp nhưng không phải để phân biệt ngôn ng ữ. Các
giai cấp vẫn sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Chỉ có các tiếng lóng, bi ệt ng ữ
xuất hiện và được dùng ở giai tầng nhất định trong xã hội. Giai cấp quý t ộc,
tư sản dùng ngôn ngữ để tỏ rõ địa vị cao sang ,ngược l ại thì ngôn ng ữ nhân
dân lao động dùng lại dân dã, giản dị.
Ngôn ngữ có bản chất văn hóa. Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu
văn hóa dân tộc .Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con
người được sử dụng nhiều nhất trong các phương tiện giao tiếp. Ngôn ng ữ
tiếp xúc văn hóa và ngôn ngữ bản địa hay ngoại lai. Mỗi dân t ộc đ ều có n ền
văn hóa đặc trưng. Ngôn ngữ chính là phương tiện phản ánh, ghi l ại văn hóa
của quốc gia. Đặc biệt kho từ vựng là lớp từ biểu hiện đặc tr ưng n ền văn hóa
của mỗi dân tộc với phong tục, tập quán riêng. Đặc biệt, ngôn ngữ là công c ụ
sáng tác văn học và tiếp thu nền văn hóa dân tộc trong m ỗi th ời kì l ịch s ử .
Văn học là tấm gương phản chiếu lịch sử . Ngôn ngữ là y ếu tố th ứ nh ất của
văn học. Nên ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu văn hóa, văn h ọc m ỗi dân
tộc.
Ngôn ngữ phản ánh sự giao thoa giữa các nền văn hóa. Các ngôn ngữ
trong khu vực có sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau mặc dù không cùng ngu ồn
gốc. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khẳng định rằng các ngôn ngữ không cùng
ngồn gốc hay loại hình ngôn ngữ nhưng vẫn có một số yếu t ố ngôn ng ữ g ần
nhau. Đó là kết quả của quá trình tiếp xúc văn hóa trong khu v ực. Ví d ụ ngôn
ngữ các nước Hi Lạp, Bungari, Rumani… Do tính chất xâm l ược và bành
trướng nên các nước bị xâm lược ít nhiều chịu ảnh hưởng ngôn ngữ các n ước
đi xâm lược hoặc bành trướng nên tạo ra giao thoa ngôn ng ữ và văn hóa. Ví
dụ ở Việt Nam, ngôn ngữ tiếp xúc với tiếng Hán (do bị hàng nghìn năm Bắc
thuộc), vay mượn tiếng Pháp (thời Pháp thuộc). Tiếng Việt không vì lý do đó
mà bị tiêu hủy. Đó là kết quả của sự giao thoa chọn lọc làm phong phú thêm
ngôn ngữ dân tộc. Hệ thống từ vựng tiếng Việt phong phú , đa d ạng. Các
6
ngôn ngữ có sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau về ngữ âm, t ừ v ựng, ng ữ
pháp, phong cách ngôn ngữ...để làm phong phú ngôn ng ữ dân t ộc ho ặc cũng
có thể làm cho ngôn ngữ dân tộc bị lai căng, thậm chí tiêu vong. Khi có s ự
thâm nhập, ngôn ngữ dân tộc có sự biến đổi về ngữ âm, t ừ v ựng, ng ữ pháp
phù hợp với dân tộc đó, thích ứng nhu cầu giao tiếp của con người.
2. Việc sử dụng Tiếng Anh trên các phương tiện truyền thông ngày nay tác
động đến việc học Tiếng Anh của học sinh.
Ở Việt Nam hiện nay có 46 báo mạng điện tử, 287 trang tin của các cơ quan
báo chí, 200 trang thông tin điện tử tổng hợp (nguồn: Bộ Thông tin và Truyền
thông). Nếu như báo giấy ra đời cách đây hàng trăm năm, hay các loại hình báo chí
khác như phát thanh, truyền hình xuất hiện cũng đã lâu thì báo mạng (hay báo điện
tử, báo online) là loại báo xuất hiện khá muộn, sau khi có sự xuất hiện của internet.
Tuy nhiên, ra đời trong thời đại công nghệ thông tin với một thế giới phẳng, báo
mạng đã nhanh chóng chiếm ngôi có thể nói là hàng đầu trong việc cập nhật thông
tin và số lượng độc giả, với những ưu thế, đặc trưng sau: tính đa phương tiện; tính
tức thời; tính tương tác cao; khả năng lưu trữ thông tin lớn, tìm kiếm thông tin
nhanh chóng, dễ dàng và tính xã hội hóa cao, khả năng cá thể hóa tốt. Trên nhiều
phương tiện truyền thông ngày nay, một số trang thông tin sử dụng nguyên dạng từ
ngữ Tiếng Anh. Và theo cách này thì có hai kiểu: sử dụng nguyên dạng không dịch
nghĩa và sử dụng nguyên dạng có dịch nghĩa. Đa số các phương tiện truyền thông
ngày nay sử dụng dạng từ ngữ Tiếng Anh không dịch nghĩa. Đây là kiểu mượn xảy
ra khá phổ biến và chiếm ưu thế trong khi sử dụng từ tiếng Anh trên báo mạng
hiện nay. Đối với kiểu này, người viết sử dụng từ ngữ tiếng Anh trong câu nhưng
không có chú thích Tiếng Việt. Từ ngữ tiếng Anh được viết nguyên dạng như trong
nguyên ngữ. Có thể nhận thấy, đối với các từ tiếng Anh nguyên dạng không dịch
nghĩa trong lĩnh vực kinh doanh rơi vào các từ chỉ tên riêng, tên tổ chức hoặc các
từ xuất hiện chung trong nhiều ngữ cảnh như website, marketing, internet,
container…Trong các lĩnh vực như văn hóa, giải trí, thể thao, công nghệ, giáo dục
do sự phổ biến của các sự vật, hiện tượng, đặc điểm mà các từ tiếng Anh nguyên
dạng không dịch nghĩa cũng được sử dụng phổ biến như: show, live show, online,
video clip, shock, pose, fan…(giải trí); band, website, e-learn, hotline, email,
language center…(giáo dục).
Bên cạnh đó, có một số phương tiện truyền thông lại sử dụng hình thức trong
câu có xuất hiện từ ngữ tiếng Anh nguyên dạng nhưng luôn kèm theo chú thích
tiếng Việt. Cách sắp xếp giữa nguyên dạng và dịch nghĩa khá linh hoạt: phần dịch
7
có thể ở trước và phần nguyên dạng để ở sau, trong ngoặc đơn; hoặc ngược lại,
phần nguyên dạng có thể ở trước, phần dịch ở sau, trong ngoặc đơn.Việc chú giải
nghĩa bằng tiếng Việt giúp cho người đọc dù không biết tiếng Anh nhưng vẫn hiểu
được nghĩa. Từ đó sẽ không làm gián đoạn thậm chí sai lệch, mất thông tin do
không biết nghĩa của từ tiếng Anh. Sự xuất hiện của các từ tiếng Anh theo dạng
này ở mỗi lĩnh vực cũng không giống nhau.
Ngày nay, Tiếng Anh hiện nay xuất hiện rộng rãi trong nhiều bối cảnh khác
nhau của đời sống xã hội. Thống kê các từ ngữ tiếng Anh xuất hiện trên các báo
mạng cho thấy, tiếng Anh xuất hiện ở một số lĩnh vực như: giải trí, âm nhạc, điện
ảnh, thời trang, kinh tế giáo dục…
Về nguyên tắc, các từ ngữ nước ngoài khi vào một ngôn ngữ được bảo lưu
nghĩa khi chúng mang những khái niệm mới mà tiếng Việt chưa có từ biểu thị. Do
đó, sẽ dẫn đến việc biến động nghĩa. Biến động nghĩa được hiểu là các từ ngữ
Tiếng Anh khi sử dụng trong tiếng Việt đã ít nhiều thay đổi nghĩa. Qua một số
khảo sát cho thấy, các từ ngữ tiếng Anh hầu như không có phát triển thêm nghĩa
hoặc thay đổi nghĩa nào đó so với các nghĩa mà chúng có. Sự biến động chỉ là ở
chỗ, các từ đa nghĩa chỉ sử dụng một hoặc một vài nghĩa trong số các nghĩa mà
chúng có (thường là một nghĩa). Tuy rất ít gặp, nhưng không phải là không có
trường hợp các từ ngữ tiếng Anh xuất hiện trong tiếng Việt có thể thay đổi nghĩa:
sự thay đổi có thể diễn ra từ sự mở rộng nét nghĩa cho một nghĩa đến sự phát triển
thêm nghĩa mới. Mức độ thay đổi nghĩa này có thể diễn ra ở mức độ khác nhau
giữa các nghĩa trong một từ đa nghĩa.
Hiện tượng biến động nghĩa của các từ ngữ tiếng Anh khi được sử dụng trên
báo Tiếng Việt hiện chưa tuân thủ theo quy tắc nào. Thông thường, các nghĩa
thông dụng của từ ngữ tiếng Anh hay đi vào tiếng Việt hơn cả. Những từ ngữ đa
nghĩa thì chắc chắn nghĩa cơ bản sẽ được sử dụng còn các nghĩa có tính phát sinh
sau thì không. Điều này cũng là một tất yếu bởi khi đã mượn một ngôn ngữ nước
ngoài thì phải sử dụng nghĩa hay dùng nhất để tránh những phiền toái khi giao tiếp.
Bên cạnh việc sử dụng các từ tiếng Anh thì trên các báo mạng tiếng Việt hiện nay
còn dùng khá nhiều các cụm từ tiếng Anh. Tuy nhiên, ở các chuyên mục khác nhau
việc sử dụng cũng không giống nhau. Việc sử dụng các cụm từ chỉ tập trung vào ba
khu vực: nêu tên riêng, hiện tượng, sự vật; chỉ ra hành động; chỉ ra tính chất, đặc
điểm được nói đến. Có thể thấy, việc sử dụng từ tiếng Anh hiện nay là một hiện
tượng tương đối phổ biến ở nhiều chuyên mục của các tờ báo mạng. Điều này cho
8
thấy tính phổ biến của tiếng Anh trên thế giới cũng như sự ảnh hưởng chúng đối
với mỗi ngôn ngữ.
Về nghĩa của các từ tiếng Anh khi được sử dụng trong tiếng Việt cũng có nhiều
biến động. Đa phần các từ tiếng Anh vẫn giữ nguyên nghĩa khi xuất hiện. Tuy
nhiên cũng có một số lượng các từ, bản thân có các cương vị từ loại khác nhau với
số lượng nghĩa nhiều hơn một song khi đi vào tiếng Việt chỉ dùng ở một nghĩa nhất
định. Như vậy, việc sử dụng nghĩa của từ tiếng Anh có sự lựa chọn sao cho phù
hợp với nhu cầu và mục đích của người dùng. Hơn nữa, các nghĩa khi được dùng
đều là những nghĩa thông dụng, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày. Có lẽ cũng
chính bởi vậy đã dẫn đến cách dùng hình thức của các từ tiếng Anh là để nguyên
dạng không chú giải nghĩa mà không lo lắng người đọc sẽ không hiểu được.
Hiện nay, có một thực tế đang diễn ra là, các từ ngữ tiếng Anh được sử dụng
một cách không nhất quán, nhất là trong các loại sách báo. Mỗi tờ báo lại có một
cách xử lí riêng đối với những từ vay mượn này, thậm chí ở ngay một bài viết.
Từ những ảnh hưởng trên đã tác động trực tiếp đến việc học Tiếng Anh của học
sinh ở Việt Nam hiện nay. Học sinh ở mọi lứa tuổi đều có thể bắt chước cách đọc,
cách nói một số từ, câu Tiếng Anh thông dụng thường được sử dụng trên các
phương tiện truyền thông. Chúng sử dụng các từ Tiếng Anh thay thế cho từ Tiếng
Việt trong giao tiếp với bạn bè, gia đình , thầy cô, và thậm chí trong cả cách viết
văn. Nhưng việc hiểu được chính xác ngữ nghĩa của những từ đó thì thực sự còn
nhiều khó khăn, bởi chính những người đang sử dụng nó một cách chính thống
trên các phương tiện truyền thông cũng chưa thể khẳng định được nghĩa thực của
những từ Tiếng Anh mà họ đang dùng. Việc này dẫn đến hiểu sai nghĩa của từ
trong một số văn cảnh cũng như dùng sai trong khi học viết câu Tiếng Anh.
Cách phát âm các từ Tiếng Anh trên các phương tiện truyền thông hiện nay
cũng rất đa dạng. Cùng một từ nhưng trên các trang tin khác nhau lại có cách đọc,
cách nói khác nhau. Việc này có liên quan đến việc người Việt Nam hiện đang
dùng hai loại Tiếng Anh: Tiếng Anh – Anh và Tiếng Anh – Mỹ, thêm vào đó là
cách phát âm chưa chuẩn của một số người Việt nên việc phát âm thế nào là chuẩn
vẫn còn nhiều tranh cãi. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới việc học Tiếng Anh của học
sinh. Học sinh sẽ học theo cách phát âm mà chúng thích, hoặc chúng được nghe
lần đầu tiên. Có thể cách phát âm đó chưa chưa chính xác nhưng nó sẽ tạo thành
thói quen và sau này sẽ rất khó để thay đổi.
Việc các phương tiện truyền thông đang sử dụng tràn lan các từ Tiếng Anh
ngày nay còn gây ảnh hưởng lớn đến việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt
9
trong môi trường giáo dục. Học sinh bị ảnh hưởng bởi cách nói Anh _ Việt lẫn lộn.
Mỗi câu nói Tiếng Việt thường bị pha thêm một vài từ Tiếng Anh thông dụng. Có
một số hiện tượng sử dụng từ Tiếng Anh như là một trào lưu, một phong cách của
học sinh ngày nay. Các từ ngữ như : rich kid, hot face… đang được sử dụng rất
thịnh hành ở học sinh.
Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận một thực tế rằng việc sử dụng Tiếng
Anh trên các phương tiện truyền thông ngày nay cũng đem lại một số lợi ích cho
việc học Tiếng Anh của học sinh. Trước hết học sinh rất dễ thuộc từ vựng, biết
cách nói Tiếng Anh ngay cả khi chưa biết cách viết. Hơn thế nữa, các lượng từ
vựng thuộc nhiều lĩnh vực có thể được sử dụng một cách phổ biến và rộng rãi nhờ
truyền thông. Học sinh có thể so sánh, đối chiếu để tìm ra những cách học hiệu quả
và phù hợp nhất với bản thân. Đặc biệt, qua các phương tiện truyền thông, học sinh
có thể tự học và nâng cao trình độ Tiếng Anh của mình. Qua các kênh thông tin
nay, học sinh có thể nắm được nhiều những tin tức, kiến thức mới nhất giúp cho
việc học tập trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn.
3.Thực trạng việc dạy và học Tiếng Anh ở Việt Nam ngày nay.
Nếu nói về mức độ đầu tư cho việc học tiếng Anh, Việt Nam có th ể nói
là đứng hàng top 10 trên thế giới vì ít có n ước nào l ại có m ức đ ộ h ọc ti ếng
Anh lâu và dày đặc như vậy. Cha mẹ cho con h ọc t ừ cấp m ột, tr ường d ạy tăng
cường tiếng Anh rồi thì các trung tâm khắp nơi m ở ra quảng cáo đủ các
phương pháp và đủ thể loại giáo viên bản ngữ. Nhưng với mức đầu t ư kh ủng
như vậy, trình độ tiếng Anh của người Việt vẫn lẹt đẹt ở m ức đ ộ chào h ỏi
mấy câu xã giao thông thường với phát âm sai trầm trọng. Công nhân viên
chức nhà nước hay cán bộ thì toàn là mua bằng tiếng Anh ho ặc nh ờ ng ười
khác đi thi giùm. Các bạn trẻ thì học qua loa cấp tốc để lấy đ ược m ột cái
bằng Toeic hay Ielts làm bùa hộ thân rồi thôi. Số người sử dụng đ ược tiếng
Anh lưu loát để nói và viết cũng vẫn chỉ là một con số khiêm tốn.
Trước tiên phải nói đến cách dạy sai. Tiếng Anh là m ột ngôn ng ữ
tương đối dễ học so với những ngôn ngữ châu Âu khác vì tính logic của nó r ất
cao. Tuy nhiên, tính logic này không có nghĩa là chúng ta có th ể công th ức hóa
được ngôn ngữ như đối với toán lý hóa. Việc công th ức hóa ti ếng Anh và h ọc
thuộc lòng thay vì dạy cho học sinh kỹ năng suy luận logic đã khi ến cho bi ết
bao nhiêu thế hệ học thuộc lòng và nhai lại nh ư nh ững con vẹt nh ưng đ ến
khi cần động não tư duy kết nối những kiến thức đã học thì không ai làm
được. Chỉ cần hỏi một câu hỏi lệch ra bên ngoài một chút là coi nh ư thua.
10
Ngay cả các giáo viên dạy tiếng Anh cũng vậy, họ đơn giản là m ột cái máy
học thuộc bài rồi phát lại trên lớp bắt học trò học thuộc theo và lặp lại.
Thứ hai, việc đặt mục tiêu học quá cao một ngoại ngữ là sai l ầm
nghiêm trọng. Tiếng Anh cũng vậy, đây là một ngôn ngữ có chiều sâu và tính
khoa học cao. Học sinh tiểu học ngày nay đã được yêu cầu đạt đ ược các
chứng chỉ Mover, Starter…, học sinh THCS thì phải đạt được ch ứng ch ỉ B1,
học sinh THPT phải đạt B2, C1… Và th ực tế hiện nay h ọc sinh THPT đang đua
nhau đi học Ielt để tìm kiếm học bổng du học. Việc học này không có gì là sai,
nhưng khi tất cả các học sinh bị đặt mục tiêu cao quá sẽ dẫn đến nhi ều b ất
cập. Ở trường, học sinh phải học nhiều môn học m ột lúc, các em không có
quá nhiều thời gian để chỉ học mình môn Tiếng Anh. Các giáo viên muốn h ọc
sinh đạt được mục tiêu thì sẽ ép học sinh học, làm nhiều bài tập, dành nhiều
thời gian cho việc luyện nghe nói… Điều này vô hình dung dẫn đến vi ệc h ọc
lệch các môn học ở trường. Đối với những học sinh không có năng khi ếu
ngoại ngữ thì sẽ thấy áp lực, chán nản và học đối phó.
Thứ ba, giáo trình học ngoại ngữ nói chung hay Tiếng Anh nói riêng có
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bài giảng ở lớp. Hiện nay ở Việt Nam
đang có rất nhiều giáo trình học Tiếng Anh đang đ ược s ử d ụng. Riêng trong
hệ thống chính quy của các trường THPT cũng có tới hai giáo trình: m ột
chương trình cơ bản và một chương trình nâng cao.Bên canh đó còn có vô vàn
loại sách tham khảo khác nhau của các chương trình học khác nhau đang
được học sinh sử dụng như những tư liệu chính thống. Đối với bậc Tiểu học,
giáo trình học Tiếng Anh còn đa dạng hơn rất nhiều. H ầu nh ư m ỗi tr ường sẽ
chọn cho mình một giáo trình riêng, không đồng nh ất v ới các tr ường khác.
Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy, các giáo trình này có nhiều ngu ồn g ốc khác
nhau nên có những giáo trình được biên soạn nghiệp dư, thiếu khoa h ọc,
chất lượng bài học không cao, các hình ảnh, bố cục bài không phù h ợp. S ự
việc này khiến nhiều giáo viên tỏ ra chán nản, thờ ơ, mất cảm hứng dạy,
thậm chí một số người còn có cảm giác bất bình, bị xem th ường. H ơn n ữa,
hậu quả này không chỉ diễn ra trong số giáo viên mà còn lan truy ền nhanh
trong học sinh và kìm hãm động cơ học tập, gây ức chế tinh th ần c ủa các em.
Nếu cách đây 20-30 năm, thứ duy nhất chúng ta nh ập khẩu về để dạy ti ếng
Anh là sách và một số băng đĩa, thì giờ đây trẻ em được tiếp xúc v ới báo đài,
Internet, TV... hoàn toàn bằng tiếng Anh.Cách dạy và học tiếng Anh c ần đ ược
đổi mới. Hệ thống đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, từ thời điểm đó, hoặc
11
thậm chí vài chục năm trước đó, dựa chủ yếu vào học ngữ pháp, có lẽ gi ống
như mục tiêu "xóa mù" tiếng Anh, hơn là để sử dụng và h ội nh ập.Mọi th ứ
đang thay đổi chóng mặt. Nhưng dường nh ư việc d ạy ti ếng Anh trong giáo
dục Việt Nam đang chậm chạp theo sau mà mãi vẫn ch ưa bắt kịp. Do đ ội ngũ
giáo viên tiếng Anh thiếu cả về chất và lượng, việc đổi m ới ch ương trình là
vấn đề nan giải với hệ thống đào tạo Việt Nam. Lý do là giáo viên không đ ủ
chất lượng thì chương trình tốt cũng khó có th ể v ận hành hi ệu qu ả. Th ậm
chí, nếu chương trình giáo dục có thay đổi theo h ướng đào t ạo phát âm thay
vì ngữ pháp đi chăng nữa, thì phần không nhỏ các th ầy cô cũng không đ ủ
trình độ và bản lĩnh để đánh giá chính xác học sinh .
Trước thực tế trên, thay đổi là tất yếu. Bởi nếu hệ th ống giáo dục
không thay đổi, thị trường sẽ tự làm việc đó. Học sinh sẽ lãng phí r ất nhi ều
thời gian học tiếng Anh ở nhà trường, nhưng không sử dụng đ ược. Trong khi
đó, một bộ phận lớn phải ra ngoài để học lại tiếng Anh nh ằm thích nghi v ới
yêu cầu của thị trường. Đây là sự lãng phí nguồn lực vô cùng l ớn c ủa xã h ội và
cần được thay đổi.Thay đổi đầu tiên, thiết nghĩ, phải bắt đầu từ bản thân
giáo viên tiếng Anh. Nếu họ phát âm chuẩn, giao tiếp tốt, họ sẽ đào tạo đ ược
học sinh, sinh viên phát âm tốt và giao tiếp được. Để làm đ ược đi ều này, c ần
chặt chẽ hơn nữa về yêu cầu chuẩn giáo viên tiếng đi kèm v ới lộ trình và h ỗ
trợ cần thiết từ phía nhà trường và Bộ Giáo dục. Sau đó, việc giảng dạy tiếng
Anh với nền tảng là phát âm nên được thực hiện từng bước ở các tr ường
điểm tại các khu vực thành phố lớn, sau đó lan tỏa ra toàn hệ th ống, ph ối
hợp cùng với việc nâng cao chất lượng giáo viên tại các trường đ ại h ọc, trung
học và tiểu học. Tiếp theo, Bộ Giáo dục có thể đưa ra ch ương trình khung,
giáo trình học phù hợp, thống nhất trên cả nước, lộ trình h ọc và ph ương
pháp đánh giá, sau đó thực hiện thí điểm tại các thành ph ố l ớn, rồi lan r ộng
ra cả nước.
III. KẾT LUẬN
Việc sử dụng từ ngữ tiếng Anh trên các phương tiện truyền thông Tiếng Việt
ngày nay phổ biến và có xu hướng ngày một tăng lên. Trước tình hình đó, đòi hỏi
phải có những quy định thống nhất, phù hợp với cảnh huống ngôn ngữ - xã hội của
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hiện chúng ta mới chỉ có những quy định thuộc văn
bản dưới luật, tức là quy định mang tính nội bộ. Vì thế, cần có một quy định đúng
12
với tinh thần của giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, một mặt đảm bảo tiếng Việt
luôn là tiếng Việt và mặt khác, đảm bảo cho tiếng Việt phát triển, hội nhập với tình
hình chung của ngôn ngữ thế giới.
Bên canh đó, việc dạy và học Tiếng Anh theo chuẩn Châu Âu là xu
hướng mới khi mà các chứng chỉ A, B, C không còn phù hợp , chúng ta cần phải
mạnh dạn có những điều chỉnh kịp thời để việc dạy và học Tiếng Anh sẽ
phát triển tích cực, đáp ứng nhu cầu xã hội, và nâng cao v ị th ế, th ương hi ệu
của các nhà trường.
HẾT
13