Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Yếu tố phong tục, tập quán của người miền núi qua tập “Truyện Tây Bắc”  của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.73 KB, 20 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................
2. Lịch sử vấn đề................................................................................................
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................
5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................
6. Cấu trúc đề tài ................................................................................................
Chương 1: Tổng quan về tác giả Tô Hoài và đề tài miền núi........................
1.1. Tổng quan về tác giả Tô Hoài và đề tài miền núi .........................................
1.2. Đề tài miền núi trong văn học Việt Nam ......................................................
1.3 Vị trí của văn xuôi về đề tài miền núi của Tô Hoài trong nền văn học Việt
Nam hiện đại
Chương 2: Vị trí của văn xuôi về đề tài miền núi của Tô Hoài trong
nền văn học Việt Nam hiện đại.........................................................................
2.1. Khái niệm phong tục, tập quán .....................................................................
2.2. Phong tục lễ hội.............................................................................................
2.3. Một số phong tục tập quán, tập tục khác ......................................................
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện các yếu tố phong tục, tập quán của người
miền núi qua tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài.........................................
3.1. Nghệ thuật thể hiện phong tục các lễ hội ......................................................
3.2. Nghệ thuật thể hiện phong tục tập quán cứoi hỏi, hôn nhân ........................
3.3. Nghệ thuật thể hiện phong tục tập quán, tập tục khác của ngừoi miền núi.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


2



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tô Hoài là cây bút văn xuôi sắc sảo, là nhà văn có vị trí quan trọng
trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tác của Tô Hoài rất đa dạng và
phong phú với nhiều để tài như: vùng quê ngoại thành Hà Nội, miền núi Việt
Bắc - Tây Bắc trong kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, sáng tác cho
thiếu nhi, chân dung và hồi ức. Các sáng tác của Tô Hoài có ý nghĩa khẳng
định sự nghiệp văn học của ông. Bên cạnh đó còn có ý nghĩa to lớn đối với sự
phát triển của nền văn học Việt Nam.
1.2. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, viết về miền núi là đề tài mới
của Tô Hoài. Miền núi Việt Bắc- Tây Bắc trở thành nỗi ám ảnh trong chặng
đường sáng tác sau này của nhà văn. Từ tập truyện “Núi cứu quốc” (1948)
cho đến “Nhớ Mai Châu” (1989) là một quãng thời gian dài 40 năm viết về
đề tài miền núi trong đời văn của mình, là một thời gian đáng kể. Từ các giải
thưởng cao quý dành cho các tác phẩm viết về đề tài này, cộng với sự đón
nhận nhiệt thành của bạn đọc và giới nghiên cứu, chúng ta có thể nói sáng tác
về đề tài miền núi là một ưu thế đặc biệt của Tô Hoài và nó góp phần to lớn
trong việc khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của ông trong nền văn học
Việt Nam hiện đại.
1.3. Tác giả Tô Hoài có vị trí quan trọng nên được đưa vào giảng dạy ở
trong chương trình ngữ văn bậc phổ thông. Trước cách mạng tiêu biểu với Dế
Mèn phiêu lưu kí. Sau cách mạng có tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm
của Tô Hoài đạt được những thành tựu đáng kể về giá trị trị nội dung cũng
như giá trị nghệ thuật. Trong tương lai, tôi sẽ là một giáo viên dạy văn nên
việc thực hiện đề tài này là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn và ý
nghĩa khoa học. Những nghiên cứu của đề tài sẽ giúp tôi học tập và giảng dạy
tốt hơn về các tác phẩm của tác giả Tô Hoài.



3

Những lý do trên đây là động lực khiến chúng tôi muốn chọn đề tài
"Phong tục tập quán của người miền núi qua tập “Truyện Tây Bắc” của
Tô Hoài" làm đối tượng để nghiên cứu. Từ đó, giúp tôi có cái nhìn toàn diện
về những đóng góp của Tô Hoài đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Với hơn 60 năm viết mải miết không ngừng trên rất nhiều đề tài với
nhiều thể loại Tô Hoài đã cho ra đời trên 170 đầu sách. Những tác phẩm của
Tô Hoài đa số đều có giá trị to lớn và được rất nhiều bạn độc đón nhận. Sáng
tác của Tô Hoài sớm đợc đông đảo các nhà phê bình, nhiên cứu quan tâm.
Trong đó đề tài viết về miền núi của Tô Hoải được khà nhiều người nghiên
cứu và được nhiều nhà phê bình văn học bàn tới.
Về tập truyện ngắn "Núi cứu quốc" (1948)- Tập truyện viết về miền núi
đầu tiên của Tô Hoài, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã đưa ra nhận xét: “Tất cả
diễn lên bằng lời văn sinh động, đẹp chắc mà ta đã quen đọc Tô Hoài từ lâu.
Nhiều hình ảnh đẹp như thơ, nhất khi nói về khung cảnh Việt Bắc” [2,tr.217]
Đến năm 1953 tập "Truyện Tây Bắc" xuất bản đợc giới phê bình đánh giá
cao. Trong bài viết “Tô Hoài và Truyện Tây Bắc” Hoàng Trung Thông chú ý
đến nghệ thuật viết truyện ngắn "Mờng Giơn" từ cách dẫn truyện đến bút
pháp, ông chỉ ra: “Tô Hoài viết “Mờng Giơn” dưới con mắt của một nhà thơ.
Phong cảnh và con người đẹp đẽ của tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ
nên với sức rung động thơ .”[2,tr228]. Còn tác giả Huỳnh Lý nhận xét:“Khi
miêu tả một cảnh đẹp, một cuộc vui, một không khí gia đình đầm ấm, không
ngại nói nhiều, ông đa rất đúng lúc màu sắc, hình ảnh và nhạc điệu vào khiến
cho đoạn văn vừa như một khúc nhạc, một bức tranh, một bài thơ.” [2,tr241]
Đọc tác phẩm "Vợ chồng A Phủ", tác giả Nguyễn Văn Long thấy được:
“Nghệ thuật của Tô Hoài còn thành công của truyện trước hết ở nghệ thuật
xây dựng nhân vật và Nghệ thuật truyện của Tô Hoài còn thành công ở chỗ



4

tác giả đã nắm bắt đợc, lựa chọn đợc những chi tiết chân thực, sinh động mà
có sức khái quát cao.”[2,tr 256] Còn trong bài viết “Vợ chồng A Phủ” của
Nguyễn Quang Trung có nhận xét: “Thật khiếm khuyết nếu bỏ qua những bức
tranh phong tục và thiên nhiê phủ một chất thơ trong đoạn trích”.[2,275]
Năm 1967 tiểu thuyết "Miền Tây" được xuất bản. Giáo sư Hà Minh Đức
trong bài viết “Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài” đã nói đến nghệ thuật
dựng ngời dựng cảnh. Giáo sư Phan Cự Đệ trong bài Tô Hoài với Miền Tây
cho rằng: “Miền Tây” phần nào thể hiện đợc đằc điểm phong cách Tô Hoài
Bao giờ cũng cố gắng gắn liền chất hiện thực với màu sắc lãng mạn, trữ tình
thơ mộng trong tác phẩm của mình” [2,tr341] . Khái Vinh đọc "Miền Tây"
nhận thấy rằng : “Đọc Miền Tây dường như người ta bị thiên nhiên thu hút
hơn con ngời và khi tiếp xúc với đời sống nhân vật thì phong tục, tập quán lại
đợc biểu hiện sinh động hơn là tâm trạng.” [2,tr360].
Năm 1971, Tô Hoài cho công bố tiểu thuyết "Hoàng Văn Thụ". Huyên
Kiêu nhận xét: “Tôi nghĩ rằng, khiêm tốn và kín đáo. Tô Hoài chỉ muốn thể
hiện một cách viết chứ không muốn chứng minh rằng viết người thực việc
thực cũng có thể trở thành một tiểu thuyết hấp dẫn.” [2,tr 361].
Năm 1984, tiểu thuyết "Họ Giàng ở Phìn Sa" đợc xuất bản nhưng ít có
tiếng vang. Số phận của tiểu thuyết "Nhớ Mai Châu" cũng vậy, ra đời trong sự
thờ ơ của độc giả.. Mai Ngữ khẳng định: “Nhớ Mai Châu là một cuốn tiểu
thuyết hay, suất sắc trong đó bộc lộ phong cách và tài năng nhà văn rất
nhiều.” [2,tr.407]. Vân Thanh tiếp tục khẳng định giá trị của "Nhớ Mai Châu"
khi viết: “Tô Hoài vẫn luôn luôn cố gắng tìm cho mình một cách viết sáng
tạo, mới mẻ về một vấn đề quen thuộc - miền núi, vùng quê của anh”
[2,tr410].
Qua những ý kiến phê bình trên của các nhà phê bình, nghiên cứu về

các tác phẩm của Tô Hoài nói chung và các tác phẩm viết về đề tài miền núi
nói riêng cho chúng ta thấy giá trị của những tác phẩm của tác giả Tô Hoài.


5

Vì vậy, việc nghiên cứu về các đề tài của Tô Hoài cũng như cụ thể là đề tài
miền núi là việc cần thiết để hiểu rõ về tác giả Tô Hoài. Trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi đề cập đến yếu tố phong tục tập quán của người miền núi
qua tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về
đề tài miển núi cũng như nghệ thuật viết truyện của tác giả Tô Hoài trong tập
“Truyện Tây Bắc”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Phong tục tập quán của người miền
núi qua tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Trọng tâm khảo sát và nghiên cứu của đề tài là tập “Truyện Tây Bắc”
gồm 3 tác phẩm: Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về tác giả Tô Hoài và đề tài miền núi.
- Nhiệm vụ trọng tâm là nghiên cứu về phong tục, tập quán của người
miền núi qua tập “Truyện Tây Bắc”.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát - thống kê
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
6. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
đề tài được triển khai gồm ba chương:
Chương 1. Tổng quan về tác giả Tô Hoài và đề tài miền núi.
Chương 2. Vị trí của văn xuôi về đề tài miền núi của Tô Hoài trong


6

nền văn học Việt Nam hiện đại.
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện các yếu tố phong tục, tập quán của người
miền núi qua tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài.


7

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÁC GIẢ TÔ HOÀI VÀ ĐỀ TÀI MIỀN NÚI
1.1. Tổng quan về tác giả Tô Hoài và đề tài miền núi
1.1.1. Cuộc đời tác giả Tô Hoài
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 07 – 9 - 1920 tại làng
Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức - tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô - quận
Cầu Giấy - Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công. Ông còn có nhiều bút
danh khác như: Mai Trung, Duy Phương, Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đột Kích,
…Quê quán : xã Kim An - huyện Thanh Oai - tỉnh Hà Tây.Tuổi thanh niên,
Tô Hoài phải trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như : dạy học tư,
bán hàng, làm kế toán cho hiệu buôn, … Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của
Mặt trận Bình dân và tham gia hoạt động trong tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và
Thanh niên dân chủ Hà Nội.Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội văn hóa cứu
quốc và bắt đầu viết bài cho báo Cứu quốc và Cờ giải phóng.Sau Cách mạng
tháng Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc”. Ông là một trong số

những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch ở mặt trận
phía Nam (Nha Trang, Tây Nguyên…). Năm 1946, ông được kết nạp vào
Đảng.Năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957
đến năm 1980, Tô Hoài đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà
văn như : Uûy viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà
Nội, Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.
Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho
đến nay, Tô Hoài đã sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một
trăm năm mươi đầu sách) ở nhiều thể loại khác nhau như : tiểu thuyết, truyện
ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Với những đóng góp to lớn cho
nền văn học nước nhà, vào năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ


8

Chí Minh.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác đầu
tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy xuất
hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm khẳng
định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một loạt tác
phẩm độc đáo, đặc sắc như : Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941),
O chuột (1942), Trăng thề (1943) Nhà nghèo (1944 ). Từ các tác phẩm này,
người đọc dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ thuật của
ông. Sau này, Tô Hoài đã bộc bạch chân thành qua Tự truyện về việc ông đến
với nghề văn, ông viết : “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách
mạng tháng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện
vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn thì mấy chục
truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng
có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy”.

Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại chính
là: truyện về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Truyện về loài vật qua những truyện về loài vật tiêu biểu như : O chuột,
Gã chuột bạch, Tuổi trẻ, Đôi ghi đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực...,
người đọc nhận thấy, nhà văn thường viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện
trong cuộc sống, bày tỏ mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên trong
xã hội, một cuộc sống tốt đẹp mang tính không tưởng.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói nghèo
cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn
bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất khách
quê người, những người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần qua từng trang
sách với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Đó là thân phận của
bà lão Vối trong truyện Mẹ già buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào con.


9

Chỉ vì một con lợn sổng chuồng mà bà bị chính con gái mình chửi rủa chì
chiết đủ điều. Với cách nghĩ của con gái bà thì bà chẳng khác gì người đi ở
mướn, chị ta đã quát : “Thế tôi nuôi bà để làm gì mà bà lại không trông được
con lợn?”, thậm chí, không cho bà ngủ ở nhà trên mà đuổi bà xuống bếp nằm
ngủ ở đống rơm. Sáng ngày hôm sau cả nhà ăn uống nhưng hình như họ đã
quên là có bà hiện diện trong cuộc sống của gia đình mình. Đó là số phận của
chị Hối trong truyện Ông cúm bà co, bị ốm nhưng không có thuốc men chữa
chạy, rồi bệnh nặng dần vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng” bỏ lại
mấy đứa con thơ dại. Đó còn là tấn bi kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn
cùng tên. Từ đâu lưu lạc tới không ai rõ, chịu khó làm ăn cho đến khi có một
“gia đình nho nhỏ, đề huề sống yên vui” ... Thế nhưng, vì cơn ghen vô cớ của
anh khiến người vợ bỏ đi biệt tích. Đứa con, niềm an ủi duy nhất đối với anh
ngã bệnh, hết tiền chạy chữa, trong lúc khốn cùng đành liều đi ăn trộm để rồi

bị bắt, cùng lúc đó đứa con cũng chết. Từ đó “Gà Gáy sống còm cõi một
mình”. Cay đắng hơn là số phận của bé Gái trong cảnh Nhà nghèo. Nó sinh ra
trong gia đình nghèo khổ, túng thiếu và nhiều lần chứng kiến cảnh cha mẹ cãi
nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng với cha mẹ cố tìm miếng ăn cho gia
đình, “người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết ra cả”. Cảnh đó thật xót xa,
thê thảm.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư
tưởng và sáng tác. Tâm trạng trăn trở, phân vân định hướng không dừng lại
quá lâu ở Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và
sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau.
Trong đó, các tác phẩm tiêu biểu của ông giai đoạn này gồm Miền Tây (tác
phẩm đạt giải thưởng Bông sen vàng của Hội Nhà văn Á Phi vào năm
1970), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ
Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai Châu, Mười Năm, Nhật kí vùng cao, Lên Sùng
Đô, Tôi thăm Campuchia, Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng song cửa...


10

Trong sự nghiệp văn chương của mình, nhà văn Tô Hoài từng được nhà
nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu
ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào
lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn
Thụ. Điều đáng nói, một số tác phẩm về đề tài thiếu nhi của ông đã được dịch
ra nhiều ngôn ngữ và độc giả trẻ nhiều nước trên thế giới yêu mến.
Truyện dài Dế Mèn phiêu lưu kí được ông viết xong vào tháng 12 năm
1941 tại Nghĩa Đô, ngoại ô Hà Nội khi đó. Đây là tác phẩm rất nổi tiếng của
ông dành cho thiếu nhi.
Tác phẩm gần đây nhất của ông là Ba người khác. Sách được viết xong
năm 1992 nhưng đến 2006 mới được phép in, nội dung viết về thời kỳ cải

cách ruông đất miền bắc Việt Nam đã gây tiếng vang lớn và có thể so sánh
với Dế Mèn phiêu lưu ký, "đã mở ra diện mạo mới cho văn chương Việt Nam"
trong nền văn học hiện thực.
Trong số những sáng tác trên thì tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng
là kiệt tác. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” là sự thành công đặc sắc ở mảng đề
tài về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú về
Tây Bắc, ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi đau
thương, khổ nhục của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong
kiến. Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường,
Vợ chồng A Phủ. Hình ảnh người lao động miền núi Tây Bắc nghèo khổ, mà
nhất là người phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài miêu tả với tất cả
niềm cảm thông sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần, chết
mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân phận của cô
Aûng, từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món đồ chơi
qua tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành bà
lão Ảng ăn mày..., đã để lại cho người đọc biết bao điều suy nghĩ về cuộc


11

sống đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức
nặng nề của thực dân và phong kiến ở miền núi. Mặt khác, qua tập truyện
trên, Tô Hoài đã khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền
núi Tây Bắc, cũng như lí giải thành công về con đường tất yếu họ phải tìm
đến để thoát khỏi cuộc sống bị đọa đày áp bức đó là con đường cách
mạng. Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên
con đường sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài
về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cách mạng .
1.2. Đề tài miền núi trong văn học Việt Nam
1.2.1. Thời kì trước cách mạng:

Nói về các tác phẩm viết về đế tài miền núi thì văn học các dân tộc miền
núi đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Trước cách mạng tháng tám,
nhìn chung có dân tộc miền núi đều có sáng tác văn học, nhưng chủ yếu vẫn
là sáng tác dân gian truyền miệng như: tục ngữ, ca dao, dân ca, thần thoại,
truyện thơ, sử thi anh hùng…Trong đó, có các tác phẩm tiểu như: tác phẩm
Xống chụ xon xao ( dịch Tiễn dặm người yêu), tác phẩm Tóng đón am ca, thi
tống ( dân tộc Thái) tác phẩm Khảm hải ( dịch Vượt Biển) (dân tộc Tày) tác
phẩm Đam San, Đam Di ( dân tộc Ê-đê)tác phẩm Xinh nhã ( dân tộc Gio7rai)

Các tác phẩm văn học viết và văn học dân gian viết về đề tài miền núi
chưa có ranh giới rõ ràng. Do trình độ xã hội còn quá thấp, một số dân tộc
chưa có chữ viết…nhưng không vì vậy mà các tác phẩm viết về đề tài miền
núi lại hạn chế, ngược lại nó rất phong phú và có nhiều nét độc đáo riêng biệt.
Trước cách mạng tháng tám 1945 cũng có một sốc tác giả viết về đề tài
miền núi như: Lan Khai, Thế Lữ…Các tác phẩm như:
1.2.2. Thời kì sau cách mạng:
1.3. Vị trí của văn xuôi về đề tài miền núi của Tô Hoài trong nền văn
học Việt Nam hiện đại


12

Chương 2
VỊ TRÍ VĂN XUÔI VỀ ĐỀ TÀI MIỀN NÚI CỦA TÔ HOÀI
TRONG NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1. Khái niệm phong tục, tập quán
Phong tục tập quán là những nếp sống, phong tục do những người sống
trong xã hội tự đặt ra, nó được áp dụng vào đời sống và phục vụ cho mọi
người nhưng không mang tính chất vi phạm phạm luật. phong tục cũng dần
được thay đổi khác đi để phù hợp với đời sống hiện tại của từng thời kỳ.[3]

Trong đó:
Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được hình
thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa
nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo
nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng. Phong tục không mang tính cố
định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức, tuy nhiên nó cũng không tuỳ tiện,
nhất thời như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội
tương đối bền vững. Phong tục của một dân tộc, một địa phương, một tầng
lớp xã hội, thậm chí của một dòng họ và gia tộc, thể hiện qua nhiều chu kì
khác nhau của đời sống con người. Hệ thống các PT liên quan tới vòng đời


13

của con người như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và
lên lão, phong tục tang ma, cúng giỗ... Hệ thống các phong tục liên quan đến
chu kì lao động của con người, mà với cư dân nông nghiệp là từ làm đất gieo
hạt, cấy hái đến thu hoạch, với ngư dân là theo mùa đánh bắt cá... Hệ thống
các phong tục liên quan tới hoạt động của con người theo chu kì thời tiết
trong năm, phong tục mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông. Phong tục là
một bộ phận của văn hoá, có vai trò quan trọng trong việc hình thành truyền
thống của một dân tộc, địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí chế định nhiều
ứng xử của cá nhân trong cộng đồng. Phong tục được tuân thủ theo quy định
của luật tục hay hương ước. Người vi phạm có thể bị phạt vạ. Cùng với sự
phát triển của xã hội, một số phong tục không còn phù hợp với thời đại mới,
bị đào thải, trong khi một số phong tục mới được hình thành. Ở Việt Nam,
cuộc vận động xây dựng gia đình, xóm làng, phường, khu dân cư văn hoá mới
nhằm loại trừ các phong tục lỗi thời, duy trì và phát triển các phong tục tốt
đẹp, bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực trong việc xây dựng đời
sống văn hoá mới của các tầng lớp nhân dân.[3]

Tập quán trong (nông, sinh) là các quá trình mở rộng các kinh nghiệm,
hiểu biết, thông minh tương ứng của các cá thể sinh vật đối với điều kiện môi
trường và hoàn cảnh sống. Ở động vật, có nhiều hình thức như tập quán nơi
ở, tập quán bắt chước, tập quán cảm nhận các dấu hiệu báo trước... Tập quán
là khả năng động vật thử nghiệm rồi tìm ra cách giải quyết mới có hiệu quả
nhất trong hoàn cảnh nào đó. Có hai kiểu: tập quán bắt buộc hay tập quán
bẩm sinh, đã được xác lập cho tập tính riêng của loài với cơ chế ổn định từ
bẩm sinh và rất cần trong duy trì loài.Tập quán tuỳ ý hay tập quán tập nhiễm
là những tập tính nhất định, định hình cho bản năng vận động, nội dung "học"
tuỳ ý và tiếp thu khác nhau ở mỗi loài hoặc mỗi cá thể. Thường phát triển ở
những động vật sống lâu và có thời kì chăm sóc con kéo dài.[3]
Tâp quán trong (dân tộc, văn hoá) là những phương thức ứng xử và
hành động đã định hình quen thuộc và đã thành nếp trong lối sống, trong lao
động ở một cá nhân, một cộng đồng. Tập quán gần gũi với thói quen ở chỗ nó
mang tính tĩnh tại, bền lâu, khó thay đổi. Trong những tình huống nhất định,
tập quán biểu hiện như một hành vi mang tính tự động hoá. Tập quán xuất
hiện và định hình một cách tự phát, hoặc hình thành và ổn định thông qua sự
rèn luyện và là kết quả của quá trình giáo dục có định hướng rõ rệt.[3]
2.2. Phong tục lễ hội


14

Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của phong tục. Ông có một nhãn
quan phong tục đặc biệt nhạy bén và sắc sảo. Những phong tục bao đời nay
của dân tộc ta vốn đã rất phong phú và độc đáo nhưng khi vào tác phẩm của
Tô Hoài, nó lại được miêu tả sinh động và lôi cuốn bội phần.
Có thể nói, dù viết về những người dân ngoại thành Hà Nội, về đồng
bào miền núi cao Tây Bắc hay về loài vật, Tô Hoài cũng khéo léo đưa vào đó
những phong tục, tập quán quen thuộc của con người Việt Nam. phong tục

của Tô Hoài trong tác phẩm tiêu biểu của ông: Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu
mường và Mường Giơn.
Phong tục là đặc trưng văn hóa dân tộc,là niềm tự hào của một cộng
đồng người từng quần tụ với nhau hàng nghìn năm trong một vùng lãnh thổ.
Đó là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và
làm theo. Việc thể hiện phong tục trong tác phẩm đem đến cho người đọc
những tri thức bổ ích về đời sống, những hiểu biết thú vị về những vùng trời
xa lạ hay về một thời kì lịch sử thường không còn vang bóng. Thông qua
những trang viết đậm màu sắc phong tục, người đọc biết được ở thời kì ấy,
miền đất ấy, dân tộc ấy có những thói quen sinh hoạt, cách ăn mặc, nói năng,
vui chơi, lao động, cách giao tiếp, ứng xử, những nghi lễ tôn giáo như thế
nào.Vợ chồng A Phủ là tác phẩm tiêu biểu nhất của Tô Hoài viết về đề tài
miền núi. Mảng sáng tác về đề tài này được coi là một “đặc sản” của ông. Căn
cứ vào số lượng tác phẩm và hành trình sáng tác, có thể coi Tô Hoài là nhà
văn viết nhiều nhất, thủy chung nhất với đề tài miền núi. Chính những năm
tháng thâm nhập thực tế vùng núi cao Tây Bắc đã giúp Tô Hoài có một vốn
sống phong phú và sâu sắc về cuộc sống và con người đồng bào các dân tộc
vùng đất này.Bởi vậy, đọc Vợ chồng A Phủ, ngoài bức tranh hiện thực về đời
sống xã hội, người đọc còn bị thu hút bởi những trang miêu tả phong tục sinh
hoạt với màu sắc dân tộc đậm đà, với những chi tiết độc đáo, sinh động của
một cây bút có óc quan sát thông minh, tinh tế.
Những ngày tết vùng cao, đêm tình mùa xuân


15

Với vốn hiểu biết phong phú, khả năng quan sát sắc sảo và năng lực
dựng người, dựng cảnh tinh tế, tác giả đã phác họa được những bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, miêu tả sinh động nhiều phong tục
độc đáo của người H'mông.

Tết của người vùng cao không giống tết ở miền xuôi. Người H'mông ăn
tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Cho
nên cái tết năm ấy đến Hồng Ngài giữa lúc "gió và rét rất dữ dội" nhưng cũng
không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở
đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Tô Hoài đã đặc tả không khí
ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện lên bức tranh ngày
tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh: "Trong các làng Mèo Đỏ, những
chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ
[...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Ông cũng
đặc biệt chú trọng đến những phong tục lạ, ngộ nghĩnh qua con mắt tò mò,
hóm hỉnh của mình: "Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng
đoàn", "Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị
Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn".
Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú
ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người
H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng:" Anh ném pao, em không bắt.
Em không yêu, quả pao rơi rồi". Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của
các chàng trai đối với con gái trong bản làng. Trong "Vợ chồng A Phủ", ngòi
bút Tô Hoài cũng tỏ ra rất thành công khi lột tả được nét đặc trưng, lột tả
được "cái hồn" của tiếng sáo: "Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sao rủ
bạn đi chơi", "Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh". Tiếng sáo còn
là cách tỏ tình đặc biệt của người con trai miền núi: "Suốt đêm, con trai đến
nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách".
Thời gian cứ tiếp nối, những ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân
của ngày xưa và ngày sau dường như vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua
thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim biết bao chàng trai cô gái miền sơn
cước.
2.3. Một số phong tục tập quán, tập tục khác
Ngoài phong tục lễ hội, thì các phong tục tập tục khác của người miền



16

núi, cũng đươc nhắc đến trong: Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường và
Mường Giơn.
2.3.1 Tục cho vay nặng lãi
Tục cho vay nặng lãi ở miền núi thời phong kiến được thể hiện tập
trung ở nhân vật Mị. Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ
H’mông nghèo ngày trước: có đầy đủ phẩm chất để được sống hạnh phúc
nhưng lại bị đọa đày trong kiếp sống nô lệ.
Đi tìm nguyên nhân cho số phận bất hạnh của cô Mị, người đọc có dịp
hiểu về tục cho vay nặng lãi – nỗi lo sợ hãi hùng của biết bao số phận người
lao động nghèo khổ miền núi trước Cách mạng. Ngày xưa, bố mẹ Mị lấy nhau
không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây
giờ. Mỗi năm phải đem nộp lãi một nương ngô. Rồi đến khi mẹ Mị chết, bố
Mị đã già mà món nợ ấy vẫn như một sợi dây oan nghiệt: “Chao ôi! Thế là
cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, đến bây giờ người ta bắt con trừ nợ,
không thể làm khác được rồi”. Mị muốn được làm chủ cuộc đời bằng sức lao
động của chính mình: “Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm
nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Nhưng đâu có
được! Tục cho vay nặng lãi đã trói Mị vào món nợ truyền kiếp. Từ đây, Mị
phải sống cuộc đời của người con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Định mệnh
bi thảm đã giáng xuống cuộc đời người thiếu nữ ấy, buộc chặt cô vào số phận
nô lệ không có lối thoát.
2.3.2.Tục cướp vợ trình ma
“Bản Mèo ánh trăng sáng
Tay dắt cương giấu con ngựa dưới sàn
Chàng trai người Mông vắt em yêu ngang lưng ngựa đó
Ngựa mang thiên thần lên đỉnh núi".
Những câu hát trong ca khúc “Cướp vợ” của ban nhạc Ngũ Cung đã

phần nào nói lên phong tục cưới hỏi rất đặc sắc của người H’mông. Trai gái


17

H’mông yêu nhau, chàng trai thỏa thuận với người yêu tổ chức cuộc “cướp”
mang người con gái về nhà mình. Sau đó mới đến trình nhà vợ. Thường mùa
xuân ăn tết, con trai hay đi “cướp vợ”. Đây là phong tục thanh niên rất thích
và bây giờ vẫn còn.
Mị là cô gái đẹp, thổi kèn hay, nhiều người mê Mị “trai đến đứng nhẵn
cả chân vách đầu buồng Mị”. Tết năm ấy, Mị bị A Sử - con trai thống lí Pá Tra
đánh lừa, lợi dụng tục này cướp cô về làm vợ. Xót xa thay, hắn đâu cưới Mị vì
tình yêu, hắn và người nhà hắn bắt Mị về ép duyên để gạt nợ: “Họ nhốt Mị
vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy
múa”. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh phui bản chất bóc lột
giai cấp được ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị tiếng là con dâu nhưng
thực chất chỉ như một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua mà lại tha hồ
được bóc lột, hành hạ.
Ý thức phản kháng của Mị cũng dần tiêu tan chỉ vì ý nghĩ : mình đã bị
đem trình ma thì có chết cũng trở thành ma nhà thống lí, chết cũng không
được tự do. Hủ tục đã giết chết hạnh phúc của Mị. Suy nghĩ lạc hậu, mê tín dị
đoan – một phần trong tâm linh người dân tộc H’mông cũng là một phần
nguyên nhân khiến cuộc đời Mị rơi vào bi kịch. Tình cảnh của Mị là chứng cớ
tố cáo mãnh liệt nhất bọn cường hào cho vay nặng lãi. Vợ chồng A Phủ chính
là bản cáo trạng hùng hồn về những nối thống khổ của người phụ nữ miền núi
– những người vừa phải chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói
chặt trong xiềng xích của thần quyền.
2.3.3. Tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ
Sự xuất hiện của nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện nhãn quan
phong tục của Tô Hoài. A Phủ có số phận bất hạnh, mồ côi cả cha lẫn mẹ, suốt

đời làm thuê làm mướn. Anh nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và
cũng không có nổi cái vòng bạc để đi chơi tết như bao chàng trai H’mông
khác. Chính những hủ tục “phép rượu”, “phép làng” và tục cưới xin nên A


18

Phủ trở thành tứ cố vô thân, không sao lấy được vợ.
Ngày tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao. A Sử đến phá đám bị A Phủ
đánh. Cũng vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Pá Tra. Bằng ngòi bút miêu tả
phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã tái hiện sống động một cuộc xử kiện quái lạ,
từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắng trợn kiểu trung cổ của bọn thống lí
miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong không gian của màu khói thuốc phiện
“xanh như khói bếp”, của mùi khói thuốc phiện ngào ngạt. Những kẻ tham gia
vào bộ máy xử kiện thì “nằm dài cả bên khay đèn”. Cứ hút xong một đợt
thuốc phiện, Pá Tra lại ra lệnh, trai làng lại thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi
xông ra đánh A Phủ. Như vậy, cuộc xử kiện quái đản này thực chất chỉ là một
cuộc tra tấn người dã man của bọn chúa đất – những con nghiện: “suốt chiều,
suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Cuối cùng,
người con trai tự do của núi rừng như A Phủ cũng không thoát khỏi nanh vuốt
của lũ chúa đất. Từ đây, anh vĩnh viễn trở thành nô lệ cho nhà Pá Tra: “Cả tiền
phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng… Bao giờ có tiền
giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con
ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ
hết nợ tao mới thôi”. Như vậy, bản chất của phạt vạ ở đây chỉ là để thỏa mãn
cho bọn thống quản ăn chơi, hút xách.
Bằng nhãn quan phong tục sắc sảo, Tô Hoài đã giúp người đọc hiểu thêm về
những tục lệ kì quái, dã man của bọn chúa đất, chúa rừng trước kia. Câu
chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện về Mị người con dâu gạt nợ để làm hoàn chỉnh bản án về tội ác của bọn thống trị
phong kiến đối với những người lao động lương thiện ở miền núi trước Cách

mạng.
Trong Vợ chồng A Phủ, với biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục xã
hội, Tô Hoài đã tạo dựng được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thơ
mộng, một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở vùng


19

cao Tây Bắc. Thông qua tác phẩm, người đọc có thêm những tri thức bổ ích
về đời sống, phong tục tập quán của dân tộc H'mông đó là tục cho vay nặng
lãi; tục cướp vợ trình ma; tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ... Tất cả
được Tô Hoài miêu tả với những tìm tòi, khám phá sâu sắc, không phải bằng
kiến thức dân tộc học khô khan mà là qua nhãn quan phong tục vô cùng độc
đáo và những trang viết thấm đẫm tình người.

Chương 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁC YẾU TỐ PHONG TỤC
TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI MIỀN NÚI QUA TẬP “TRUYỆN TÂY BẮC”
CỦA TÔ HOÀI
3.1. Nghệ thuật thể hiện phong tục các lễ hội


20

3.2. Nghệ thuật thể hiện phong tục tập quán cứoi hỏi, hôn nhân
3.3. Nghệ thuật thể hiện phong tục tập quán, tập tục khác của ngừoi miền
núi

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Nguyễn Văn Long - Trần Đăng suyền (Đồng chủ biên) (2007), Giáo trình
Văn học Việt Nam Hiện Đại (Tập1), Nxb Đại học Sư phạm.
2) Phong Lê (giới thiệu), Vân Thanh (tuyển chọn), 2000, Tô Hoài về tác gia
và tác phẩm, Nxb GD, HN.
3) />qid=20071228014734AAEMyUH



×