Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐẶNG THỊ HỒNG NHUNG
VĂN HOÁ VÀ CON NGƢỜI MIỀN NÚI
QUA TẬP TRUYỆN TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ
CỦA ĐỖ BÍCH THUÝ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐẶNG THỊ HỒNG NHUNG
VĂN HOÁ VÀ CON NGƢỜI MIỀN NÚI
QUA TẬP TRUYỆN TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ
CỦA ĐỖ BÍCH THUÝ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ TUẤN ANH
Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã giúp đỡ tôi trong quá trình họa tập cũng như làm luận văn. Đặc biệt
tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Tuấn Anh, người không
chỉ giúp đỡ tôi mà còn động viên tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn thành luận
văn này.
Tác giả luận văn
Đặng Thị Hồng Nhung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân
tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được
công bố trong bất cứ một công trình nào khác.
Người viết luận văn
Tác giả luận văn
Đặng Thị Hồng Nhung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 9
Chƣơng 1. CON NGƢỜI MIỀN NÚI QUA TẬP TRUYỆN NGẮN
TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ CỦA ĐỖ BÍCH THUÝ 9
1.1 Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thuý - một tác phẩm tiêu
biểu và đặc sắc về miền núi. 9
1.1.1 Vài nét về tác giả Đỗ Bích Thuý 9
1.1.2. Khái quát tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá 11
1.2. Con người miền núi qua tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá. 14
1.2.1. Cuộc sống và con người miền núi trên cao nguyên đá Đồng Văn-
Hà Giang hùng vĩ. 14
1.2.2. Hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số- điểm nhấn đặc biệt trong
tập truyện ngắn. 18
Chƣơng 2. NHỮNG NÉT VĂN HOÁ ĐẶC SẮC TRONG TẬP
TRUYỆN NGẮN TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ 29
2.1. Một cách tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ văn hoá 29
2.1.1. Mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và văn học 29
2.1.2. Nghiên cứu tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ
Bích Thuý từ góc độ văn hoá 33
2.2. Những nét văn hoá đặc sắc của người dân tộc Mông, Tày ở Hà Giang
trong tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá. 36
2.2.1. Đặc điểm văn hoá Mông, Tày 36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
2.2.2. Đặc trưng văn hoá các dân tộc miền núi qua tập truyện Tiếng đàn
môi sau bờ rào đá. 40
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐẶC SẮC TRONG TẬP
TRUYỆN NGẮN TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ 54
3.1. Ngôn ngữ tác phẩm giàu bản sắc văn hoá 54
3.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ. 60
3.3. Ngôn ngữ gắn liền với cách tư duy của người miền núi 63
PHẦN KẾT LUẬN 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, các sáng tác viết về đề tài
miền núi chiếm một dung lượng khá khiêm tốn. Song trong tiến trình phát
triển của văn học Việt Nam hiện đại cũng đã dần hình thành một mảng văn
học viết về đề tài miền núi. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 có thể kể
đến Lan Khai, Đái Đức Tuấn, Thế Lữ là những nhà văn đầu tiên viết về đề
tài này với loại Truyện đường rừng. Sau Cách mạng tháng Tám một số nhà
văn người Kinh như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng… đã
tìm đến với mảng đề tài này. Đó là những sáng tác có ý nghĩa như “những
con dao phát đường rừng giúp đỡ cho các anh chị em viết văn miền núi”
(Nông Minh Châu). Khoảng những năm 1950 trở lại đây, bên cạnh các nhà
văn người Kinh xuất hiện các nhà văn người dân tộc thiểu số như Nông
Minh Châu, Hoàng Hạc, Vi Hồng, Hoàng Triều Ân Những tác phẩm của họ
như một bức tranh rộng lớn với những hình ảnh sinh động về cuộc sống và
con người miền núi. Cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền núi ngày
càng trở thành mảng đề tài văn học lớn, sản sinh những tác phẩm đứng ở vị
trí hàng đầu trong nền văn học cách mạng, có thể kể đến như Truyện Tây
Bắc (Tô Hoài), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc)…Qua đó, có thể nói
mảng văn học viết về đề tài miền núi đã trở thành một bộ phận đặc sắc và
độc đáo, góp phần làm nên tính đa dạng và phong phú trong đời sống văn
học các dân tộc Việt Nam
Đến những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI chúng ta vẫn đang
tiếp tục có nhiều tác phẩm viết về mảng đề tài này như: Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn, Móng vuốt thời gian (Ma Văn Kháng), Tiếng chim kỷ giàng (Bùi Thị
Như Lan), Nước mắt của đá (Hà Thị Cẩm Anh), Đàn trời (Cao Duy Sơn), Về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
bên kia núi (Niê Thanh Mai)… Đỗ Bích Thúy với Bóng của cây sồi, Tôi đã
trở về trên núi cao, Sau những mùa trăng và đặc biệt, tập truyện ngắn Tiếng
đàn môi sau bờ rào đá (2005) đã đưa chị lên hàng những nhà văn viết về dân
tộc miền núi xuất sắc hiện nay. Truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá
của Đỗ Bích Thúy sau khi được đạo diễn Ngô Quang Hải dựng thành phim
Chuyện của Pao và đạt những giải thưởng danh giá, đã đưa tên tuổi Đỗ Bích
Thúy đến với độc giả gần hơn nữa. Từng giành giải nhất trong cuộc thi sáng
tác truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội 1998-1999, công chúng ngày
càng quen thuộc với cái tên Đỗ Bích Thuý qua những sáng tác của chị, đặc
biệt là tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (Nxb Công an nhân dân,
H.2005). Ở tập truyện này, ta thấy chất văn hoá vùng miền thấm đẫm trong
các trang văn. Có thể nói tập truyện này là tập truyện tiêu biểu nhất, đặc sắc
nhất của Đỗ Bích Thuý và của mảng đề tài viết về miền núi hiện nay. Đỗ
Bích Thuý đã cùng chia sẻ với người đọc cuộc sống và tình yêu của những
con người nơi mảnh đất địa đầu tổ quốc (Hà Giang), nơi mà tác giả đã từng
sống trong suốt thời gian thơ ấu đến khi trưởng thành để người đọc có thể
cùng cảm nhận, hòa mình vào không gian văn hoá của ngưòi Mông, Tày trên
cao nguyên đá Đồng Văn cùng đỉnh Mã Pì Lèng hùng vĩ. Tập truyện mở ra
một không gian văn hoá đặc sắc của quả còn ngày hội, tiếng khèn lá đêm
trăng với những cảnh sinh hoạt của người Mông trong những căn nhà đất
tường chình bao đời trong thung lũng đá, cuộc sống của những con người
miền núi đặc biệt là những ngưòi phụ nữ dân tộc thiểu số. Mỗi câu chuyện
Đỗ Bích Thuý kể là mỗi số phận, mỗi cảnh đời ngang trái khác nhau. Trong
bức tranh đó, chị tập trung khai thác chiều sâu nội tâm của nhân vật - phần
lớn là những người đàn bà với cuộc đời làm dâu, làm vợ âm thầm, chịu nhiều
buồn tủi đắng cay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Việc tìm hiểu và nghiên cứu những nét đặc sắc về bản sắc văn hoá và
con người miền núi qua các sáng tác của các nhà văn đi trước như Tô Hoài,
Hoàng Hạc, Nông Minh Châu, Vi Hồng đã được nhiều người đề cập. Với
một tác giả còn trẻ tuổi như Đỗ Bích Thuý đang tiếp nối mảng đề tài viết về
miền núi thì việc tìm hiểu những nét độc đáo trong sáng tác của chị, đặc biệt
là chiều sâu văn hoá và cuộc sống con người miền núi được thể hiện qua các
tác phẩm là điều mà chúng tôi lựa chọn và quan tâm bởi trong các sáng tác
của chị luôn luôn đem lại những điều mới mẻ và hấp dẫn đối với người đọc.
Vì những lý do trên chúng tôi lựa chọn đề tài “Văn hoá và con ngƣời
miền núi qua tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thuý”
để thực hiện luận văn. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi hy vọng sẽ có
một cách nhìn nhận và sự đánh giá tương đối chính xác, có hệ thống về việc
thể hiện một cách sinh động những nét văn hoá và con người miền núi trong
truyện ngắn Đỗ Bích Thuý, qua đó phát hiện thêm những nét văn hoá đặc sắc
của dân tộc Mông, Tày và cuộc sống, con người, thiên nhiên trong tập truyện
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá. Cũng từ đó, khẳng định được những đóng góp
của Đỗ Bích Thuý khi viết về mảng đề tài miền núi cũng như làm sáng tỏ tư
tưởng nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Ngoài ý nghĩa khoa học, đề tài còn mang ý nghĩa thực tiễn: đó là việc
thông qua những tác phẩm văn học, nhà văn đã mang đến cho bạn đọc thấy
những nét độc đáo trong văn hoá dân tộc Mông, Tày ở Hà Giang. Đồng thời
thông qua cuộc sống của các nhân vật được thể hiện trong tác phẩm đặc biệt
là những nhân vật phụ nữ, vấn đề số phận người phụ nữ dân tộc thiểu số vị
trí, vai trò của người phụ nữ trong cuộc sống cũng được đặt ra, không chỉ
riêng đối với văn học. Từ việc tìm hiểu tác phẩm của Đỗ Bích Thuý từ
phương diện văn hoá và con ngưòi chúng tôi muốn khẳng định quan điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
sau: văn hoá là cội nguồn của văn học, là nền tảng, bệ đỡ của văn học đã và
cần khai thác chất liệu và tinh thần của văn hóa trở thành một hướng đi
không thể thiếu trong văn chương. Qua lăng kính văn hoá, dùng văn hoá để
gắn kết, lý giải và bồi đắp tâm hồn con người, đó là cách khám phá đời sống
qua văn chương theo chiều sâu rất đáng trân trọng của Đỗ Bích Thuý cũng
như của một số nhà văn khác đang tiếp nối mạch sáng tác này trong văn học
đương đại.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm đạt được các mục đích sau:
- Thông qua việc tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm của Đỗ Bích Thuý để
khám phá cuộc sống con người miền núi, những giá trị văn hoá, văn học
trong tác phẩm với một sắc thái văn hoá miền núi đặc trưng.
- Chỉ ra những đặc điểm cơ bản (về nội dung và nghệ thuật) trong việc
thể hiện văn hoá và con người miền núi trong tập truyện Tiếng đàn môi sau
bờ rào đá của Đỗ Bích Thuý. Từ đó, khẳng định những đóng góp của tác giả
ở mảng đề tài này, đồng thời mở rộng góc nhìn sang những tác phẩm văn
học đương đại khác viết về miền núi.
3. Lịch sử vấn đề
Những sáng tác của Đỗ Bích Thuý được công chúng biết đến là vào
khoảng những năm 1999-2000. Sau đó, số lượng những bài phê bình, nghiên
cứu về Đỗ Bích Thúy trong hơn mười năm qua là rất đáng kể. Chúng tôi lựa
chọn tìm hiểu tư liệu trên các báo và tạp chí có vị trí quan trọng về văn học
trên cả nước là báo Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Văn nghệ quân đội, và Tạp chí
văn học. Đồng thời chúng tôi cũng tìm hiểu những nhận xét, đánh giá của
các nhà nghiên cứu, phê bình về các sáng tác của lớp nhà văn đi trước viết về
đề tài miền núi như Tô Hoài, Vi Hồng, Nông Minh Châu để từ đó có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
tìm ra những nét khác biệt trong ngòi bút sáng tác của Đỗ Bích Thuý với lớp
nhà văn đi trước.
Trong các bài nghiên cứu, phê bình về Đỗ Bích Thuý, có bài nhấn
mạnh đến vấn đề văn hoá, có bài đề cập đến nhiều khía cạnh khác. Sau khi
Đỗ Bích Thuý đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của VNQĐ năm 1998-1999,
báo VNT có bài Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ (tức Nguyễn Ngọc Tư
và Đỗ Bích Thuý) của tác giả Điệp Anh. Trong bài viết này người viết cũng
đã nhắc tới ấn tượng về nét văn hoá rất riêng của truyện ngắn Đỗ Bích Thuý:
“Thế mạnh của Đỗ Bích Thuý là đời sống người dân Tây Bắc với những
không gian vừa quen, vừa lạ, những phong tục tập quán đặc thù khiến người
đọc luôn cảm thấy tò mò và bị cuốn hút”[20]. Nhà văn Trung Trung Đỉnh
viết: “ Đỗ Bích Thuý có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền
thống của người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không kể
về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn nết ở và cả cảnh sinh hoạt lễ hội, phong
tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù tác giả không
hề cố ý đưa vào những chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị
chinh phục bởi những chi tiết rất đặc sắc chỉ người miền cao mới có”. Nhà
văn khẳng định: “Tôi có cảm giác Đỗ Bích Thúy còn quá nhiều điều để viết
về miền rẻo cao xa xôi nhưng gần gũi, tuyệt vời đẹp ấy của đất nước ta. Tôi
cũng là người mê viết truyện ngắn và mê cao nguyên đá kỳ vĩ Hà Giang,
nhưng đọc truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, tôi thực sự ngả mũ chào thua!
Dẫu đây mới chỉ là mở đầu. Một mở đầu mơ ước của một nhà văn” [23].
Vậy là ngay từ những tác phẩm đầu tiên, Đỗ Bích Thuý đã “buộc” người ta
phải nhớ tới chị qua một văn phong riêng đậm chất văn hoá miền núi. Trong
bài Từ truyện ngắn của một người viết trẻ của nhà nghiên cứu, phê bình Lê
Thành Nghị đăng trên báo VNT số 31 (31/7/2005), sau này được in lại trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
phần đầu Tuyển tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, ông viết
“Chúng ta sẽ bước vào một không gian lạ, không gian có núi cao, trời rộng
của vùng rừng núi phía Bắc, nơi từ đó nhìn xuống, dòng sông Nho Quế chỉ
còn “bé như sợi chỉ dưới chân núi Mã Pì Lèng”. Không gian Đỗ Bích Thuý
tái tạo trong các tác phẩm của mình chính là một không gian văn hoá đậm
chất miền núi đầy sức hút với độc giả mà nếu thiếu nó hẳn rằng sức nặng của
triết lý và lẽ sống trong tác phẩm sẽ khó lòng thu hút được người đọc đến
như vậy.
Ngoài một số bài viết đề cập trực tiếp đến văn hoá miền núi trong tác
phẩm của Đỗ Bích Thuý, còn khá nhiều bài viết khác đề cập đến những vấn
đề khác trong truyện ngắn của chị như vấn đề con người. Nhà văn Khuất
Quang Thuỵ trong bài Đôi điều tâm đắc về cuộc thi truyện ngắn VNQĐ
1998-1999 tuy chỉ nhận xét về chùm ba truyện ngắn được giải của Đỗ Bích
Thuý nhưng ông đã chỉ ra được một vấn đề luôn trăn trở trong các tác phẩm
của chị: “Sự biến đổi của thời đại mới đã tác động lên mọi số phận của người
Việt Nam, kể cả những người nơi thâm sơn cùng cốc. Cuộc sống đã đòi hỏi
mọi người phải suy nghĩ, trăn trở để làm sao vừa hoà nhập được với thời
đại, với đất nước vừa không đánh mất đi những giá trị riêng của mỗi con
người, mỗi cộng đồng dân tộc. Đó chính là thử thách lớn nhất của thời mở
cửa” [29].
Từ những tác phẩm của Đỗ Bích Thuý, Dương Bình Nguyên trong bài
Nhà văn Đỗ Bích Thuý- Sự mềm mại quyết liệt lại cảm nhận “Thực chất,
những mảnh đời, những bi kịch, những số phận éo le như những nhân vật
của Thúy không phải là quá đặc biệt, quá hiếm hoi. Nó đã từng ở đâu đó,
trong cuộc đời này, dường như dưới gầm trời này trên mặt đất này, mọi thứ
đã không còn gì lạ lùng nữa. Nó lạ lùng và nó ám ảnh bởi góc nhìn của mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
người mà thôi. Đỗ Bích Thúy đã đưa không gian ấy, thời gian ấy, số phận ấy
vào góc nhìn của riêng chị. Và chị thành công” [27]. Tác giả Phạm Thuỳ
Dương trong bài Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thuý và
Nguyễn Ngọc Tư lại khai thác tính cảm thương trong các truyện ngắn của Đỗ
Bích Thuý. Theo người viết, tính cảm thương đó được bộc lộ qua tình
thương con trẻ, thương người phụ nữ. Từ tính cảm thương ấy Phạm Thuỳ
Dương tiếp tục nhìn nhận về giọng điệu cảm thương trong văn phong của Đỗ
Bích Thúy v v.
Như vậy có thể thấy qua các bài viết, các công trình nghiên cứu về tác
phẩm của Đỗ Bích Thuý, các tác giả đều đã chú ý tới nhiều khía cạnh khác
nhau trong giá trị sáng tạo văn học của chị. Đó có thể là cảm hứng cảm
thương, văn phong thuần hậu đậm chất miền núi Tuy vậy, qua những bài
viết đó có thể thấy một vấn đề là khía cạnh giá trị văn hoá và cuộc sống con
người miền núi trong tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích
Thuý tuy đã được đề cập tới nhưng chưa được chú trọng khai thác một cách
hệ thống. Do thế, luận văn của chúng tôi muốn tập trung khai thác, tìm hiểu
vấn đề này để góp một cái nhìn toàn diện hơn về những đóng góp của nhà
văn trẻ Đỗ Bích Thuý trong mảng văn học về đề tài miền núi của văn học
đương đại.
4. Phạm vi nghiên cứu
21 truyện ngắn trong tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (Nxb
Công an nhân dân, H.2005) của nhà văn Đỗ Bích Thuý.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và phê bình tác phẩm.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp nghiên cứu tác giả.
- Các phương pháp khác như thống kê, thi pháp học thể loại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
1. Phần mở đầu
2. Phần nội dung: Gồm 3 chương
Chương I: Con ngƣời miền núi qua tập truyện ngắn Tiếng đàn
môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thuý
Chương II: Những nét văn hoá đặc sắc trong tập truyện ngắn
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá
Chương III: Nghệ thuật thể hiện đặc sắc trong tập truyện ngắn
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá.
3. Phần kết luận
Thƣ mục tài liệu tham khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CON NGƢỜI MIỀN NÚI QUA TẬP TRUYỆN NGẮN TIẾNG
ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ CỦA ĐỖ BÍCH THUÝ
1.1 Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thuý - một tác phẩm tiêu
biểu và đặc sắc về miền núi.
1.1.1 Vài nét về tác giả Đỗ Bích Thuý
Đỗ Bích Thúy sinh ra và lớn lên trong một bản nhỏ của người Tày ở
Hà Giang. Gắn bó với mảnh đất Hà Giang cho tới khi trưởng thành, sau này
khi đã về thủ đô sinh sống và công tác tại tạp chí Văn nghệ quân đội Đỗ Bích
Thúy vẫn không nguôi nhớ về mảnh đất đã từng gắn bó cả tuổi thơ, đã “để
thương, để nhớ” trong tâm hồn chị. Quê hương luôn là vùng miền lưu dấu,
mang sắc màu chủ đạo của ký ức, gắn với mỗi người như một sợi dây vô
hình. Với Đỗ Bích Thúy, thì còn một sợi dây gắn bó hữu hình là căn nhà mái
ngói rêu phong trong thung lũng ba mặt là núi, một mặt là sông ở huyện Vị
Xuyên, Hà Giang. Nơi ấy có bản người Dao, người Tày, có những người phụ
nữ Mông nhẫn nại và cam chịu đã đi vào những trang văn của chị.
Trong bài phỏng vấn của Tạp chí Xây dựng Đảng nhân dịp Xuân Tân
Mão, Đỗ Bích Thúy đã bộc bạch. “Tôi thích đọc sách từ bé. Bố mẹ tôi làm
nông nghiệp thôi nhưng lại luôn khuyến khích con cái đọc sách. Trong ký ức
tuổi thơ, điều tôi thích nhất là được theo mẹ đi chợ. Ngồi giữa 2 sọt cam, đợi
mẹ bán hết hàng, được ăn một cái bánh chưng bé tí và cuối phiên chợ được
vào hiệu sách để mẹ mua sách cho. Những cuốn sách mỏng được tôi cẩn
thận đóng thành tập và ghi trên đó “sách của Thúy cấm xâm phạm”. Có lẽ
khát vọng được đọc sách từ bé đã thôi thúc tôi: Tại sao mình không viết ra
những cuốn sách cho mình và cho mọi người xung quanh? Và tôi đã viết rất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
nhiều, gửi “điên cuồng” cho các báo. Bài tản văn đầu tiên “Con của rừng”
được đăng trên tạp chí Tuổi Xanh, nhuận bút năm 1994 được 10 ngàn đồng.
Mọi người thế nào không biết, chứ tôi biết ơn tạp chí Tuổi Xanh lắm. 10
ngàn đồng ấy chính là cú hích để tôi viết liên miên suốt mấy năm trời. Viết
trong sung sướng tràn trề!” [30]. Học cấp 3, Đỗ Bích Thúy từng đi thi học
sinh giỏi văn toàn quốc nhưng học hết phổ thông, chị theo học ngành Tài
chính-Kế toán. Nhờ truyện ngắn Chuỗi hạt cườm màu xám đăng trên báo
Tiền phong, chị nhận được lời mời về làm việc tại Hội Văn nghệ Hà Giang
khi vừa tốt nghiệp.Về Hội Văn nghệ một thời gian, chị đi thi và trở thành
sinh viên báo chí “già” nhất khóa 16 của Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Nhà văn Dương Bình Nguyên từng nhận xét về Đỗ Bích Thúy: “Chị là
người phụ nữ không quá nồng nhiệt, có gì đó thu mình trước đám đông.
Trong văn chương, Đỗ Bích Thúy cũng không quá ồn ào, những câu văn của
chị như những dòng chảy ký ức, mãnh liệt và bản năng” [27]. Thật vậy, có
thể thấy điều này qua việc Đỗ Bích Thúy lựa chọn đề tài để viết. Chị viết say
sưa và mê đắm về cuộc sống của người dân miền núi mà cụ thể ở đây là các
dân tộc thiểu số Mông, Tày, Dao ở mảnh đất Hà Giang, ở cao nguyên đá
Đồng Văn hùng vĩ.
Khi trò chuyện với nhà báo Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy từng thổ lộ:
“Văn chương như bông hoa ấy, và nhà văn chỉ là gốc rễ đầy đất cát lặng lẽ
chôn chân bên dưới mà thôi. Sở dĩ tôi không ngừng viết về miền núi vì đó là
mảnh đất của tôi, mỗi khi viết về nó, đắm chìm trong thế giới ấy, tôi lại như
người đi xa được trở về nhà, nhìn thấy đàn gà khi mình đi thì mới nở, và khi
mình về thì chúng đã trở thành những chú gà trống sặc sỡ. Cái tâm trạng ấy,
nói thực lòng, tôi chưa bao giờ cảm thấy khi viết về một đề tài khác, mảnh
đất khác. Điều này một phần được chứng thực từ người đọc, họ cũng nói
rằng, khi tôi viết về miền núi, tôi chính là mình” [24]. Nhà văn Cao Duy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Sơn từng nói: “Mỗi một người viết đều cần rào cho mình một thửa đất để cày
xới”. Đỗ Bích Thuý đã bước đầu định hình là cây bút chuyên tâm với đề tài
miền núi - một đề tài không phải người cầm bút trẻ nào cũng dám lựa chọn.
Với một số tác phẩm như Bóng của cây sồi, Tôi đã trở về trên núi cao,
Sau những mùa trăng, tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá và bằng
việc ghi danh với giải Nhất cuộc thi Tác phẩm Tuổi xanh của Báo Tiền
phong (năm 1995), giải Nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ
Quân đội (năm 1999), giải Ba cuộc thi Sáng tác văn học của Nhà xuất bản
Thanh niên (năm 2003), giải C cuộc thi Sáng tác văn học cho tuổi trẻ lần 2
của Nhà xuất bản Thanh niên (năm 2005), giải thưởng của Hội văn học dân
tộc thiểu số (năm 2006), nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy đã có được chỗ đứng
trong trái tim người yêu văn chương Việt.
1.1.2. Khái quát tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá
Đề tài dân tộc và miền núi trong văn xuôi Việt Nam hiện đại được
hình thành, phát triển chủ yếu từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ
1986, đời sống văn nghệ cởi mở hơn; công cuộc đổi mới từng bước đem lại
những chuyển biến ở địa bàn miền núi đã tạo đà cho mảng văn học viết về đề
tài này phát triển với những đặc điểm mới so với các giai đoạn trước. Đó là
sự mở rộng về đề tài, chủ đề, sự phát triển về đội ngũ tác giả, ở một số vùng
đất đã xuất hiện những cây bút mới. Có thể kể đến Niê Thanh Mai ở Tây
Nguyên, Hà Thị Cẩm Anh ở miền Trung, ở miền Bắc có Hoàng Triều Ân, Vi
Hồng, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy trong đó Đỗ Bích Thúy được biết đến là
một tác giả nữ tiêu biểu.
Sau khi đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của VNQĐ năm 1998-
1999 với các tác phẩm Đêm cá nổi, Ngải đắng ở trên núi, Sau những mùa
trăng Đỗ Bích Thúy dần nổi tiếng với những tập truyện ngắn Sau những mùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
trăng, Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Ký ức đôi guốc đỏ, Tiếng đàn
môi sau bờ rào đá và tiểu thuyết Bóng của cây sồi. Nhưng nổi bật và được
biết đến nhiều hơn cả là tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá. Trong
cuộc trò chuyện với bạn đọc của Vnexpress.net (eVăn) khi tập truyện mới
xuất bản, Đỗ Bích Thúy bộc bạch: “Thực ra thì không phải tất cả 21 truyện
ngắn trong tập sách vừa xuất bản của tôi là truyện mới viết, mà nói cho đúng
thì đó là các tác phẩm trong số những truyện ngắn mà tôi tâm đắc nhất, dành
nhiều tình cảm, tâm trí cho chúng và cũng là những truyện ngắn dựa trên
nhiều câu chuyện có thật nhất. Hai trong số đó đã được chuyển thể và làm
phim. Tuy vậy, cũng phải nói lại rằng, không phải chỉ trước đây, bây giờ mà
cả sau này, miền núi vẫn là đề tài thân thuộc của tôi, không phải vì một mục
đích nào đó mà vì sự thôi thúc từ gan ruột, thôi thúc chân thành và mãnh liệt.
Mỗi tác phẩm có một tâm trạng riêng, cũng như mỗi nhân vật là một tâm
trạng, có khi là nỗi nhớ nhà, nhớ quê, có khi là bức xúc vì một vấn đề nào
đó, có khi là một câu chuyện đang dang dở với ai đó. Có khi chỉ là một lời
nhắn gửi hay ước mong cho vùng đất của mình ”[21]
Tập truyện ngắn gồm 21 tác phẩm chủ yếu viết về chủ đề miền núi và
nông thôn, bao gồm cả những truyện ngắn đã được nhiều người biết đến như:
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Ngải đắng ở trên núi, Sau những mùa trăng
Những truyện ngắn xoay quanh đề tài tình yêu, hôn nhân, quan hệ gia đình
của những con người sống trên những bản làng nơi rừng núi mù sương. Đó
là nỗi lòng của những người con rời bản làng ra đi vẫn tha thiết nhớ về quê
nhà với biết bao kỷ niệm: “Tôi sinh ra ở núi rừng. Tôi ăn học ở thành phố.
Núi rừng là tuổi thơ tôi. Thành phố là tuổi thanh xuân của tôi. Núi rừng ở sau
lưng. Thành phố đang ở trước mặt. Tôi đang đi từ phía trước mặt về phía sau
lưng…”(Đêm cá nổi). Là suy nghĩ, tình cảm của các thầy cô giáo từ miền
xuôi lên dạy học ở miền núi (Cái ngưỡng cửa cao). Tác giả cũng đã hết sức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
chú tâm đến vấn đề thân phận con người, đặc biệt là những người phụ nữ dân
tộc thiểu số hiền hậu, cam chịu, sẵn sàng hi sinh cả cuộc đời cho người yêu,
gia đình…
Trong tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích Thúy không
chỉ mang đến cho người đọc những nét đặc trưng về cuộc sống và con người
miền núi mà còn cho ta thấy những nét văn hóa đặc sắc của vùng đất được
chị nói đến. Những câu chuyện chị kể đều bắt đầu từ cuộc sống của một
vùng đất độc đáo, nơi có vùng văn hóa riêng biệt, nơi mà nhà văn phải hiểu
tường tận và yêu hết mình. Chị đã dẫn dắt người đọc đến với một không gian
miền núi vừa quen thuộc, vừa mới lạ, “Một không gian đầy hoa lá rừng; có
tiếng gà gáy tách te trong bụi rậm, có những dòng suối trong suốt với những
viên cuội đỏ, có những chàng trai thổi sáo theo sau các cô gái khoác tẩu
xuống chợ; những nồi thắng cố nghi ngút khói trong phiên chợ vùng cao đầy
mầu sắc; những đêm trăng sóng sánh, huyền ảo; những bụi mần tang mọc
trong thung lũng; tiếng đàn môi réo rắt sau bờ đá; lễ hội gầu tào với điệu hát
gầu Plềnh mê đắm của những cô gái, chàng trai người Mông trên đỉnh
núi…Khát vọng về hạnh phúc, những tâm sự cháy bỏng về lẽ sống, ý thức về
những ngày hiện tại ở một vùng đất độc đáo, đầy kỉ niệm đã tạo ra trong ngòi
bút của Đỗ Bích Thúy niềm xúc động chân thành, chảy dào dạt trên trang
viết…” [26]. Đọc truyện của Đỗ Bích Thúy có cảm giác như đang được cùng
chị đặt chân tới một không gian văn hóa độc đáo của những tiếng đàn môi,
tiếng khèn gọi bạn tình, những lễ hội lồng tồng (xuống đồng), lễ hội gầu
tào được sống, được nghĩ và được sẻ chia cùng với người Mông, người Tày
muôn đời ẩn mình phía sau những dãy núi ngập trong làn sương trắng…Tác
phẩm của Đỗ Bích Thúy luôn đề cập những đề tài hết sức gần gũi đời
thường, nhưng bao giờ cũng để lại một dư vị lãng mạn, buồn mà không cay
đắng ở người đọc. Đó là những tác phẩm thể hiện sự quan tâm tha thiết với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
thân phận bi kịch của con người, nỗi trăn trở về cuộc sống nghèo nàn và
những định kiến còn tồn đọng (Ngựa núi,Ngoài cửa trời chưa sáng). Dưới
ngòi bút mượt mà của một nhà văn nữ, những truyện ngắn về đề tài miền núi
mang đậm vẻ chân thật, hồn nhiên, mộc mạc của tâm hồn con người dân tộc
và dịu dàng, man mác chất thơ.
1.2. Con ngƣời miền núi qua tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá.
1.2.1. Cuộc sống và con người miền núi trên cao nguyên đá Đồng Văn-
Hà Giang hùng vĩ.
Nằm ở cực Bắc của Tổ quốc, Cao nguyên đá Đồng Văn trải rộng trên
bốn huyện vùng cao của tỉnh Hà Giang gồm Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc,
Đồng Văn. Cách trung tâm thành phố Hà Giang 150km, Đồng Văn trải dài
lớp lớp núi đá trùng điệp, hùng vĩ. Xa xôi, hiểm trở, thiếu đất sản xuất, thiếu
nước sinh hoạt trầm trọng, đời sống các dân tộc nơi đây gặp rất nhiều khó
khăn. Người dân vùng cao Đồng Văn sống quyện cùng với đá, đá hiện diện
khắp nơi, khắc nghiệt và tôi luyện ý chí của người vùng cao. Những mái nhà
tường chình của người Mông nằm chon von như một dấu chấm trên lưng
chừng núi đá. Người dân cao nguyên Đồng Văn từng ngày chiến đấu với tự
nhiên để giành lại từng nắm đất. Họ dọn đá để dựng nhà, để có đất trồng trọt,
khoét đá để tìm dòng nước ngọt…Đá dựng thành tường rào để bao quanh
làng xóm, đá giữ nước, giữ đất để có ruộng bậc thang và đá dựng thành rừng,
thành lũy để bảo vệ biên cương Tổ quốc. Ở đây cúi xuống thấy đá tai mèo,
ngẩng lên trời lại thấy đá- một màu đá xám trập trùng bao phủ. Thiên nhiên
hùng vĩ và khắc nghiệt ấy đã tạo cho Đồng Văn di sản địa chất độc đáo, hùng
vĩ, hoang sơ và hun đúc con người nơi đây một sức sống mãnh liệt, kiên
cường trong gian khó, mạnh mẽ trong cuộc sống, cần mẫn trong lao động.
Sức sống là một trong những đặc điểm cơ bản làm nên bản sắc, bản
lĩnh của một dân tộc. Thiếu sức sống, không có khả năng tự điều chỉnh, thích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
nghi trong những hoàn cảnh khắc nghiệt thì dân tộc đó không thể tự khẳng
định mình và phát triển trong tiến trình lịch sử một cách bình thường. Dân
tộc nào cũng có sức sống. Nhưng do hoàn cảnh địa lý lịch sử, văn hóa chi
phối mà mỗi tộc người có biểu hiện đặc thù về sức sống riêng không ai giống
ai. Mặt khác, cùng một tộc người nhưng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác
nhau thì biểu hiện sức sống cũng khác nhau. Sức sống của một dân tộc
thường được biểu hiện trong các hoạt động ứng xử cộng đồng mang tính phổ
quát của các quan hệ người với người, của con người với xã hội và với tự
nhiên. Sức sống đi liền với khát vọng vươn tới cái thiện, cái đẹp, tính nhân
văn của cuộc sống. Trong mỗi cá nhân đối với dân tộc mình, ai cũng mang
trong lòng một tình yêu, một lòng tự hào với nơi trôn rau cắt rốn. Người
Mông, người Tày trong tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ
Bích Thúy cũng vậy. Những người đàn ông trong truyện ngắn của Đỗ Bích
Thuý như ông Sùng trong Gió không ngừng thổi, bố của Sài trong Vết chân
ngựa trên đường mòn, bố của Pao trong Ngoài cửa trời chưa sáng đều là
những con người giàu sức sống, là trụ cột của gia đình. Đó là hình ảnh ông
Sùng, người đàn ông giàu lòng nhân ái, hết lòng thương vợ, thương con
trong truyện ngắn Gió không ngừng thổi. Biết thằng Thào Mí Chá không
phải là con mình nhưng ông hết lòng thương yêu, chăm sóc nó, “mỗi khi
thằng bé nghịch dại, người mắng nó, cầm roi vụt vào mông nó không phải là
Sùng mà là Kía”. Chỉ đến khi bà Kía sắp qua đời, ông mới có ý định hỏi bà
có muốn cho thằng Chá đi nhận bố đẻ không. Không một lời oán trách,
không một hành động nào hắt hủi, ông âm thầm chịu đựng không nói ra sự
thực vì sợ vợ buồn. Trên hết thảy đó chính là tình yêu thương đối với vợ con,
là lòng nhân ái đã đánh thắng được những nhỏ nhen, ích kỷ của con người.
Đó là hình ảnh bố của Sài, vợ chết khi sinh đứa con thứ ba. Ông ở vậy nuôi
con không lấy vợ mới vì sợ mẹ kế không thương được con mình. Bố của Pao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
cũng vậy “vợ không đẻ được con trai cũng không bỏ đi lấy người khác”; khi
vợ chết, ông cũng ở vậy hết lòng nuôi con khôn lớn.
Người Mông, Tày trên cao nguyên đá Đồng Văn sinh sống trong điều
kiện tự nhiên bị chia cắt thành từng bản nhỏ, kinh tế tự cung, tự cấp là chủ
yếu. Vì thế, từ lâu các tộc người này sớm có ý thức về cộng đồng làng bản,
họ tộc khá gắn bó để cưu mang, chia sẻ trong niềm vui, hoạn nạn. Trong các
hoạt động ứng xử, giao tiếp họ tối kỵ sự bất đồng, bất hoà. Chính vì vậy các
dân tộc thiểu số vùng cao sớm định hình tính cách phổ biến đặc thù là thật
thà, chất phác, bộc trực, khảng khái. Biểu hiện nét tính cách này thật đa
dạng. Trong giao tiếp, họ chú trọng tính tường minh đơn nghĩa của thông tin.
Biết sao nói vậy, nhận thức như thế nào thì họ sử dụng ngôn ngữ tương ứng
để phô diễn. Trong các hoạt động ứng xử, lời nói phải đi đôi với việc làm, họ
quan tâm đến việc làm hơn những ẩn ý ở bên trong. Chàng trai người Mông
tên Sính lấy cô giáo người Kinh lên bản dạy học tên Sương, hết lòng yêu
thương vợ nhưng khi nhận thấy Sương chưa thật lòng thương yêu mình Sính
đã nói “Cô giáo ngủ đi. Tôi không làm gì cô giáo đâu. Đừng khóc nhé.
Không muốn làm vợ tôi sao cô giáo lại nhận vòng bạc, lại uống chén rượu
thề? Ngày mai cô giáo trả lại vòng bạc cho bà cô rồi đi cũng được, cô giáo
à!”. Sính thể hiện tình yêu với vợ bằng hành động: “Ngày nào cũng vậy,
Sính dậy sớm gánh nước đổ đầy hai chum lớn, nhóm sẵn bếp cho Sương dậy
nấu cơm kịp ăn trước khi học sinh gọi cửa. Buổi trưa Sương về cũng có cơm
nấu sẵn rồi. Buổi chiều Sính hay tạt qua lớp học xem có cái bàn cái ghế long
chân nào thì đóng lại” (Cái ngưỡng cửa cao). Hay trong truyện Vết chân
ngựa trên đường mòn, khi cô giáo bị hiểu lầm là hẹn hò với một người đàn
ông của làng, người ấy lại đã từng có vợ thì cả làng không mở cửa để cô giáo
vào nhà mình. Hành động ấy được thể hiện qua việc cài một cành lá xanh
vào then cổng gỗ. Nhưng khi mọi hiểu lầm được giải toả thì “trong làng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
không ai đả động đến chuyện vừa xảy ra nữa. Người làng không quen nói lời
xin lỗi, chỉ biểu hiện bằng cách tối tối thắp đuốc qua suối đến chơi với cô
giáo, mang cho quả bí, mớ rau, mấy con gà con ” Những câu chuyện giản dị
như thế trong mỗi bếp lửa, căn nhà, đan xen trong mối quan hệ thân ái và
trung hậu của những con người miền núi cứ lặng lẽ thấm vào người đọc qua
một cách kể nhẹ nhàng mà xúc động của tác giả.
Đời sống vùng cao trong những chuyển đổi trước tác động của cuộc
sống thành thị thời hiện đại cùng nền kinh tế thị trường với cả mặt tích cực
và tiêu cực đã ít nhiều được phản ánh trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy.
Có những chàng trai, cô gái miền xuôi lên "cắm bản" dạy chữ cho đồng bào.
Có phong trào xây dựng bản làng văn hóa mới. Điện về, thị trấn mới hình
thành, hàng quán và cả những tệ nạn Tất cả đã hiện hình, tác động lên nếp
sống, nếp nghĩ trầm tĩnh bao đời của con người vùng cao. Thị trấn, Ngoài
cửa trời chưa sáng, Mặt trời lên quả còn rơi xuống, Con dê bốn mắt là
những truyện miêu tả khá sinh động về những chuyển đổi đó. Và nổi bật lên
trong mỗi hoàn cảnh, ở những môi trường sống nhiều thử thách khác nhau là
hình ảnh những con người luôn khát khao tình yêu, khát khao được sống, lao
động, đóng góp sức mình xây dựng, gìn giữ vẻ đẹp, sự bình yên của mảnh
đất quê hương, luôn có ý thức hoà nhập với văn minh, hiện đại. Các nhân vật
trung tâm của các tác phẩm này thường là những người trẻ tuổi như cô giáo
miền xuôi trong Vết chân ngựa trên đường mòn, anh bí thư đoàn xã tích cực,
nhiệt tình với phong trào trong Mặt trời lên, quả còn rơi xuống, người em
trai của Din trong Ngải đắng ở trên núi Và không phải không có người đã
sa ngã trước những cám dỗ của đồng tiền. Đó là Dúng trong Ngựa ngã núi.
Vì muốn có tiền, thật nhiều tiền để người con gái Dúng thích cũng như gia
đình cô ấy không coi thường Dúng, chàng trai quyết định: “phải làm thật
nhiều tiền để bố mẹ Dính, ông cậu Dính thấy thằng người chân tay trắng, mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
trắng này không biết làm ra hạt ngô nhưng biết làm ra đồng tiền”. Dúng đi
buôn ngựa, từ buôn ngựa đến ăn trộm ngựavà cuối cùng Dúng đã phải trả
giá. “Bây giờ thì Dúng thấy, không phải con ngựa trắng ấy ngã. Nó không
ngã, mà Dúng ngã. Ngã từ trên núi đá cao ngang mây trời, lăn xuống dốc
dựng đứng. Lăn từ lúc chưa biết nghĩ đến khi biết được mọi chuyện mới
dừng lại. Dừng lại thì đã muộn, không đứng thẳng dậy được nữa”. Viết về
cái phần tối, sự sa ngã của con người miền núi, người ta vẫn thấy được tấm
lòng người viết. Không gay gắt, không nhuốm đen con người, ngòi bút Đỗ
Bích Thúy vẫn như muốn nâng đỡ những con người lầm lạc. Tình cảm gắn
bó tha thiết với vùng đất này đã tạo nên cách nhìn ấy, bút pháp ấy của Đỗ
Bích Thúy.
Tìm hiểu tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thuý,
người đọc được tiếp xúc với những bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc
sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi cao phía Bắc. Cuộc
sống nơi đây mang đậm chất dân gian, một cuộc sống cộng đồng dân dã, hồn
nhiên bao đời nay. Bên cạnh đó những con người nơi đây lại luôn mang
trong mình một sức sống bền bỉ, mạnh mẽ cộng với sự thật thà, chất phác,
trung thực, thẳng thắn Trong bức tranh rất phong phú về thiên nhiên, cuộc
sống sinh hoạt và những con người miền núi. Chính từ những yếu tố trên đã tạo
nên sự hấp dẫn và độ lắng đọng sâu xa cho các truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý.
1.2.2. Hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số- điểm nhấn đặc biệt
trong tập truyện ngắn.
Trong văn học Việt Nam hiện đại đến những năm 30 của thế kỷ XX,
hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số bắt đầu xuất hiện trong một số tác
phẩm của các cây bút như Thế Lữ với Vàng và Máu (1934), Lan Khai với
Truyện đường rừng (1940)… Những tác phẩm này đã vẽ lên một thế giới xa
lạ huyền bí với khung cảnh thiên nhiên vừa thơ mộng, vừa hoang dã, ẩn chứa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
nhiều bí hiểm và thường gắn với những cuộc báo thù man rợ. Các nhân vật
phụ nữ dân tộc thiểu số thường ẩn hiện trong khung cảnh ấy, họ xuất hiện
với một vẻ đẹp vừa phồn thực, vừa huyền ảo, vừa có vẻ hoang dại, ma quái
kiểu Liêu Trai. Đó là những người phụ nữ có vẻ đẹp huyền bí với những
hành động kỳ lạ, những nỗi thù hận, những mối ân oán…,tất cả mờ ảo chìm
lẫn trong không gian ma quái, không rõ hình dáng, tính cách. Những cô gái
hoang dã ấy rất nồng nàn và phóng túng trong những mối tình qua đường với
những chàng trai từ chốn thị thành đến khám phá vùng rừng núi ma thiêng
nước độc. Thực chất đó chỉ là những câu chuyện kích thích trí tưởng tượng,
sự tò mò của người đọc về miền núi, vùng đất gần như còn hoàn toàn bí mật
với người miền xuôi chứ không phải những sáng tác hiện thực về miền núi.
Như vậy, trước cách mạng tháng Tám, hình ảnh người phụ nữ dân tộc
thiểu số hầu như mới chỉ được khắc họa với những nét lãng mạn, nói cách
khác hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số trong cuộc sống hiện tại chưa
được phản ánh trong văn học. Cách mạng tháng Tám thành công, một số nhà
văn như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc… đã đến với mảng đề tài hầu
như còn khuyết trống này: Nam Cao với Truyện đường rừng (1940), Nhật ký
ở rừng (1948). Tô Hoài với Núi cứu quốc (1948). Mặc dù bức tranh miền núi
trong ba tác phẩm trên còn đơn giản nhưng cũng là những phác họa chân
thực, mới mẻ về con người, cuộc sống của các dân tộc miền núi. Hình ảnh
người phụ nữ dân tộc thiểu số trong những tác phẩm này mới chỉ là những
phác thảo đẹp về những con người trung thực, giàu tình nghĩa với cán bộ và
cách mạng.
Đến năm 1953, với tập Truyện Tây Bắc nhà văn Tô Hoài đã thể hiện
một chiều sâu cảm nhận, khám phá và thể hiện con người, cuộc sống, thiên
nhiên miền núi. Hình ảnh những người phụ nữ dân tộc thiểu số trong tập
truyện như Mỵ (Vợ chồng A Phủ), Ính (Mường Giơn), Ảng (Cứu đất cứu