Tư tưởng triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Cách đây 511 năm, xã Lý học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, nơi được gọi là "địa linh nhân
kiệt" đã sinh ra cho đất nước ta một nhà lý học nổi tiếng, một nhà tiên tri giỏi, một nhà thơ
lớn với những đóng góp qúy báu cho nền thi ca Việt Nam thời kỳ trung thế kỷ đó là Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491-1585).
Trong di sản của ông còn sót lại đến ngày nay, chúng ta mới chỉ mới từng bước khám phá
từng phần những tư tưởng uyên thâm xen kẽ giữa những vần thơ tức sự, cảm hứng, những
bài vịnh và văn bia. Những quan điểm triết học trong tư tưởng của ông đang ngày càng đòi
hỏi phải vận dụng những phương pháp khoa học để minh chứng cho một điều là, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã đặt và giải quyết một số vấn đề triết học không kém phần bác học so với các
bậc hiền triết trên thế giới cùng thời, tức là những vấn đề quan trọng của khoa học lịch sử
triết học.
Trong đó, một vấn đề đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc là triết học tự nhiên trong
tư tưởng của ông. Do tính đặc thù trong những di sản tinh thần mà Nguyễn Bỉnh Khiêm để
lại là các tư tưởng được ông trình bày trong đó không theo một hệ thống chuyên đề triết học
riêng biệt, và mặt khác, những học trò nổi tiếng của ông như Giác Hải, Nguyễn Dữ, Phùng
Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh… cũng không ghi lại dù chỉ là những cuộc đối thoại triết học
ngắn giữa thầy và trò, cho nên từ trước tới nay, đa phần các công trình nghiên cứu về tư
tưởng của ông chỉ dừng lại ở việc hệ thống hóa các quan điểm triết học trên hai phương diện
cơ bản là "đạo Trời" và "đạo Người". Theo chúng tôi, việc nghiên cứu lịch sử tứ tưởng Việt
Nam trước hết phải dựa vào nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của khoa học lịch sử triết
học là phương pháp so sánh để từng bước làm rõ đặc thù tư tưởng của dân tộc tức là để
xem các quan điểm triết học của các nhà tư tưởng nước ta đã kế thừa và có những phát
kiến gì mới so với các học thuyết du nhập. Đối với trường hợp của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh
Khiêm, tư tưởng triết học của ông có phải chỉ giới hạn ở nội hàm của hai khái niệm "đao
Trời" và "đạo Người" hay không, đó là vấn đề phải được làm rõ hơn.
Xuất phát từ ý tưởng đó, chúng tôi nếu nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Khiêm mà chỉ dừng
lại ở việc hệ thống các quan điểm triết học trên hai phương diện cơ bản là "đạo Trời” và "đạo
Người” thì đã vô tình bỏ qua những đóng góp quan trọng của ông cho tư tưởng Việt Nam.
Bởi vì, xét về toàn thể, hai phạm trù triết học đó không thể hiện một cách đầy đủ toàn bộ tư
tưởng triết học của ông. Riêng khái niệm "đạo Trời" đã làm chúng ta liên tưởng ông là một
nhà nho "thuần tuý" với những tư tưởng chính trị - đạo đức kết hợp với tư tưởng "mệnh trời"
và "lý số” của Khổng giáo. Nếu mạnh dạn xem xét rộng hơn, sâu thêm "đạo Trời" trong tư
tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm - một hiền sĩ không chỉ chịu ảnh hưởng của tam giáo (Nho, Phật
và Lão), mà còn cả ý thức bản địa, chúng ta thấy nảy ra một số vấn đề: bản thể luận trong
thế giới quan của ông có nhiều điểm khác với học thuyết của các bậc tiên nho, việc vận
dụng thành quả nhận thức thế giới vi mô và thế giới vĩ mô vào nhận thức các quan hệ xã
hội, một đặc điểm của trào lưu triết học tự nhiên đã được ông thực hiên một cách nhuần
nhuyễn. Đó là những vấn đề đang thu hút sư quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến tư tưởng triết học tự nhiên của
ông.
Xét một cách tổng thể? Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc các học thuyết Tống
Nho, Đạo Phật và Lão Trang. Bản thể luận mà ông đề cập đến khi trình bày các quan điểm
triết học của mình đã vượt ra ngoài phạm vi của "đạo Trời". Tuy nhiên, chúng ta không nên
so sánh bản thể luận đó với bản thể luận của các nhà triết học tự nhiên thời kỳ Phục hưng ở
Châu Âu như Lêôna Đơ Vanhxi, Nicôlai Côpécníc… bởi họ đều là những nhà khoa học tự
nhiên. Về sau, Seling, nhờ nghiên cứu các học thuyết triết học của Cantơ và Phíchtơ mà
phát triển thành triết học tự nhiên của riêng mình với những nhận định mang tính gợi mở
cho khoa học hiện đại về sự thống nhất và phát triển của tự nhiên, về sự hình thành thế giới
hữu cơ từ thế giới vô cơ… Chúng ta chỉ có thể làm được một việc tạm gọi là phù hợp với
phương pháp luận nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam là tiếp cận hệ thống các quan điểm
triết họe của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong di sản thơ văn còn lại đến ngày nay.
Nghiên cứu tư tưởng triết học của bất kỳ nhà tư tưởng nào cũng đòi hỏi phải có cách tiếp
cận nhất định, hay nói cách khác, phải cố phương pháp nghiên cứu thích hợp mới chỉ ra
được tư tưởng triết học đặc thù của họ. Tư tưởng triết học được trình bày trong thơ ca
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất phức tạp, bởi ngoài những lập luân của những luận thuyết, những
quan điểm triết học, còn có cả hình thức và nội dung nghệ thuật trong đó. Xét trên bình
diện nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học, dường như các phương diện đó không liên quan
đến nhau nhiều, song trên thực tế, chúng lại có sức mạnh thuyết phục rất lớn, đặc biệt là
đối với nước ta vào thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống, trình độ phát triển tư duy lý luận còn
thấp. Nguyễn Huệ Chi và Tạ Ngọc Liễn đã có những nhận xét mà theo chúng tôi, chưa được
thoả đáng về mối quan hệ giữa thơ ca và tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "ở con
người thi nhân này đã có một bộ phận thơ ca rời bỏ những cảm xúc thẩm mỹ về cái cụ thể
để hướng tới một cái gì trừu tượng hơn, mang tính khái niệm thuần tuý, hoặc tập trung cảm
hửng vào những mối liên tưởng siêu hình". Chúng tôi cho rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm không
chỉ là nhà thơ triết lý cuộc sống, mà còn là nhà thơ triết học bởi cảm xúc thấm mỹ của ông
về cái cụ thể là trực quan sinh động ở mức độ cao về cái cụ thể đó.
Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc triết học tự nhiên của Kinh Dịch. Bất kỳ ai đã
làm quen với các khái niệm cơ bản của Kinh Dịch cũng đều hiểu được việc ông vận dụng
một cách tài tình các nguyên lý của Dịch vào thơ văn của mình như thế nào. Kinh Dịch
không chỉ là một cuốn sách triết học cổ nhất của Trung Hoa, mà còn là một cuốn bách khoa
kinh nghiệm cho nghề nông của nước này đó là sự phát hiện ra các hiện tượng, các quy luật
của tự nhiên được kiểm nghiệm qua mấy nghìn năm và từ đó, người Trung Hoa tiến hành
biểu tượng hóa, mô hình hóa các hiện tượng, các quy luật của tự nhiên bằng các vạch liền
và đứt (vạch liền gọi là hào dương, vạch đứt gọi là hào âm). Các vạch này liên kết với nhau
theo tổ hợp ba vạch, tạo thành tám quẻ (bát quái), một lần nữa, các quẻ này lại liên kết với
nhau theo những phương án có thể để tạo thành 64 quẻ kép với sự tham gia của 384 hào.
Theo người Trung Hoa cổ đại, 64 quẻ này là tổng hợp hết thảy các hiện tượng xảy ra trong
tự nhiên và từ đó, có thể suy diễn được sang lĩnh vực của xã hội. Trong di sản tinh thần cổ
đại của Trung Hoa, Kinh Dịch không chỉ là tác phẩm triết học thành vàn đầu tiên, mà còn là
công trình khoa học dựa trên kinh nghiệm cuộc sống. Nó đóng vai trò làm lịch, trợ giúp nghề
nông của người Trung Hoa cổ đại khi sự can thiệp của con người vào các quá trình của tự
nhiên chừa thô bạo như hiện nay, tức là sự can thiệp dẫn đến những thay đổi bất thường các
quá trình vật lý của sinh quyển.
Nguyễn Bỉnh Khiêm vận đụng các nguyên lý của Kinh Dịch để phát biểu thế giới quan của
mình khá nhiều lần trong các bài thơ về các hiện tượng tự nhiên, về thế sự và thời cục diễn
ra trong xã hội. Thơ của ông thường biểu hiện sự mô phỏng các quy luật tự nhiên trong đời
sống xã hội.
Chẳng hạn trong bài "Cảm hứng" dài 300 câu, ông mô tả quá trình sinh thành của vũ trụ và
sự hình thành các nguyên tắc của đời sống xã hội trên cơ sở các quy luật tất yếu của tự
nhiên như sau: "Thái cực khi mới bắt đầu phân chia thì tam tài đã xác định được vị trí của
mình. Nhẹ và trong bay lên tạo thành trời, nặng và đục lắng xuống thành đất, ở giữa kết tụ
lại thành người. Cả ba bộ phận ấy] đều xuất phát từ một khí”. Đây là cách trình bày theo
quan điểm triết học tự nhiên, nhưng hoàn toàn không phải là của Nguyễn Bỉnh Khiêm như
một số tác giả nhận định, mà là quan điểm vũ trụ luận truyền thống của Trung Hoa và mang
tính "tiêu chuẩn". Song, công lao của Nguyên Bỉnh Khiêm trong việc sử dụng quan điểm đó
để truy cứu các hiện tượng xã hội theo tinh thần của triết học tự nhiên thì không ai có thể
phủ nhận được. Đoạn thơ tiếp theo cho chúng ta thấy rõ điều đó: "Bậc thánh nhân theo
khuôn phép của trời, muôn đời ập nên kỷ cương của loài người, noi theo được cái tất đẹp
của ngũ điển, trình bày được cái đầy đủ của cửu trù. Vua và tôi phải có nghĩa với nhau, cha
và con cái tình thân là tột độ, chồng và vợ kẻ xướng có người tuỳ, anh và em người cưng thì
có người đễ, chơi với bạn thì giữ vững điều tín".
Như vậy, nếu tam tài xuất phát từ khí thì bậc thánh nhân cũng theo đó mà đặt ra ngũ luân
cho quan hệ xã hội. Vũ trụ không ngừng vận động, biên đổi do hai thế lực âm dương tác
động với nhau, phát triển đến cùng cực thì quay lại cái điểm xuất phát theo nguyên lý của
thái cực. Quan hệ xã hội cũng vậy, thời cục có lúc lên lúc xuống, đời này qua đời khác không
giống nhau về hoàn cảnh cụ thể. nhưng vàn phải theo các nguyên tắc cương thường mà
thánh nhân đặt ra, có như vậy, phong hóa và trật tự xã hối mới được duy trì và ồn định.
Một đặc điểm nữa trong quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm là so sánh
tính tương đồng về mặt cấu trúc cũng như đặc tính của tiểu vũ trụ (vi mô) và đại vũ trụ (vi
mô). Chúng ta xem xét vấn đề này một cách cụ thể trong bài "Kê noãn" của ông: "Trứng gà
không tròn cũng không vuông, ấy thế mà bao bọc cả trời đất trong đó. Chất thái tố trang ở
ngoài có hai lần trắng, chất đan biếm chứa ở trong có một điểm vàng. Thái cực chưa chia,
vẫn còn hỗn độn. Hai khí âm dương hợp lại mới nở ra. Khi đã thành lông cánh sẽ bay bổng
lên trời mây, hóa làm sao Kim Kê giúp vầng thái dương.
Quả trứng gà được con mắt quan sát của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tiểu vũ trụ, nó cũng
trải qua một quá trình khép kín, từ khi hình thành đến phát triển. Đây cũng là một quá trình
tuân theo nguyên lý của dịch học về sự vô thuỷ vô chung của thái cực, hết rồi lái bắt đầu
trong phạm vi tuần hoàn. Từ đó, ông đã có nhận xét linh hoạt hơn đối với quan niệm truyền
thống phương Đông về vũ trụ được hai biểu tượng cứng nhắc là trời phải tròn, đất phải
vuông. Trời là cha biểu thị cho thế lực dương, đất là mẹ, biểu thị cho thế lực âm. Âm dương
giao cảm mà tác thành vũ trũ theo nguyên lý của đạo, hoặc nói theo ngôn ngữ của Lão Tử,
“Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Vạn vật đều cõng âm
mà ôm dương điều hòa bằng khí trùng hư" (Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam
sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bạch dương, trùng khí dĩ vi hòa). Chính cách hiểu tương
đối về hình thái cũng như cấu trúc của quả trứng với tính cách là một tiểu vũ trụ bao hàm
trong nó cả trời và đất đã làm cho quan điểm triết học tự nhiên của ông phù hợp với việc
xem xét quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ. Giống như [con người] trong khoảng
giữa của vũ trụ do kết quả phát triển và phân định của thái cực, con gà được tạo tác từ
nhân (chất đan biêm màu vàng), tự phát triển đến mức đủ lông, đủ cánh thì bay bổng lên
trời cao làm sao Kim Kê cho vầng thái dương được sáng thêm. Còn con người với tính cách
là sản phẩm của sự kết tụ tinh tuý giữa trời đất mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên, cũng phải
hội đủ những điều kiện cần thiết để có ích cho xã hội.
Qua hai thí dụ nêu trên, chúng ta thấy, quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh
Khiêm về quá trình hình thành và phát triển của vũ trụ là rõ ràng. Tuy nhiên, đặc điểm của
loại quan điểm này là chỉ dừng lại ở việc mô phỏng, tạo điều kiện cho việc so sánh sự giống
nhau ở tính huyền diệu của tiểu vũ trụ va vũ trụ bao la, thăm thẳm mà chúng ta đang sống.
Mục đích của nó, suy cho cùng, nhăm trả lời cho vấn đề triết học muôn thuở: Con người ta
từ đâu mà ra, cuộc sống của nó phải trải qua những bước căn bản nào và khi đến chặng
cuối của cuộc đời, nó đi đâu về đâu?
Khác với các nhà triết học tự nhiên Hy Lạp cổ đại những người chuyên suy ngẫm, truy tìm
cái bản nguyên của vũ trụ như nước, lửa, không khí… và cũng khác với các nhà triết học tự
nhiên ở Châu Âu những nhà khoa học tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm thừa nhận ngay bản
nguyên của vũ trụ là khí. Song, nếu xét về quan hệ giữa Khí và thái cực thì nhiều nhà
nghiên cứu của chúng ta băn khoăn bởi điều là, trong hai phạm trù đó, phạm trù nào là phái
sinh. Tuy ông, không nói cụ thế, song chúng ta có thế hiếu được rằng thái cực và khí cùng
tồn tại. Theo quan điểm triết học truyền thống Trung Hoa, thái cực là một cái gì đó vô thuỷ
vô chung, vô hình vô dạng. Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm diễn đạt quá trình hình thành vũ trụ
bằng sự khởi đầu cái công việc huyền diệu mà thái cực đảm nhiệm là phân chia (sơ triệu
phân). Song, điều đáng lưu ý là phải có cái gì đó làm đối tượng để phân chia. “Không có bột
sao gột được nên hồ"? Chính vì vậy ông thừa nhận khí có trước vạn vật, kể cả con người,
còn thái cực mang tính nhị nguyên bao hàm cả nghĩa vật chất, cả nghĩa nguyên lý với tính
cách là quy luật, đạo…
Rõ ràng, ở Nguyễn Bỉnh khiêm, bản thể của vũ trụ là khí. Khí hiểu theo nghĩa vật chất văn
chưa có hình, nó là tiềm ẩn, tiềm năng của thế giới hiện hữu. Ở đây, sự gặp gỡ giữa Nho
giáo, Phật giáo và Đạo giáo về phương diện bản thê của vũ trụ là ở tư tưởng không hình,
không tên, không sắc, không tưởng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đúc kết tư tưởng này bằng hai câu
như sau: "Tòng đầu sắc thị không. Bản lai vô nhất vật". Từ đầu sắc đã là không. Vấn không
có một vật gì cả). Tư tưởng này cho thấy, ông đã thừa nhận sự tiến hóa của vũ trụ là một
quá trình diễn ra phức tạp và lâu đài, là sự kết hợp của hai thế lực âm dương (lưỡng nghi)
rồi sinh ra tư tưởng (bắt đầu sự hiện hình của tồn tại), chứ không phải ngay lập tức đã có
vạn vật trong vũ trụ.
Chính tư tưởng về sự tiến hóa của vũ trụ theo quy luật tuần hoàn (đi, về, bĩ cực, thái lai hết
rồi lại bắt đầu) "Nhất chu khí vận chung nhi thuỷ. Bác phục đô tòng thái cực tiên" (nghĩa là
khí vận chuyển rồi lại quay trở về nguồn gốc, hết quẻ bác đến quẻ phục rồi lại trở về với gốc
thái cực), đã làm cho Trạng Trình liên tưởng ngay đến các hiện tượng xã hội như có rồi lại
mất, vào rồi lại ra, vào càng dễ thì ra cũng càng dễ, không ai có thể bảo tồn được vĩnh viễn
cái mình đang có. Đặc biệt, ông lưu ý đến sự giàu có do cách sống bất lương, phí pháp thì
sẽ nghèo đi rất nhanh, giống hệt tần số dao động của sóng trong mối tương quan đến biên
độ của nó.
Ý nghĩa của quan điểm triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện rõ ở phương
diện giáo dục con người thống qua nhận thức quy luật của tự nhiên phải hiểu được đao rồi
mới tạo được đức, bởi đức là cơ sở đề đạo thể hiện. Tròng bài "Thừa trần", ông xem trần nhà
như bầu trời nhỏ. Con người sống trong ngôi nhà phải biết rằng mình đang sống dưới bầu
trời nhỏ đó và phải tu thân tích đức, sao cho không làm mất đi sự thanh khiết ban đầu [của
nó], để mỗi khi ngửa mặt lên nhìn [nó] không thấy hổ thẹn với chính bản thân mình. Sự liên
hệ này mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc: con người sống trong tự nhiên, đồng thời bị ràng
buộc bởi các quan hệ xã hội. Từ quan mềm bán địa về thờ thần, thờ cúng tổ tiên, Nguyễn
Bỉnh Khiêm dẫn dắt con người vốn chỉ biết đặc niềm tin vào sự thần bí đến với nhận thức
môi trường sống xung quanh mà không hề cắt bỏ "cái thần" của nó.
Có thể đúc kết quan điểm triết học tự nhiên mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập tới trong thơ văn
của mình như sau: Một là, ông công nhận vũ trụ được hình thành từ khí, trải qua một quá
trình tiến hóa lâu đài, chứ không phải do một thế lực siêu nhiên nào đó tạo ra. Hai là, xuất
phát từ tín ngưỡng bản địa về đa thần ("thần cây đa, ma cây gạo"), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
thóat ra khỏi sự ràng buộc của thần học, làm cho "các thần" đó hòa tan trong từng khách
thể của tự nhiên. Ba là, thông qua nhận thức các hiện tượng diễn ra trong tự nhiên để đúc
kết lại thành các quy luật, tiếp theo là nhận thức được các quy luật đó để vận dụng vào
nhận thức các quy luật của đời sống xã hội. Đó cũng là đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm
vào sự phát triển lý luận nhận thức, nói theo ngôn ngữ triết học hiện đại.
Chúng tôi cho rằng, quan điển triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm cần phải được
nghiên cứu một cách sâu hơn, rộng hơn mới thấy hết được tầm bác học cũng như những
đóng góp của ông cho tư tưởng triết học của dân tộc. Đây cũng là hướng gợi mở trong
phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc, nhằm góp phần giải đáp vấn đề: có hay
không tư tưởng triết học Việt Nam?