Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Về đặc điểm tư tưởng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.67 KB, 6 trang )

Về đặc điểm tư tưởng Việt Nam
-Trần Đình Hượu -
Lịch sử tư tưởng Việt Nam có hai đoạn hoàn toàn khác nhau - Từ khi nước ta tiếp xúc với
phương Tây, du nhập tư tưởng phương Tây tức là từ đầu thế kỷ XX cho đến nay. Đó là thời
đại mới. Tư tưởng Việt Nam tiếp cận và hoà giòng vào tư tưởng đồng đại của thế giới. -
Đoạn trước đó, khi nước ta còn nằm trong văn hoá có tính chất khu vực - vùng Đông Á và
Đông Nam Á - tư tưởng nước ta có những nét chung của tư tưởng cả khu vực đó.
Đối với đoạn sau vấn đề đối tượng và phương pháp nghiên cứu không có gì phải bàn cãi
nhiều. Đó là đối tượng và phương pháp chung khi nghiên cứu tư tưởng triết học cận hiện đại
của các nước. Nhưng với đoạn trước thì công việc phức tạp hơn. Tư tưởng hay triết học ở
đây cũng đặt ra rất nhiều vấn đề nhưng không giống cách ở phương Tây, nơi đã cung cấp cơ
sở để hình thành phương pháp nghiên cứu hiện đại.
Trong một thời gian dài ước tính từ thế kỷ II sau công nguyên cho đến đầu thế kỷ này, ở
nước ta có sự tồn tại song song của Tam giáo, du nhập từ Trung Quốc vào. Tam giáo có thay
thế nhau giữ vai trò hàng đầu nhưng thực tế là kết hợp với nhau, thẩm thấu vào nhau, chia
phạm vi với nhau, chi phối đời sống tinh thần của nhân dân ta. Bên cạnh Tam giáo là sự tồn
tại của cách suy nghĩ dân gian để dấu vết lại trong các truyện kể và kết tinh trong tục ngữ.
Cũng cần nói đến học thuyết Âm dương, Ngũ hành, cách phân tích Thời, Thế... cũng là
những tư tưởng du nhập từ Trung Quốc và cũng tồn tại không hoàn toàn độc lập với Nho
giáo. Tư tưởng đó ảnh hưởng lớn đến các khoa học, giả khoa học và cách suy nghĩ, tính toán
trong cuộc sống. Sự kết hợp phức tạp giữa Nho, Phật, Đạo, giữa Tam giáo với cách suy nghĩ
dân gian, giữa những thứ đó với Âm dương, Ngũ hành để tìm cách quan niệm thế giới, quan
niệm con người, cuộc sống, quan niệm sự vận động, sự đổi thay lịch sử... đó mới đúng là
cách tư duy Việt Nam.
Tư tưởng Việt Nam không chỉ là cái thổ sản thuần Việt, mà còn có cả nhiều cái từ ngoài đến,
có khi được cải tạo, có khi để nguyên dạng, nhưng đều được sắp xếp theo một cách nào đó
hay sử dụng theo một cách nào đó. Cái này mới là mấu chốt của bản lĩnh và ưu nhược điểm
của cái này mới là cái chi phối sâu xa tư duy Việt Nam.
Tam giáo đều từ Trung Quốc truyền vào nước ta, được truyền bá với sự xâm lược quân sự từ
đời Hán, với chính quyền đô hộ hàng ngàn năm và với những lớp người Hán tỵ loạn sang
Giao châu, mảnh đất lúc ấy yên ổn hơn nội địa. Những người Hán quan lại hay không phải


quan lại, mang đến đây cả Nho giáo cả Đạo giáo (cả Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù
thủy). Đối với Phật giáo thì tình hình có khác. Nằm trên con đường biển từ Ấn Độ sang
phương Nam và Trung Quốc, vùng ven biển nước ta đã biết đến Phật giáo từ trước. Cuối đời
Hán, Luy lâu (Thuận Thành - Hà Bắc) đã là một trung tâm Phật giáo thịnh vượng. Các nhà
nghiên cứu đã chứng minh trung tâm Luy lâu còn ra đời trước cả trung tâm Bành thành và
Lạc dương ở Trung Quốc [1] , và về đường biển thì Phật giáo từ Việt Nam mà vào Trung
Quốc. Thế nhưng đối với chính quyền và từng lớp trí thức thượng lưu thuộc người Hán vào
mấy thế kỷ sau thì Phật giáo ở đây cũng đã phát triển theo ảnh hưởng Phật giáo Trung
Quốc. Ở Trung Quốc từ Hán Võ đế đã tìm ra phương thức Nho Pháp tĩnh dụng cho việc trị
nước, bảo vệ chế độ chuyên chế. Tư tưởng, học thuật trong tình hình đó cũng phát triển
theo xu hướng dung hợp Hoàng Lão, Âm dương, Ngũ hành với Nho giáo. Nho giáo, được tôn
làm quốc giáo, cũng đến đây mới bắt tay vào công việc hệ thống hoá: xác định thành phần
kinh điển, xác định văn bản và giải thích chính thức các luận điểm. Gói hành lý tinh thần mà
các nhà trí thức người Hán mang vào vùng đất mới Giao châu là hỗn tạp như vậy. Nhưng
liệu những thứ đó truyền bá được đến mức nào trong đám cư dân vốn giữ nguyên tổ chức
công xã với những phong tục, tín ngưỡng của mình? Và nền học thuật đó quan hệ như thế
nào với Phật giáo đã có thời gian trước để bám rễ vào nhân dân? Điều đáng chú ý là Nho
giáo tuy vào sớm và chắc chắn được bộ máy thống trị ưu tiên truyền bá - chứng cớ là những
điều sử sách ghi chép về sự nghiệp của Nhâm Diễn, Tích Quang, Sỹ Nhiếp - thế nhưng trong
thực tế thì nó phát triển chậm, chậm so với Phật giáo và Đạo giáo. Mãi đến thế kỷ XI, nhà
Lý mới xây dựng Văn miếu, tổ chức thi cử. Tuy vậy các vua nhà Lý và cả Trần nữa, vẫn tìm
chỗ dựa chính ở Phật giáo. Từ giữa thế kỷ XV Nho giáo mới thành độc tôn, chi phối mọi mặt
hoạt động. Nói độc tôn là nói Nho giáo thay Phật giáo, nhà nho thay nhà sư trong đời sống
chính trị nhà nước, còn trong xã hội thì Phật giáo, Đạo giáo vẫn còn ảnh hưởng rộng rãi
trong nhân dân.
Nho giáo vốn không phải thuần nhất, có hệ thống chặt chẽ, càng về sau, khi đồng chức
năng ý thức hệ chính thống, để giải đáp nhiều vấn đề thực tế và ứng phó với các học thuyết
khác (nhất là Phật giáo) Nho giáo lại càng phải vay mượn, dung hợp nhiều hơn. Nhà Nho,
nhất là nhà Nho từ Đường Tống về sau, càng ít thuần nhất; trong họ thành phần tư tưởng
Âm dương, Lão Trang, Phật thường là không nhỏ. Thứ Nho giáo được truyền bá vào và có

ảnh hưởng nhiều ở Việt Nam là thứ Nho giáo hậu kỳ. Trong lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc từ
thời Xuân thu, Chiến quốc cho đến đời Hán, việc học tập kinh điển tiến hành theo lối sư
truyền trực tiếp, ảnh hưởng khó rộng rãi. Sau nạn đốt sách của nhà Tần, triều đình nhà Hán
mới sưu tập lại kinh điển, đặt các chức bác sĩ ngũ kinh để giảng dạy và tiến hành với quy
mô to lớn và lâu dài việc xác định thành phần kinh điển, văn bản và nội dung kinh điển. Đến
đời Hán Linh đế (Hy bình năm thứ 4) mới chọn định bản khắc vào bia đá, dựng trước nhà
Thái học. [2] Qua một thời gian loạn ly dài, nhất là do tình hình phân tranh Nam Bắc từ thế
kỷ II đến thế kỷ VII, ý kiến đã trở thành rất phân tán. Đường Thái Tông lại sai Khổng Dĩnh
Đạt cùng một số người khác soạn Ngũ kinh chính nghĩa để thống nhất kinh điển [3] một lần
nữa. Từ Hàn Dũ (768 - 824) đời Đường đến đời Tống có một xu hướng khôi phục lại Nho
giáo đối lập với Phật giáo và Đạo giáo - với ý nghĩa là tôn giáo - kết tinh lại thành học
thuyết Tống Nho với tên tuổi nổi bật là Chu Hy (1130 - 1200). [4] Về mặt lịch sử tư tưởng,
ở đời Tống, Trình Chu không phải là phái duy nhất, cũng không phải là phái tiến bộ nhất.
Nhưng ảnh hưởng của học phái đó ngay từ đời Nguyên ở phương Nam đã rất lớn. Đến đời
Minh mà giòng họ trị vì là con cháu Chu Hy thì cách giải thích kinh điển của Chu Hy được coi
là chính thống. Năm 1414 Minh thành tổ giao cho Hồ Quảng biên soạn Tính lý đại toàn, trình
bày học thuyết Tống nho. [5]
Trong lịch sử tư tưởng nước ta thứ Nho giáo đời Hán, đời Đường chắc cũng có vào nước ta
nhưng ảnh hưởng chắc chỉ hạn chế trong đám người Hán di cư. Còn Tống nho thì do sự tiếp
xúc khá mật thiết của nước ta dưới thời Lý Trần với phương Nam Trung Quốc, do sự đô hộ
của nhà Minh nên ảnh hưởng nhanh chóng và rộng rãi hơn. "Đại Việt sử ký toàn thư" chép:
"Năm Kỷ Hợi (1419). Mùa xuân. Tháng hai. Nhà Minh sai giám sinh Đường Nghĩa sang ban
các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Vi thiện âm chất, Miếu thuận sự thực cho Nho
học các phủ châu huyện" (T. Đ.H. gạch dưới). [6] Đến năm 1435 nhân có phái đoàn sang
chúc mừng vua Minh lên ngôi, vua nhà Minh lại "ban sách Tứ thư đại toàn mới in xong." [7]
Cũng cần nhắc đến chiếu định khoa thi của Lê Thái Tôn năm 1434 và quy định môn thi "kỳ
thứ nhất một bài kinh nghĩa, Tứ thư mỗi sách một bài." [8] Tách hai thiên Trung dung, Đại
học trong Lễ ký thành sách, phân chương mục, chú thích và đưa hai quyển điển như Ngũ
kinh là việc làm của Trình Di và Chu Hy. Đến thời Nguyên Nhân tôn (1312 - 1320) thì Tứ thư
thành kinh điển dùng cho việc thi cử. [9] Ở nước ta năm 1396 cũng bắt đầu "theo phép thi

của nhà Nguyên." [10] Cũng cần nhắc thêm là trước đó Chu Văn An (... - 1370) đã soạn Tứ
thư thuyết ước. Từ đó cho đến thế kỷ XIX uy tín của Trình Chu trong việc giải thích kinh điển
là tuyệt đối.
Nói Nho giáo được độc tôn không có nghĩa là Phật giáo, tư tưởng Lão Trang và Đạo giáo bị
phủ định. Về mặt nội dung, Tống nho là một hệ thống hỗn hợp Nho Phật. Về mặt vai trò xã
hội hầu như đã thành sự thoả thuận với nhau giữa Tam giáo về một sự phân công, phân
vùng. Nho giáo dành toàn quyền trong việc học hành thi cử - với ý nghĩa đào tạo nhân tài
cho bộ máy nhà nước.Trong các địa hạt khác như xã hội, văn học nghệ thuật tín ngưỡng...
Tam giáo song song tồn tại. Có những địa hạt, có những địa phương Nho giáo không phải là
có thế lực nhất. Trong một con người - kể cả nhà Nho - về mặt người dân, họ chịu sự chi
phối của tư tưởng Nho giáo, nhưng về mặt con người, về đạo đức, tín ngưỡng, cách sống...
nhiều khi họ chịu ảnh hưởng Phật hay Lão Trang còn nhiều hơn.
Điều cần đặc biệt lưu ý là một khi các triều đại giành được độc lập, chấm dứt sự đô hộ của
phong kiến Trung Quốc, thì cũng không thể tự do xoá bỏ những tổ chức, thể chế đã hình
thành qua hàng ngàn năm Bắc thuộc. Các triều đại Lý Trần Lê đều đã kế thừa và bắt chước
cách tổ chức chính quyền (cùng với chế độ chọn người bằng khoa cử) theo kiểu Trung Quốc.
Với mô hình tổ chức nhà nước trung ương tập quyền cao độ + làng xã tự trị + tôn tộc thì
Nho giáo tỏ ra có ưu thế nhất, thích hợp nhất. Nho giáo giúp các triều đại đó củng cố sự
thống trị mà cũng giúp nó củng cố sự thống nhất đất nước vào chính quyền trung ương,
tăng cường trách nhiệm của người dân đối với nhà nước. Các vị anh quân và cả những nhà
yêu nước lớn như Nguyễn Trãi chăm lo, phát triển Nho giáo học, xây dựng Tư văn, tổ chức
học hành thi cử, lo biên soạn quốc sử, khuyến khích văn học... đều theo lời khuyên của
thánh hiền, đều theo trị đạo của Nho giáo. Việc phát triển nho học, đưa nhà nho vào chính
quyền thay thế nhà sư và quý tộc, kéo dài từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX, cho ta thấy xu
hướng chung là Hán hoá. Về tư tưởng thực tế Hán hoá không chỉ là ở việc Thiền tông thay
cho Phật giáo chịu ảnh hưởng Ấn Độ, ở việc Nho giáo có ảnh hưởng càng ngày càng sâu
rộng trong thời độc lập mà còn cả ở việc tông phái Lâm tế của Phật giáo Trung Quốc được
truyền bá phổ biến cả ở Bắc hà và Nam hà vào quãng thế kỷ XVII [11] thay cho Thiền phái
Trúc lâm. Ở đây trong lịch sử đã có một sự chuyển vùng về văn hoá từ Đông Nam Á sang
Đông Á. Bọn xâm lược Trung Quốc chiếm được vùng đất miền Bắc nước ta, biến nó thành

quận huyện nội thuộc là tách nó ra khỏi thế phát triển của vùng Đông Nam Á. Trong hàng
ngàn năm chính quyền đô hộ xúc tiến quá trình Hán hoá, khi đã dành được độc lập, các
triều đại, kể cả chính quyền chúa Nguyễn ở Nam hà, cũng tiếp tục con đường Hán hoá đó.
Đó là quyền lợi của giai cấp thống trị nhưngkhông phương hại cho sự nghiệp bảo vệ độc lập
và phát triển dân tộc. Nước ta từ đời Lý Trần đã thành nước có văn hiến cao hơn các nước
Đông Nam Á cùng thời. Hậu quả tất nhiên không chỉ có một mặt tích cực. Tuy chính quyền
ra sức xúc tiến nhưng trong một đất nước tuy đã thống nhất về lãnh thổ, về ngôn ngữ, về
lịch sử - tức là đã có sự hình thành dân tộc về cơ bản - mà sự giao lưu giữa các vùng rất bị
hạn chế và chưa có ý nghĩa kinh tế; trong trong điều kiện tổ chức xã hội làng xã khép kín,
sống bằng nền kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp tự túc, thoả mãn nhu cầu trao đổi
hàng hoá ở các chợ nhỏ địa phương; trong điều kiện sự gia nhập của các vùng vào đời sống
dân tộc trên quá trình Nam tiến xảy ra vào những thời điểm xa nhau thì có những vùng có
thể nói thực tế Hán hoá, ảnh hưởng Nho giáo hay Phật giáo kiểu Trung Quốc là không đáng
kể. Có thể nói trong đời sống chung của cả đất nước thì sắc thái Đông Nam Á vẫn là nền
tảng, nhiều khi các yếu tố Hán tuy có vào, thậm chí là vào lâu, vẫn không phá vỡ được.
Điều đó có thấy rất rõ ở các vùng trước đây không được coi là "đất văn vật". Sự phá vỡ
không nổi sắc thái bản địa đó là cơ sở cho một số người nói quá trình phát triển lịch sử ở
Việt Nam là quá trình phi Hán hoá hay nói trong tư tưởng Việt Nam, Nho giáo chỉ là cái vỏ,
cái áo khoác ngoài. Tôi không bàn vấn đề này trên bình diện văn hoá một cách rộng và tổng
quát. Địa bàn mà ta bàn ở đây hay đối tượng mà xem xét ở đây là tư tưởng - và tư tưởng
không phải hiểu theo nghĩa là tổng số các thành tựu về tư duy, tổng cộng các tư tưởng về
kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự, khoa học... Mà là tư tưởng khái quát đi đến triết học. Ở
đây giai cấp cầm quyền, những lớp người trí thức, những vùng văn vật có vị trí chi phối. Hán
hoá về tư tưởng thực ra không đơn giản chỉ là khoác áo Nho giáo hay Tam giáo ra ngoài cái
nội dung tư tưởng bản địa hay nhét cái nội dung tư tưởng bản điạ vào cái vỏ Tam giáo Trung
Quốc. Không nên coi thường khả năng đồng hoá, khả năng thích ứng, khả năng liên kết -
nhiều khi là bằng cách nhét nội dung của nó hay khoác cái áo của người khác - của Nho
giáo, thứ tư tưởng điển hình Trung Quốc. Thế nhưng một hệ tư tưởng cũng phải phát triển
đến mức cao mới có đủ sức quy tụ và chi phối mọi mặt hoạt động, mà Nho giáo thì chưa
phát triển đến trình độ như vậy. Về căn bản nó chỉ là một học thuyết đạo đức - chính trị

chưa giải đáp được nhiều vấn đề của nhu cầu trí tuệ con người. Có những mảnh đất nó chưa
với tay tới, có những điạ hạt nó bất lực.
Hán hoá đã thành một xu thế, một thực tế lâu dài trong lịch sử. Xu thế, thực tế đó làm cho
nước ta, cũng như Trung Quốc, ở những thế kỷ cuối rơi vào tình trạng trì trệ. Phi Hán hoá
không phải đã là một xu thế mạnh mẽ trong quá khứ là một yêu cầu cấp thiết của ngày nay
đòi hỏi tự ý thức, tự phê phán để giải phóng tư tưởng, để hiện đại hoá đất nước.
Trong lịch sử các nước, hiện tượng du nhập các hệ tư tưởng từ ngoài vào phổ biến hơn nhiều
so với hiện tượng phát sinh ở bản địa. Ngay cả ở các nước có thể tự hào là có nền triết học
phát triển cao cũng thường bắt đầu bằng việc du nhập tư tưởng từ ngoài vào rồi sau đó mới
phát triển nền triết học của mình qua một cuộc cách mạng tư tưởng. Phát triển thành hệ tư
tưởng triết học phải trải qua sự phủ định bằng lý luận hệ tư tưởng cũ. Đó là một bước nhảy
vọt trong tư duy. Bước phát triển như thế nhất định phải có những nhu cầu thực tế mới và
những điều kiện mới, những điều kiện cho phép nhìn ra sự phi lý của cách nhìn thế giới cũ,
những nhu cầu san phẳng trở lực lớn trên con đường phát triển. Ở đây những phát kiến
vang dội về khoa học có vai trò cực kỳ quan trọng. Và tất nhiên là phải có người làm, có loại
trí thức làm chủ được tri thức của thời đại, có người đủ điều kiện vật chất và tinh thần đảm
đương nhiệm vụ tổng kết lịch sử đó. Trong lịch sử nước ta không phải không có những lúc có
biến động lớn, gặp trở lực lớn. Có những thời đại rực rỡ, mở ra viễn cảnh huy hoàng, chắp
cánh cho tư duy con người. Nhưng những thời đại đó thường là liên quan với chống ngoại
xâm; chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền, Lê Hoàn xoá bỏ tình trạng Bắc thuộc, chiến
thắng oanh liệt đời Lý, Trần, đời Lê, đời Tây sơn... Đó là những thời đại tinh hoa dân tộc
phát triển đến cao độ nhưng dốc hết vào đấu tranh quân sự để dành độc lập. Thắng lợi huy
hoàng đã chắp cánh cho thơ ca, cho nghệ thuật nhưng lại không tạo được những điều kiện
thực tế cho việc tổng kết triết học. Trong một xã hội mà quan tâm hàng đầu là giữ gìn sự ổn
định, sự nhất trí đề phòng giặc ngoài xâm lược, với một thể chế mà làng xã là thành lũy, với
một nền sản xuất mà năng suất dựa vào kinh nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kĩ
thuật không đòi hỏi nhiều khoa học, khoa học không cần nhiều triết học. Nếu có những thời
điểm mà có thể nói là nóng bỏng, xuất hiện những nguy cơ xã hội như thế kỉ XIV, XVI, XVIII
còn lại vang bóng trong văn học thì cũng cũng không có điều kiện gì để nhìn thế giới theo
một cách khác. Với nhu cầu và điều kiện như thế đặt ra làm gì và ai đặt ra được vấn đề

quan niệm thế giới theo một cách khác?
Trong lịch sử tư tưởng ta đã có ba lần nhận ngoại viện từ Ấn Độ, từ Trung Quốc, từ phương
Tây nhưng không trải qua cuộc cách mạng tư tưởng nào. Ta không có thói quen cuồng tín đổ
máu tranh chấp tôn giáo mà ta cũng không có thái độ xác tín đổ mực để cãi nhau cho ra lẽ.
Ta không quen đòi hỏi tính chính xác, tính hệ thống, tính nhất quán; ta không có thói quen
tư duy triết học. Nếu như đội ngũ trí thức của ta trước đây - những nhà sư và nhà nho -
không để lại cho chúng ta một di sản triết học thì ta cũng không nên trách cứ họ. Chưa
thoát khỏi xã hội nguyên thủy thì người Việt đã gặp ngay nạn xâm lăng từ phương Bắc và
nạn ngoại xâm đe doạ thường trực suốt hai mươi thế kỷ. Hoàn cảnh dẫn ta đi theo con
đường tiếp nhận, bắt chúng ta chỉ được nghĩ những chuyện thực tế, dạy chúng ta cách ứng
dụng nhanh chóng cái học được để ứng phó. Nhằm mục đích thực tế, cha ông chúng ta đã
lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận nó, không tính cả chuyện những cái đó hoà hợp
hay chống đối nhau, nhưng lại biết cách sử dụng cho có ích không gây ra chống đối. Ðối với
thực tế mà nhu cầu đặt ra chỉ như vậy kho Kinh, Tạng của Tam giáo Trung Quốc là quá dư
thừa, thậm chí là quá mênh mông, ít ai có điều kiện học đủ. Những trường hợp như Nguyễn
Trãi thừa hưởng gia tài sách vở của ông ngoại, một học giả quý tộc làm Tể tướng, tiếp xúc
rộng rãi, hay như Lê Quý Đôn nhiều lần đi sứ, lưu lại ở kinh đô Trung Quốc đọc sách và tiếp
xúc với nhiều học giả nước ngoài là trường hợp rất hiếm. Đại đa số chỉ học đủ kinh sử để đi
thi. Đối với họ Đại toàn còn là quá rườm ra nên phải làm Thuyết ước, phải làm Toản yếu
[12] - những bản tóm tắt - cho dễ học. Trong lịch sử học thuật của ta không có những nhà
kinh học để cả cuộc đời tra cứu, biện bác làm sáng tỏ nghĩa kinh điển mà cũng không có
những nhà tư tưởng nhìn tổng quát cả học thuật quá khứ để phê phán, đề xuất kiến giải
riêng. Những người lỗi lạc, có tinh thần tự hào dân tộc đều muốn phát triển Tư văn ở Việt
Nam bằng cách đi theo và tiến kịp không thua Trung Quốc chứ không phải phê phán nó để
tìm cái của mình. Trên tinh thần đó những nhà sử học viết quốc sử cho giống Thông giám
Cương mục [13] , những nhà thơ nhà văn viết cho được như Lý, Đỗ, Âu, Tô. [14] Những cái
gọi là phương kỹ như nghề làm thuốc, nghề bói toán, địa lý, thiên văn... cũng là học theo
sách Tàu hoặc làm theo kinh nghiệm bản địa nhưng giải thích theo Âm dương, Ngũ hành.
Có một hệ tư tưởng tồn tại trong lịch sử Việt Nam nhưng không có triết học Việt Nam. Người
Việt Nam có một cách nghĩ và cách nghĩ đó có khác Trung Quốc. Người Việt Nam có ý thức

rõ ràng về thực tế của mình, cởi mở, dễ tiếp nhận cái khác mình, giỏi bắt chước và biết ứng
dụng linh hoạt. Cho nên họ đã chuyển từ Đông Nam Á sang Đông Á về mặt văn hoá, đã vay
mượn rất nhiều ở tư tưởng Trung Quốc nhưng ở đâu cũng có sự lược bỏ, lược bỏ những chỗ
khắt khe, tế toái. Lược bỏ cũng có nghĩa là đơn giản hoá, sơ lược hoá. Thế nhưng làm như
thế mà giảm bớt đi được những cái tế toái, cứng nhắc, những cái trái tự nhiên, trái nhân
đạo, vốn có nhiều trong cách giải thích kinh điển Trung Quốc thì không phải là dở. Sự linh
hoạt - không biết nên giải thích là tinh thần trung dung của Nho giáo, tinh thần nhu đạo,
bất tranh của Lão - Trang, tinh thần hỉ xả, từ bi của Phật hay chỉ là tập quán chín bỏ làm
mười bản địa - tất nhiên là hạn chế lớn cho cách tư duy chính xác, hệ thống, nhất quán cần
thiết để tìm chân lí, để có tư duy khoa học, triết học. Nhưng trong điều kiện nhu cầu đơn
giản, hoàn cảnh căng thẳng thì như vậy thường lại có hiệu quả.
Cách tư duy Việt Nam có ưu điểm và nhược điểm. Có thể trước đây là ưu điểm mà ngày nay,
từ khi bước vào thời cận hiện đại, thì lại là nhược điểm cực lớn.
*
Xử lý một đối tượng như trên đã trình bày sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn vì chúng ta
thiếu tư liệu, khó khăn vì nó là phức hợp. Trong tình hình như vậy chúng ta rất dễ phạm sai
lầm. Hoặc là chúng ta đưa vào nhiều cái không phải của nó mà là của sử học, của văn học,
thậm chí của truyền thuyết dân gian. Hoặc là chúng ta đưa vào những cái của tư tưởng
Trung Quốc làm lẫn lộn khái niệm "triết học Việt Nam" mà ta xác định làm đối tượng. Cũng
có thể vì thiếu tài liệu mà sinh ra suy đoán chủ quan, không dừng lại ở chỗ cần thiết, làm
sai lạc diện mạo, thực chất đối tượng.
Trong lịch sử của ta có hiện tượng các phương thức sản xuất không đầy đủ, không thay thế
nhau bằng cách cái sau phủ định cái trước. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy (như
ruộng công làng xã), của một chế độ nô lệ không điển hình (như nô tì công và tư), của một
chế độ phong kiến phân tán chưa thành hình (như các hào trưởng, hào cường), một chế độ
phong kiến tập trung quá sớm nhưng không trọn vẹn vì thiếu kinh tế đô thị, tồn tại song
song, đan chéo vào nhau như một dạng trầm tích. [15] Cho nên trong tư tưởng cũng có
dạng trầm tích như vậy. Nhưng nước ta lại sớm thống nhất, thống nhất dưới hình thức quận
huyện của chính quyền đô hộ rồi thống nhất thành quốc gia độc lập tạo ra điều kiện để dân
tộc hình thành sớm. Cho nên ý thức hệ cũng có dạng thống nhất. Sự thống nhất ở đây được

thực hiện đơn giản bằng cách kết hợp tư tưởng bản địa với tư tưởng Tam giáo, Âm dương,

×