Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Vai trò của Nho giáo ở Đại Việt thời hậu Lý sơ (1010-1127)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.83 KB, 7 trang )

Vai trò của Nho giáo ở Đại Việt thời hậu Lý sơ (1010-1127)
Vấn đề nêu lên trong bản báo cáo này thật là quan trọng. Nó liên quan đến việc lựa chọn xu
hướng phát triển chính trị và tinh thần của xã hội Việt Nam trong một triều đình lâu dài đầu
tiên của dân tộc sau một nghìn năm Bắc thuộc là triều đình Hậu Lý Sơ(1).
Chính quyền Trung Hoa trong thời Bắc thuộc đã cố gắng truyền bá tư tưởng Nho giáo ở Giao
châu. Nhà sử học thế kỷ XIII Lê Trắc trong tác phẩm của mình An Nam chí lược đã tổng kết
những tin thông về vấn đề này. Trong chương XIV phần Học hiệu, Lê Trắc viết rằng Triệu Đà
“mới lấy thi, lễ giáo hóa nhân dân một ít” [8, tr. 251]. Phải nói rằng trong thời ấy hầu hết
không có ảnh hưởng Nho giáo nào vì triều đình Tần, mà Triều Đà trước làm quan, đã đi theo
Pháp giáo và chiến đấu rất hùng ác chống Nho giáo tiến hành chính sách “đốt sách chôn
Nho”. Có thể đoán rằng từ thời Triều Đà chỉ ngôn ngữ và văn tự của người Hoa đã được
truyền bá ở Giao Chỉ. Lê Trắc viết tiếp theo rằng trong thời Tây Hán những người Hoa cai trị
Giao Chỉ (thế kỷ I trước c.n.) “dựng nhà học hiệu, dạy dân noi theo nhân nghĩa” [8, tr. 251].
Rất có khả năng từ thời ấy Nho giáo thâm nhập vào Giao Chỉ. Cuối đời Đông Hán vài người
gốc Giao Chỉ mà Lê Trắc nhắc đến làm quan có trình độ tương đối cao, không kém gì người
Hoa, trong triều đình nhà Hán. Có một người học hành thông thái nữa là Khương Công Phụ
đã làm quan trong triều đình nhà Đường. Có lẽ thời Đường ở Giao Châu người ta cũng dựng
nhà học hiệu và Khổng Miếu tùy rằng không có chứng cứ cụ thể về việc ấy. Lê Trắc cũng nói
đến phép khoa cử thời triều đình Lý.
Đến cuối thế kỷ thứ X nhà Đường bị suy bại. Năm 880 chính quyền và các đạo quân nhà
Đường thường tự ý bỏ về Trung Hoa.
Từ năm 880 cho đến năm 1010, năm đầu của nhà Hậu Lý Sơ, đã trải qua 130 năm. Đó là
giai đoạn của cuộc đời vài thế hệ con người. Suốt thời ấy tất cả các quan lại Nho giáo nhà
Đường có gốc Việt hoặc Hoa đã qua đời. Phần lớn sứ quán địa phương có gốc Hoa bị hoàng
đế đầu tiên của nước Đại Việt(2). Đinh Bộ Lĩnh tiêu diệt. Các tài liệu viết Nho giáo suốt giai
đoạn này chắc là đã mất tích. Sách in đã mới xuất hiện được thời nhà Tống, trước đây người
ta viết trên lụa và trúc. Đồng thời người ta biết giữ gìn kinh sách Phật giáo khi dùng, chép
lại nó.
Các hảo trường, sứ quán Giao Châu nắm chính quyền ở các địa phương, đều có các đội thân
binh khá đông đảo. Bản thân họ tham vọng giành chính quyền trung ương ở Giao Châu. Thời
gian đó họ đã có bộ máy cai trị rắt đơn giản, phù hợp với trình độ quan hệ kinh tế xã hội ở


Giao Châu lúc đó. Các sứ quán và vua của những triều đại tồn tại ngắn ngủi trong thực tế
đều không cần bộ máy cai trị quan liêu Nho giáo phức tập.
Thời các triều đìng Đinh và Lê các tăng sĩ đã làm quan của triều đình và tham gia quan hệ
ngoại giao với nhà Tống. Các kinh sách Phật giáo đã được viết bằng chữ Hán. Điều đó đã
cho phép các tăng sĩ Đại Việt tiếp xúc với quan lại Nho giáo nhà Tống rất dễ dàng. Nói
chung thế kỷ X và cho đến thế kỷ XI mà Hậu Lý Sơ lên chính quyền Phật giáo đã chiếm vị trí
thống trị ở nước Đại Việt. Nhà sử học thế kỷ XIII, tác giả Đại Việt sử ký Lê Văn Hưu cho biết
rằng đến lúc khi hoàng đế Lê Đại Hành từ trần (năm 1005): “… không có bề tôi Nho học để
giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế”[5, tr. 231]. Điều đó chứng minh rằng đến lúc
nhà Hậu Lý Sơ lấy chính quyền, bộ máy hành chính Đại Việt không có quan lại Nho giáo.
Đến đầu thời Hậu Lý Lê Văn Hưu lại chep rằng: “… dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong
nước chỗ nào cũng có chùa chiền …” [5, 242].
Theo các sử liệu vào những thế kỷ XI-XII thời nhà Hậu Lý Sơ và Hậu Lý Mạt cũng như vào
thế kỷ X Phật giáo vẫn chiếm vị trí thống trị. Trong số những người biết đọc và biết viết, thì
các nhà sư Phật giáo chiếm phần chủ yếu. Giống như vào thế kỷ X họ vẫn chiếm những
chức vụ quan lại trong triều đình. Tăng sĩ đã trực tiếp tham gia vào công việc triều chính. Họ
đã đóng vai trò đáng kể trong việc thay đổi bí mật của triều đình năm 1127.
Những trung tâm truyền bá trí thức chính là các chùa, con cái quan lại và con em trong
hoàng tộc được học tập, dạy dỗ ở đó. Quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước thể hiện được
qua việc tăng số lượng cán bộ, các cơ quan, cũng như sau đó là sự mở rộng bộ phận quan
lại dân sự được đào tạo trong các chùa, tạo điều kiện cho giới sư sãi có được ảnh hưởng
nhất định trong triều đình.
Như vậy, Phật giáo ở Đại Việt thời cả hai triều Lý – giống như trước đây – vẫn tồn tại như
một quốc giáo. Đồng thời vẫn tiếp tục hiện diện cả tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt.
Đa số các nhà nghiên cứu đã nhất trí rằng Nho giáo bắt đầu chiếm vị trí thống trị trong đời
sống tư tưởng xã hội Đại Việt vào thời Trần, còn dưới thời Lê , nó đạt tới đỉnh cao cực thịnh
khi nó đã trở thành hệ tư tưởng quốc gia và hoàn toàn đẩy đạo Phật xuống hàng thứ yếu.
Còn ở thời Lý, tất cả đều ghi nhận sự thống trị tuyệt đối của đạo Phật.
Từ đó nảy ra vấn đề vì sao trong khi có sự nhát trí đến như vậy về thời gian Nho giáo bắt

đầu phổ biến ở Việt Nam, về sự thống trị hoàn toàn và sự hưng thịnh của đạo Phật thời Lý,
đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài trong các công trình của mình đều chấp
nhận rằng Văn miếu đã được xây dựng năm 1070, rằng năm 1075 người ta tổ chức các
khoa thi Nho học, trường học Nho giáo Quốc tử giám lập năm 1076 và vài năm sau, lập Viện
Hàn lâm Nho giáo – như những điều hiển nhiên không cần phải chứng minh.
Vậy chúng ta hãy xem xét quan nhiệm phổ biến cho rằng các thiết chế quan trọng của Nho
giáo được thiết lập ở Đại Việt vào nửa cuối thế kỷ XI là dụa trên cơ sở nào. Có người cho
rằng rất nhiều sử liệu chứng minh về việc ấy.
Trong thực tế chỉ có Ngô Sĩ Liên nhà sử học thế kỷ XV, bề tôi nhà Lê, là người đầu tiên viết
về những thiết chế Nho giáo ấy trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên cho biết vào năm
1070: “làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị
hiền bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”[5, tr. 275]. Vào năm 1075: “xuống
chiếu tuyển Minh kinh bác học và Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào
hầu vua học”[5, tr. 277]. Năm 1076: “chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào
Quốc Tử Giám”. Năm 1077: “thi lại viên bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật” [5, tr.
280]. Năm 1086: “thi người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm viện, Mạc
Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ” [5, tr. 281].
Bộ biên niên sử nổi tiếng này có uy tín đến nỗi không ai suy nghĩ xem lại tại sao nguồn sử
liệu này đầu tiên và duy nhất cho đến lúc đó viết về sự phát triển Nho giáo ở Đại Việt nửa
sau thế kỷ XI. Còn “rất nhiều sử liệu” khác chứng minh về thiết chế Nho giáo ở Đại Việt vào
nửa cuối thế kỷ XI đã dược viết sau và theo tác phẩm của Ngô Sĩ Liên. Những sách sử cũ
đầu tiên Việt Nam mà đến thời gian chúng ta như [Đại] Việt sử lược, lời bàn của Lê Văn Hưu
được trích dẫn trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, An Nam chí lược của Lê Trắc
cũng như các văn bia thời cả hai triều đình Lý không đưa tin gì về Văn Miếu, Quốc Tử Giám,
Hàn lâm viện và khoa thi nửa cuối thế kỷ XI.
Sẽ có người cho rằng Ngô Sĩ liên soạn bộ sử đó rên cơ sở các biên niên sử của Lê Văn Hưu –
Đại Việt sử ký (thế kỷ XIII) và Phan Phu Tiên (thế kỷ XIV) – những tác phẩm không còn đến
ngày nay. Thái độ của Ngô Sĩ Liên đối với các sử liệu của mình đã được ông nói rõ ở phần
mở đầu đề tựa bộ Đại Việt sử ký toàn thư: “”ó việ” nào sót quên thì bổ thêm vào, có lệ nào
chưa đúng thì cải chính lại; văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi đi, giản hoặc có việc hay dở có

thể khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê mùa ở sau”. Không lấy gì làm lạ về việc nhà
nho Ngô Sĩ Liên bổ sung những chỗ trống trong lịch sử phát triển Nho giáo ở Đại Việt. Ngô
Sĩ Liên, vốn là bề tôi nhà Lê, chuyển cơ sở Nho giáo thời Lê sang cơ sở nhà Lý.
Một điều rất đáng chú ý là thuật ngữ “Văn Miếu” (文文) đã xuất hiện ở Trung Quốc thời đàu nhà
Minh (tức là đầu thế kỷ XV). Trước đây ở Trung Quốc chỉ có Khổng Miếu 文文. Cớ gì mà ở Đại
Việt thuật ngữ Nho giáo “Văn miếu” xuất hiện sớm hơn ở Trong Quốc khoảng 400 năm!
Trong thực tế điều này không thể có được.
Ngô Sĩ Liên cũng cho biết “… làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối…” Tứ
phối chỉ Nhan Uyên, Tâng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử là bốn học trò của Không Tử được thờ phụ
với thầy ở Văn Miếu (lời chú thích của những người dịch và chú giải Đại Việt sử ký toàn thư)
[5, tr. 275]. Nhưng mà Mạnh Tử được thờ phối hưởng với Khổng Tử là vào thời kỳ nhà cải
cách triều Bắc Tống Vương An Thạch (文文文) nắm quyền chính [10, tr. 828]. Những năm đời
sống của Vương An Thạch là 1021-1086. Tức là ở Đại Việt người ta đã đắp tượng Mạnh Tử
vào Khổng miếu trước hoặc cùng một lúc với Vương An Thạch. Tất nhiên trong thực tế điều
đó không thể có được.
Ngoài ra thời nhà Minh ở Trung Quốc có cả Văn miếu cả Vũ miếu (文文). Danh sĩ triều Nguyễn
Phan Huy Chú trong công trình bách khoa của mình Lịch triều hiến chương loại chí cũng
theo Ngô Sĩ Liên viết về Quốc tử giám và Hàn lâm viện ở Đại Việt vào nửa sau thế kỷ XI
[11, tr. 671] bởi vì các thiết chế Nho giáo này đã có ở Trung Quốc vào thời kỳ ấy rồi. Còn về
Văn Miếu Phan Huy Chú nhắc đến chỉ thời nhà Lê – lúc nào ở Trung Quốc có Văn Miếu rồi.
Trong đó Phan Huy Chú cũng viết về Văn miếu và Vũ miếu ở Việt Nam dưới năm 1787:
“Hằng năm lĩnh xuân ngưu và lịch quạt đệ, đệ tiến vào Văn Miếu, Vũ Miếu và chiếu phát cho
quan và binh các doanh, cơ, đội thuyền thuộc bộ [11, tr. 600]. Ngô Sĩ Liên không viết gì về
Vũ Miếu thời Lý. Tức là Ngô Sĩ Liên chuyển thuật ngữ Văn Miếu của nhà Minh ở Trung Quốc
và của nhà Lê ở Đại Việt sang thời nhà Lý.
Thái độ đối với việc xây dựng Văn Miếu năm 1070 của nhà sử học thế kỷ XVIII Ngô Thì Sĩ
cũng đã có tính chất phê phán. Nên xem những lời bàn của ông ấy đối với việc xây dựng
Văn Miếu năm 1070 trong Đại Việt sử ký tiền biên và Viêt sử thông giám cương mục. Có thể
trích lời bàn của ông ấy trong Đại Việt sử ký tiền biên: “Còn những người làm văn hay, dùng
từ khéo thì không phân biệt đạo Nho hay đạo Phật đều được chọn dùng. Sách cũ chép là đời

Thánh Tông đặt ra khoa bác sĩ, nhưng sử lại không có, hoặc giả người ghi chép có tra cứu
được ở đâu thì lúc đó đã đặt khoa thi về nho học rồi, cho nên đủ để tô điểm cho nền thịnh
trị một thời chăng?” [4, tr. 239]. Trong Viêt sử thông giám cương mục Ngô Thì Sĩ viết: “Họ
Lý làm vua đến đây đã năm mươi nhăm năm, thế mà bấy giờ mới thấy tôn thờ thánh hiền,
thế chẳng phải là trước trọng đạo Phật rồi sau mới đến đạo Nho đó dư?” [7, tr. 87].
Những tư liệu của Ngô Sĩ Liên về việc lập Văn Miếu (Khổng miếu), Quốc tử giám Hàn lâm
viện, khoa thi Nho giáo tạo ra cảm giác rằng ở nửa sau thế kỷ XI hai hoàng đế Lý Thánh
Tông và Lý Nhân Tông đi theo hướng Nho giáo, trong ý thức hệ ở Đại Việt đã diễn ra sự
chuyển biến căn bản từ Phật giáo sang Nho giáo. Quan điểm này có đúng không tôi sẽ nói
dưới đây.
Nếu như ta sẽ xem xét những công việc chính trong chính sách tôn giáo tư tưởng của các
hoàng đế Hậu Lý Sơ trong đó cũng có cả Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông hình như thực
hiện những cải tạo Nho giáo, thì ta sẽ thấy rõ rẹt rằng các hoàng đế ấy đều là những môn
đồ nhiệt thành của Phật giáo.
Lý Thái Tổ (1010-1028) – hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Lý Sơ. Việc nhà Lý lên nắm chính
quyền đã được sư Vạn Hạnh, thầy học của hoàng đế, ngụ tại chùa Lục tổ, tiên đoán. Được
giáo dục như vậy, hoàng đế đã trở thành tín đồ kiên định của đạo Phật và đã tiến hành
chính sách truyền bá tôn giáo này trong nước. Ông cho xây dựng các chùa, tháp tuyển lựa
“hơn 1.000 dân kinh đô và đào tạo họ thành các sư sãi Phật giáo và Đạo giáo” [1, tr. 143].
Hoàng đế đã tập hợp các giáo lý của đạo Phật và cử người sang Trung Hoa để lấy kinh Tam
tạng. Trong các biên niên sử đều ghi lại nhiều điểm kỳ lạ đã diễn ra thời ông trị vị. Về sư
Vạn Hạnh, có nói rằng ông ta không chết mà là hóa than. Điều đó phù hợp với giáo lý đạo
Phật về sự biến đổi, về cái gọi là Nghiệp (Karma) [1, tr. 144]. Trong các văn bản không hè
thấy nhắc nhở trực tiếp gì về Khổng Tử và Nho giáo. Tước hiệu dài dòng và bay bướm do
các quan tôn xưng cho hoàng đế vảo lễ đăng quang có chứa dựng một số yếu tố đặc trưng
Nho giáo. Những tước hiệu này về sau tất cả các hoàng đế nhà Hậu Lý đều có. Mặc dù vậy
bản thân các tước hiệu đó hoàn toàn đối lập với các chuẩn mục và khái nhiệm Nho giáo. Các
nhà sử học Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên trong các lời bàn của bộ Đại Việt sử ký toàn thư cũng
đã phê phán hệ thống tước hiệu của các hoàng đế cả hai nhà Lý [5, tr. 261] trong việc sử
dụng thái quá những yếu tố riêng biệt của nó. Hai ông giải thích những sai lầm tương tự là

do hoàng đế và các quan không hiểu những quy định của Nho giáo và coi những tước hiệu
này đơn giản chỉ là sự phô trương. Biện minh cho sự phê phán của mình, Ngô Sĩ Liên đã dẫn
một đoạn trong Kinh thư nói rằng 10 chữ trong tôn hiệu của hoàng đế cũng đã là quá nhiều.
Tước hiệu của quí tộc Việt Nam và tên gọi các chức quan về hình thức thì giống của Trung
Quốc nhưng lại có nội dung khác, do đó người Trung Quốc không thể huểu được. Chính các
sứ giả Trung Quốc sang thăm Việt Nam cũng đã nhận xét như vậy.
Lý Thái Tông (1028-1054), người đã ấn định từ trước [1. tr. 146]. Nối nghiệp vị tiền bối của
mình, hoàng đế này tiếp tục bảo trợ Phật giáo và Đạo giáo. Trong các biên niên sử có nói
đến việc tìm thấy các linh tích của Phật giáo, các tượng Phật cổ, qua đó nhấn mạnh sự lâu
đời của Phật giáo ở Việt Nam. Trong Đại Việt sử lược, ở chương về Lý Thái Tông, lần đầu tiên
tháy nhắc đến Nho giáo trong một trường hợp như sau: ở chùa xẩy ra một điều dị thường –
không những không hề lien quan đến Nho giáo, mà như mọi điềm kỳ lạ khác, còn là xá lạ
với tinh thần đạo Khổng – vậy mà hoàng đế sai nho thần làm một bài phú để ghi lại việc ấy
[1, tr. 150]. Như vậy, điều quái lạ trong đền thờ Phật được đặt lên hàng đầu còn vị nho thần
chỉ được nhắc đến thoái qua, ý nghĩa sự có mặt của ông ta hạ thấp và ngay cả dản thân sự
giao việc cũng sẽ bị phản đối nếu đó là một tín đồ Nho giáo thực thù. Thái Tông cũng đã tổ
chức các buổi lễ cầu tự ở các đền chùa Phật giáo.
Lý Thánh Tông (1054-1072) được gán ghép những yếu tố thần linh xung quanh việc ra đời
của ông. Trong các sử liệu chép truyền thuyết mang đậm tinh thần Phật giáo về việc thụ
thai trinh bạch kỳ lạ của mẹ ông (bà mộng thấy mặt trăng vào bụng), rồi có máng sinh ra
ông [1, tr. 154]. Trên khắp đất nước, chùa tháp được tiếp tục xây dựng, trong số đó lần đầu
tiên một bảo tháp gồm 30 tầng đã được xây dựng (năm 1057). Theo lệnh của hoàng đế,
một chùa đươc lập ở Ba Sơn để làm lễ cầu tự [1, tr. 158]. Trong cung hoàng đế có đặt các
tượng La Hán, Bà-la-môn, Thích-ca mâu-ni [1, tr. 156]. Sự nhắc tới việc dựng tượng Bà-la-
môn trong các biên niên sử chứng tỏ có sự truyền bá nhất định ấn độ giáo ở Đại Việt. Sự
truyền bá này diễn ra dưới ảnh hưởng của các quốc gia láng giềng theo ấn giáo trên bán đảo
Đông Dương. Trong cung đình, âm nhạc của người Chăm được ham chuộng, đích thân hòang
đế phiên dịch các nhạc khúc này. Cần lưu ý đây là loại âm nhạc hoàn toàn không phù hợp
với lễ phục phong kiến Nho giáo Trung Hoa. Sự sùng bái Phật giáo của hoàng đế còn được
phản ánh trong sử liệu với việc đích thân ông ngự viết một chữ “Phật” lớn (dày một trượng

sáu thước).
Trong thời trị vì của Lý Nhân Tông (1072-1127), Phật giáo đặc biệt được sùng bái. Như sau
khi Nhân Tông lên ngôi đã có cuộc đón rước long trọng tượng Phật ở chùa Pháp Vân về kinh
sư để cầu cúng. Nhân Tông cũng như các tiên đế, đã sai sứ sang Trung Quốc xin kinh Phật
(như kinh Đại Tạng). Việc thường xuyên xin kinh Phật đem về nước cũng chứng tỏ rằng,
kinh Phật còn được sử dụng ngay cả trong việc đào tạo tầng lớp sư sãi và quan lại tương lai.
Đới với việc tuyển lựa quan lại trong số những người có học thì trong Đại Việt sử lược sách
sử Việt Nam cổ nhất đến thời đại chúng ta có một thông tin lý thú vào năm 1072 như sau:
“Xuống chiếu chọn các sư có thơ đem dâng và các người biết văn tự trong tăng quan cho
thuộc vào ngạch thư gia để bổ vào các chức khuyết ấy” [1, tr. 164]. Điều đặc biệt là theo
Đại Việt sử ký toàn thư thì hai năm trước đó, tức là năm 1070, hình như Văn Miếu đã được
xây dựng và trong năm 1075 đã tổ chức các kỳ thi Nho học. Cần chú ý là những thông tin
về tất cả các thay đổi trên có liên quan đến Nho giáo mới có trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Các sách sử đã được viết sau đó chỉ chép theo bộ sử này.
Tất cả các vua hai triều Lý đều sùng bái đạo Phật, về điểm này chính Ngô Sĩ Liên, mà viết
về cải tạo Nho giáo, đã phê phán các vua Lý trong Đại Việt sử ký toàn thư. Như vậy là có sự
trọng Phật bài Nho. Nhà sử học này cũng nhắc lại ý kiến của Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử
ký (1272) phê phán vấn đề trên của các vua Lý.
Những sự kiện lịch sử xảy ra lúc đó chắc gì tạo điều kiện thuận lợi và thời gian để triển khai
nhũng công việc xây dựng có tính chất Nho giáo như đã kể trên. Sau đây là biên niên ngắn
gọn các sự kiện: năm 1069 – cuộc hành binh lớn Đại Việt dưới sự chỉ huy của hoàng đế
đánh nước Chăm; năm 1070 – chiến dịch chống lại các tù trưởng; cũng năm 1070 hạn hán
nặng; cuối năm 1071 – Lý Thánh Nông lâm bệnh nặng; tháng giêng năm 1072 hoàng đế
băng hà và Lý Nhân Tông kế nghiệp; năm 1073 – những âm mưu trong triều, cuộc đấu
tranh giành quyền bính giữa hoàng thái hậu và hoàng hậu; năm 1075-1077 chiến tranh
giữa Đại Việt và đế quốc Tống đòi hỏi dồn hết lự lượng của quốc gia.
Hãy xem xét vấn đề khoa thi thời hai triều đình Lý. Lê Trắc trong An Nam chí lược viết: “Đến
đời Tống, An Nam lập thành quốc gia, họ Lý đặt phép khoa cử ba năm một kỳ thi, lấy trạng
nguyên, bảng nhãn , thám hoa lang, thành ra điển lệ”. Tức là Lê trắc viết rằng kỳ thi thời
nhà Lý là kỳ thi Nho giáo. Điều đó hoàn toàn không đúng. Theo sách sử các kỳ thi thời Lý

đều là kỳ thi tam giáo. Kỳ thi Nho giáo bắt đầu từ đời nhà Trần, giải thưởng trạng nguyên,
bảng nhãn , thám hoa lang cũng bắt đầu từ đó. Khoa cử ba năm một kỳ cũng không đúng.
Lê Trắc vốn là bề tôi nhà Trần chuyển hệ thống kỳ thi nhà Trần sang kỳ thi Nhà Lý thôi. Điều
đó rất giống Ngô Sĩ Liên vốn là bề tôi nhà Lê chuyển việc lập Văn miếu và các thiết chế Nho
giáo khác của nhà Lê sang thời nhà Hậu Lý Sơ.
Theo Đại Việt sử kỳ toàn thư của Ngô Sĩ Liên, chỉ có 5 khoa thi thuộc triều Lý – 1086, 1152,
1165, 1185 và 1193. Thời hai triều Lý (1010-1225) chỉ có 11 nhà khoa bảng ghi trong sách
sử thôi! Tức là 11 nhà khoa bảng suốt 150 năm kể từ khi Quốc tử giám đã được xây dựng
và khoa thi bắt đầu! Những tin tức đó buộc phải nghi ngờ về cả hệ thống khoa cử thời Lý.
Trong khi đó Đại việt sử lược cho biết rằng ngay cả đời Hậu Lý Mạt (năm 1179) có kỳ thi
Phật giáo riêng: “Vua cùng Thái hậu xem con em tăng quan thi đọc kinh Bát Nhã”.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng thời Hậu Lý Sơ chỉ có 2 nhà khoa bảng – Lê Văn Thịnh và Mạc
Hiển Tích. Lại thêm một nghi ngờ nữa về tính chân xác của hai đợt thi Tiến sĩ dưới các
vương triều này qua hai vị đại quan ấy. Người đầu tiên là Lê Văn Thịnh trong khoa thi Tiến sĩ
năm 1075 có phải thực sự là nhà Nho hay không? Ngay chính sử gia Ngô Sĩ Liên trong tác
phẩm của mình ghi chép lại sự kiện năm 1096 Lê Văn Thịnh có ý định dùng ma thuật hổ để
hại vua. Phải chăng các nhà Nho là những người thích dùng những hình thức ma thuật như
vậy? Người thứ hai là Mạc Hiển Tích đỗ vào năm 1086, cũng như vậy. Trong cuốn Đại Việt sử
lược đã ghi chép về những quan hệ mờ ám với Hoàng hậu. Chi tiết này cũng được Ngô Sĩ
Liên chép lại.
Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có nói về việc xây dựng Văn Miếu và là nơi học của Thái
tử năm 1070. Sự kiện này hình như chưa có sức thuyết phục vì Thái tử mới có 4 tuổi, còn

×