Chính sách tiền tệ là một trong những
công cụ chủ yếu
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chình và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng
với nhửng tồn tại, yếu kém nội tại của nền kinh tế, trong 2 năm qua nền kinh tế
nước ta đã có những biến động về phương diện kinh tế vĩ mô.
Do đó chỉ riêng từ quý 1/2008 đến quý 4/2008 đã có 2 lần thay đổi rất lớn về
chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế:
+ Đứng trước áp lực lạm phát, mà dấu hiệu rõ nét từ Quý 4/2007, cùng với tác
động tiêu cực,do gia tăng đột biến giá cả một số hàng hóa trên thị trường thế giới,
tháng 3.2008 chính phủ đã chuyển mục tiêu và chính sách
từ sự theo đuổi mục tiêu
tăng trưởng cao sang chính sách ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
với 8 nhóm giải pháp
. Kết quả từ tháng 6.2008 chỉ số CPI của nền kinh tế đã có xu
hướng giảm dần và kinh tế vĩ mô có dấu hiệu ổn định hơn.
+ Nhưng sau 15.9.2008, thời điểm thực sự nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, cùng với sự suy thoái khá sâu về kinh tế, đã tác động rất tiêu cực đến nhiều
lãnh vực trong hoạt động kinh tế của nước ta và từ đầu quý 4/2008 nền kinh tế có
dấu hiệu thiểu phát do sức cầu giảm.Một lần nữa mục tiêu và chính sách kinh tế
phải thay đổi:
chuyển từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm kinh
tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng
với 5 nhóm giải pháp đang thực hiện đến nay.
Có thể nói trong vòng chưa đầy một năm nền kinh tế đã có 2 bước ngoặt về sử
dụng chính sách kinh tế vĩ mô để thích nghi với tình hình cụ thể
, trong đó có thể
nói vai trò quyết định là sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.
Điểm qua vai trò của chính sách tiền tệ đã thực thi trong 2 bước ngoặt trên để qua
đó làm rõ vai trò của nó trong giai đoạn
sau thời kỳ suy giảm.
1. Lý luận và thực tiễn sử dụng chính sách tiền tệ như một trong những công
cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế vĩ mô:
Về lý thuyết, thông thường khi nói đến mục tiêu kinh tế vĩ mô, người ta thường
tập trung vào 4 mục tiêu chính:
(1)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh qua tốc độ tăng trưởng GDP hay GNP
cùng với chỉ tiêu GDP/người vào những mốc thời gian nhất định. Đây là mục tiêu
bao trùm nhất của kinh tế vĩ mô phản ảnh chung nhất về thành tựu phát triển của
một nền kinh tế. Tuy chỉ báo này chưa phản ảnh đầy đủ chất lượng của một nền
kinh tế, nhưng luôn luôn là chỉ báo quan trọng nhất để đánh giá sự thành công hay
thất bại của một nền kinh tế.
(2)
Kiểm soát giá cả thông qua chỉ báo CPI hay thường nói là kiểm soát lạm phát
là chỉ báo quan trọng nhất phản ảnh tính ổn định của kinh tế vĩ mô. Chỉ báo này
còn được sử dụng như một công cụ giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu tăng
trưởng kinh tế với an sinh xã hội.
(3)
Tạo việc làm mới cho xã hội, kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp là chỉ báo vừa phản
ảnh tình trạng của nền kinh tế, vừa phản ảnh tính ổn định về mặt an sinh xã hội.
Thông thường ở các nước đây là chỉ báo rất quan trọng không chỉ có ý nghĩa kinh
tế mà còn có ý nghĩa chính trị phản ánh năng lực quản lý điều hành của một chính
phủ. Số việc làm mới tạo ra một năm còn phản ánh mối quan hệ giữa đầu tư với
tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa các chính sách kinh tế tài chính với chính
sách nhân dụng.
(4) Tăng xuất khẩu ròng (lấy kim ngạch xuất khẩu – kim ngạch nhập khẩu); nhất
là đối với những nền kinh tế hướng về xuất khẩu.
Bốn mục tiêu nêu trên được sử dụng khá phổ biến ở các nước như là những mục
tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô.
Những mục tiêu này cũng chính là những sản phẩm
đầu ra của quan hệ tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Vai trò của nhà nước
thông qua các chính sách và giải pháp kinh tế để tác động đến tổng cung và tổng
cầu nhằm tạo được “đầu ra” theo ý muốn, với nguyên tắc: nhà nước không tác
động trực tiếp vào chủ thể tạo cung hay tạo cầu, mà tác động vào thị trường (sự
vận động của tổng cung và tổng cầu được xem như “hộp đen”) và chính thị trường
sẽ tác động đến các chủ thể của nền kinh tế (người sản xuất, người tiêu dùng).
Để thực hiện 4 mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, nhà nước thường sử dụng 4 nhóm
chính sách hay còn gọi là các nhóm công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô:
(i)
Chính sách tài khóa bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
Đây là những chính sách quan trọng nhất vì nó không chỉ tác động đến tổng cung
và tổng cầu của nền kinh tế mà còn có ý nghĩa dẫn dắt, định hướng thị trường.
Chính sách tài khóa thường rất linh hoạt để điều chỉnh kịp thời các mục tiêu kinh
tế vĩ mô. Ví dụ chính sách tăng công chi để kích thích sức cầu của nền kinh tế
chẳng hạn hay tăng thuế để hạn chế tiêu dùng.
(ii)
Nhóm các chính sách tiền tệ được ngân hàng trung ương sử dụng để điều tiết
thị trường tài chính, mà trọng tâm là thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn
định giá cả. Thông thường chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh nhất đến điều
chỉnh tổng cầu của nền kinh tế thông qua các công cụ như: lãi suất, hối đoái,dự trữ
bắt buộc, tái chiết khấu, điều chỉnh cung tiền, các nghiệp vụ của thị trường mở…
(iii)
Chính sách chi tiêu nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng
và điều tiết khối cầu của nền kinh tế. Chính sách này được sử dụng thường xuyên
trong trường hợp nền kinh tế ở trong tình trạng lạm phát hoặc giảm phát.
(iv) Chính sách ngoại thương nhằm điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu, bảo đảm
mục tiêu tăng xuất khẩu ròng; đồng thời cũng điều tiết tổng cung và tổng cầu nội
địa của nền kinh tế.
Bốn nhóm công cụ chính sách nêu trên tùy theo tính chất của một nền kinh tế và
trong mỗi giai đoạn nhất định được điều chỉnh nhằm bảo đảm phục vụ có hiệu quả
cho các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Mục tiêu và công cụ chính sách kinh tế vĩ mô được khái quát theo sơ đồ dưới đây:
2. Thực tiễn sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở nước ta:
Từ sự phân tích lý thuyết như trên đối chiếu với thực tiễn ở nước ta cho thấy, trong
2 năm qua Chính phủ đã sử dụng khá linh hoạt các công cụ chính sách kinh tế vĩ
mô để điều chỉnh các mục tiêu kinh tế-xã hội, đặc biệt là chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ, cụ thể như sau:
+ Trong năm 2008, để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện an sinh
xã hội, trong 8 nhóm giải pháp thực hiện từ tháng 3 năm 2008, thì nổi bật và có tác
dụng nhanh nhất là
chính sách tiền tệ. Với tình hình lạm phát cao (trên 2%/tháng)
Chính phủ thực hiện chính sách siết chặt tiền tệ, thông qua các công cụ của Ngân
hàng TW như tăng lãi xuất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương
mại, thực hiện tín phiếu bắt buộc đối với một số tổ chức tín dụng chủ yếu, hạn chế
việc chiết khấu các loại giấy tờ có giá... nhằm kéo giảm tốc độ tăng dư nợ tín dụng
của các ngân hàng thương mại, giảm tổng cung tiền trong lưu thông... dẫn đến
giảm tổng cầu của nền kinh tế, tạo sự thăng bằng mới trong quan hệ giữa Tổng
cung - Tổng cầu. Khi một nền kinh tế lâm vào tình trạng lạm phát, thì có nhiều
nguyên nhân, bao gồm trực tiếp và gián tiếp, nhưng luôn luôn được thể hiện qua
tiền tệ, nên
“toa thuốc tiền tệ” có tác dụng nhanh nhất.
+ Từ đầu năm nay, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng suy giảm khá mạnh
(GDP quý 1/2008 tăng 7,4% nhưng quý 1/2009 chỉ còn 3,1%), mục tiêu kinh tế vĩ
mô là ngăn chặn suy giảm, nên phải áp dụng các giải pháp để tăng tổng cầu của
nền kinh tế. Một lần nữa chính sách tiền tệ được sử dụng như công cụ chủ yếu để
phục vụ mục tiêu kinh tế. Trong 5 nhóm giải pháp chính phủ thực thi từ tháng
12/2008 đến nay, thì nổi bật vẫn là việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ
như: nới lỏng chính sách tín dụng, hạ lãi xuất cơ bản, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với ngân hàng thương mại, trả nợ tín phiếu bắt buộc, tái chiết khấu và tái cấp vốn
qua nghiệp vụ thị trường mở, mở rộng biên độ tỷ giá VND... để kích thích sự gia
tăng tổng cầu của nền kinh tế, qua đó làm tăng cả tổng cung. Để thực hiện gói kích