Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Sự giao thoa của tư tưởng nho giáo và phật giáo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.83 KB, 7 trang )

Sự giao thoa của tư tưởng nho giáo và phật giáo trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du
1.Phật giáo và Nho giáo là hai học thuyết lớn của triết học nhân loại nói chung và triết học
Phương Đông nói riêng. Hai học thuyết này đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng triết học Việt
Nam. Sự ảnh hưởng ấy thể hiện trong trước tác của những nhà tư tưởng, trong sáng tác của
những nhà văn, nhà thơ, trong lối sống, sinh hoạt của nhân dân ta hàng ngàn đời nay. Tuy
nhiên, tùy vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể với những điều kiện kinh tế khác nhau, các tư
tưởng trên có biểu hiện riêng.
Truyện Kiều là kiệt tác của văn học Việt Nam. Tác phẩm chứa đựng nhiều giá trị văn học và
tư tưởng. Tiếp cận Truyện Kiều chúng ta sẽ hiểu hơn về xã hội Việt Nam trong một giai đoạn
lịch sử đầy biến động - giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Tiếp cận
Truyện Kiều chúng ta cũng sẽ thấy rõ hơn những biểu hiện của tư tưởng Nho giáo và Phật
giáo ở nước ta vào một giai đoạn lịch sử nhất định - giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu
thế kỉ XIX.
2. Tư tưởng nho giáo, phật giáo
2.1. Nho giáo
Nho giáo là học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ trung đại . Nho giáo do Khổng
Tử sáng lập, xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI TCN, duới thời Xuân Thu. Những tư tưởng
của Nho giáo được thể hiện trong hai bộ sách kinh điển: Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tứ Thư có:
Trung dung, Đại học, Luận Ngữ, Mạnh tử. Ngũ kinh có: thi, thư, lễ, dịch, xuân thu. Hệ thống
kinh điển đó hầu như viết về chính trị, xã hội, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu
hướng biện luận về xã hội, về chính trị đạo đức là những tưởng cốt lõi của Nho giáo.
Học thuyết Nho giáo chứa nhiều nội dung nhưng ở đây chúng tôi chỉ bàn nội dung liên quan
đến tác phẩm: Tư tưởng thiên mệnh. Nho giáo cho rằng con người và thế giới bên ngoài do
trời sinh ra, số phận con người do trời định. Trời an bày địa vị của con người. Xuất phát từ tư
tưởng này mà về sau vào thời nhà Hán, Đổng Trọng Thư nêu thuyết "thiên nhân cảm ứng".
Trong lịch sử phát triển của phong kiến Trung Quốc, Nho giáo có ảnh hưởng lớn về tư tưởng,
nó được triều đình phong kiến vận dụng để xây dựng và củng cố quyền lực của nhà nước
phong kiến. Nho giáo là cốt lõi của ý thức hệ phong kiến.
2. 2. Phật giáo
Đạo phật hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI TCN, người sáng lập là thái tử


sidharta (Tất-Đại-Đa) . Đạo phật thực chất là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát.
Đức phật từng dạy'' ta chỉ dạy một điều: khổ và khổ diệt". Cốt lõi của học thuyết này là tứ
diệu đế (bốn chân lí kì diệu), gồm :
Khổ đế: chân lí về bản chất nỗi khổ
Nhân đế hay tập đế: là chân lí về nguyên nhân của nỗi khổ.
Diệt đế: chân lí về cảnh giới diệt khổ. Nỗi khổ sẽ bị tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra nỗi khổ
bị loại trừ. Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn. Đó là thế giới của sự giác ngộ và giải thoát.
Đạo đế: chân lí chỉ ra con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, giải thoát và giác ngộ đòi hỏi
phải rèn luyện và tu hành.
Học thuyết Nho giáo và Phật giáo đã xâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Dĩ nhiên, các tư
tưởng này khi xâm nhập vào nước ta đều bị sự khúc xạ của văn hóa Việt Nam. Tùy vào từng
giai đoạn lịch sử mà tư tưởng Nho giáo hoặc Phật giáo giữ địa vị thống trị.
3. Tư tưởng Nho giáo, Phật giáo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
3.1. Tưởng Nho giáo trong Truyện Kiều
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam. Khi tiếp nhận tác phẩm này rất nhiều nhà
nghiên cứu đề cao giá trị nhân văn của tác phẩm: Nguyễn Du đã vượt qua những ràng buộc
của Nho giáo để ngợi ca tình yêu tự do, ngợi ca hạnh phúc riêng tư của con người. Tất nhiên
đó là những kết luận không thể phủ nhận được. Nhưng là một sản phẩm của ý thức hệ
phong kiến, sinh ra trong gia đình có truyền thống nho học, bản thân lại từng làm quan cho
triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du không thể không ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo. Sự
ảnh hưởng ấy được ông thể hiện khá rõ trong việc lí giải số phận của nhân vật chính - Thúy
Kiều bằng thuyết thiên mệnh. Nguyễn Du cho rằng mọi khổ đau tủi nhục của Kiều đều do
trời định. Nhà thơ đã nhiều lần nói đến trời, đến thiên mệnh như các nhà kinh điển của nho
gia. Trong Truyện Kiều tư tưởng thiên mệnh ấy được tác giả thể hiện dưới dạng"tài mệnh
tương đố'', "hồng nhan bạc mệnh".
Trong Truyện Kiều mâu thuẫn giữa tài và mệnh tập trung ở nhân vật nàng Kiều. Để hiểu
được mâu thuẫn này thì phải nhận thức được thế nào là tài, thế nào là mệnh. Tài là tài
năng, nhan sắc, là những gì tốt đẹp của con người. Tài là một giá trị thực tại. Số mệnh là
một thực thể siêu hình, nó không tồn tại và không có hiệu lực thực tại nhưng ở Truyện Kiều
mệnh có một vai trò to lớn: " chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau".

Tác giả đã nhận thức nỗi khổ của Thúy Kiều với một ý nghĩa siêu hình, bản chất số phận của
nàng là mâu thuẫn giữa tài và mệnh. "Tài mệnh tương đố" là niềm tin của tác giả. Những
lực lượng tàn phá cái hay, cái đẹp đều được nhà văn khái quát thành số mệnh. Bởi theo
thuyết thiên mệnh của Nho giáo, người ta giàu nghèo sướng khổ là do trời định trước :"tử
sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên". Người ta bằng kinh nghiệm ở đời, theo hướng duy tâm
thần bí để suy ra rằng, sở dĩ có điều bất bình là đạo trời vốn gét cái trọn vẹn ("tạo vật số
toàn/ tạo hóa kị doanh") :
"Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quyen thói má hồng đánh ghen"
Tài hoa thì bạc mệnh! Đó là mệnh đề mà tác giả đã chứng minh bằng cuộc đời của Thúy
Kiều. Kiều được miêu tả như một ngưòi đẹp toàn diện. Sắc đẹp ấy, tài năng ấy đã dự báo
một cuộc đời đầy sóng gió bởi: "rằng hồng nhan tự thủa nào/ cái điều bạc mệnh có chừa ai
đâu''. Hay ẩn trong "tài" chính là "họa" :"chữ tài liền với chữ tai một vần"
Mệnh đề ấy còn được Nguyễn Du cụ thể hóa ở nhân vật Đạm Tiên. Đạm Tiên cũng là người
con gái đẹp, tài năng"nổi danh tài sắc một thì" nhưng:
"Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương".
Nhìn chung, Nguyễn Du cắt nghĩa cái đau khổ của Thúy Kiều hay cái đau khổ của cuộc đời
nói chung thông qua nàng Kiều là do mâu thuẫn giữa tài và mệnh. Tư tưởng ấy dường như
quán xuyến từ đầu đến cuối tác phẩm và được tác giả khái quát ở phần cuối tác phẩm:
"Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt nhầm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao được mới phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào"
3.2. Tư tưởng Phật giáo trong Truyện Kiều
Bên cạnh việc vận dụng học thuyết Nho giáo, Nguyễn Du còn vận dụng học thuyết Phật giáo
vào việc lí giải số phận nhân vật, bỏi vì dường như khi giải thích bằng thuyết thiên mệnh,
ông vẫn chưa thực sự thỏa mãn, vẵn bị bế tắc. Vì thế Nguyễn Du đã tìm đến đạo phật. Ông
dùng thuyết nhân quả và nghiệp báo của đạo phật mà giải thích số phận của nhân vật. Giáo

lí nhà phật khẳng định: " nước bao giờ cũng chảy xuống, tham muốn và tình dục sẽ đưa con
người vào vòng trầm luân đau khổ, từ đó đẩy con người vào nghiệp báo luân hồi". Sở dĩ
Thúy Kiều có số phận mong manh như thế vì nàng có cái nghiệp tiềm ẩn bên trong, cái
nghiệp tiềm ẩn từ kiếp trước:
"Kiếp xưa đã vụng đường tu
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi
Dẫu sao bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong"
Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều câu thơ thể hiện thuyết nghiệp báo trên của đạo phật ở
Truyện Kiều, nó thấm nhuần vào tư tưởng của nhân vật cho nên Kiều đã dự cảm được vận
mệnh cuộc đời mình từ khi còn nhỏ:
"Kiếp này trả nợ chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau"
Dưới ánh sáng của nhân duyên học (từ dùng của đạo phật) , các quan điểm thiên mệnh đều
ngã quị, không thể tồn tại mà xưng hùng xưng bá để dày đọa kiếp người. Con người khổ ải
là do hành vi "thất niệm" của mình tạo ra từ trước cho nên không thể trách trời được:
"Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa"
Dựa vào thuyết nghiệp báo của đạo phật, chúng ta thấy rằng chết không phải là hết, chết là
một sự thoát xác, thay đổi từ trạng thái sinh hoạt này sang một trạng thái sinh hoạt khác,
khổ đau hoặc sung sướng hơn, tùy vào nghiệp của mình đã tạo ra ở kiếp trước. Người Việt
Nam nói riêng và người Phương Đông nói chung đã hấp thụ tư tưởng này nên chúng ta
không bao giờ tin chết là hết, chêt là mất hẳn. Có lẽ vì vậy nên người Việt thường có quan
niệm rằng: con người sau khi chết thể xác tan rã nhưng tinh thần còn tồn tại. Thực ra đó là
ảnh hưởng từ thuyết nghiệp báo của nhà phật. Kiều cũng đã tin như thế:
"Kiều rằng những đấng tài hoa
Thác là thể phách còn là tinh anh"
Để chứng minh cho lòng tin ấy, Nguyễn Du đã cụ thể hóa sự xuất hiện mờ ảo linh thiêng của
Đạm Tiên trong buổi chiều thanh minh và những lần nàng hiện về báo mộng cho Kiều. Vì
nhận thức chết là chưa hết nên khi trao duyên lại choThúy Vân, Kiều đã dặn em:

"Mai sau dẫu có bao giờ đốt
Lò hương ấy so hương phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu gió thì hay chị về"
Theo triết lí của đạo phật, ở đời không có cái gì tự nhiên mà có, ngẫu nhiên mà sanh. Sở dĩ
nàng Kiều mang nghiệp báo là do một túc duyên tiền định.
Có người cho rằng nếu đúng như thuyết nghiệp báo và luật nhân quả (gây nhân nào gặp
quả ấy) của đạo phật thì tại sao những người hiếu thảo, vị tha như Kiều vẫn chịu khổ. Thực
ra, triết lí nhân quả của đạo phật chia làm nhiều thứ: nhân quả hiện tại, nhân quả nhiều đời,
nhất thế nhân quả, tam thế nhân quả. Thân phận Thúy Kiều chính là biểu hiện của thứ nhân
quả nhiều đời, thứ nhân quả được truyền từ kiếp trước. Trong Truyện Kiều còn hiển thị cả
thứ nhân quả hiện tại. Những kẻ làm việc bạc ác tinh ma như Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Tú
Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh cuối cùng đều bị trừng phạt (thể hiện ở doạn thơ Kiều báo ân báo
oán)
Vì muốn chứng minh một cách rõ ràng thuyết nhân quả - báo ứng là một định lí hiển hiện có
thật và mọi người đều có thể được đáp ứng tương ứng với hành vi của mình đã tạo ra trong
kiếp sống hiện tại, tác giả Truyện Kiều đã để cho kiều sống lại thoát khỏi oan kiếp tiền định
ở sông Tiền Đường vì nàng biết rèn luyện tâm tính.
Điểm đặc biệt của đạo phật chính ở chỗ phàm là con người dù tội lỗi bao nhiêu nhưng biết
thành tâm sám hối, ăn năn thì có thể trở thành trong sạch được. Lối thoát của đạo phật là đi
tu:"tu là cội phúc, tình là dây oan''. Kiều đã luyện đúng tinh thần của đạo phật, nhờ thế mới
có cái hậu của Truyệnkiều, cái hậu ấy chính là sự sum họp với những người nàng yêu
thương nhất. Trải qua mười lăm năm liu lạc, cuối cùng nàng đã đạt được ước nguyện đoàn
viên. Mười lăm năm đoạn trường của nàng là bài học về khổ đế mà nguyên nhân vừa hợp
với giáo lí, vừa hợp với tinh thần giới luật nhà phật là lòng khát ái, dục ái.
Tư tưởng Phật giáo trong Truyện Kiều còn thể hiện ở quan niệm về chữ "tâm"
Trong kinh luận, Phật giáo thường chép:"tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" (ba cõi dục
giới, sắc giới và vô sắc giới là do tâm, vạn pháp hữu hình, vô hình, tâm pháp, sắc pháp đều
do thức tạo ra). Theo đạo phật, tâm là chủ thể của muôn sự muôn vật. Riêng đối với con
người mọi vật đều do tâm thúc đẩy. Với Kiều tâm cũng quyết định mọi vui buồn và giá trị

của đời sống:
"chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
Đọc Truyện Kiều chúng ta còn bắt gặp cả tinh thần từ bi bác ái, vị tha của đạo phật. Điều đó
thể hiện ở cách ứng xử của kiều với những ngưỡi xung quanh. Kiều đã hy sinh tình yêu, hy
sinh hạnh phúc riêng tư của bản thân để cứu gia đình ra khỏi cơn gia biến. Đó là lòng hiếu
thảo. Mười lăm năm lưu lạc, mười lăm năm chịu kiếp đọa đày, đáng ra nàng phải thương
phận mình nhưng lúc nào kiều cũng băn khoan về những người thân, về mẹ cha, về Kim
Trọng. Đó chính là sự vị tha.
Đọc Truyện Kiều chúng ta còn bắt gặp âm hưởng của đạo phật qua những thuật ngữ của
đạo phật: đoạn trường, am mây, Nhồi tâm hương... Lúc ở "quan âm các" nhà Hoạn Thư,
công việc của thúy kiều được Nguyễn Du tả như sau: “ngày phô thủ tự, đêm nhồi tầm
hương". Ngày phô thủ tự, nghĩa là ngày bày ra chép kinh. Đêm nhồi tầm hương", ở đây là
ngũ phần hương, năm thứ hương của pháp thân là: giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát
tri kiến. Nhồi tầm hương là ngồi thiền để tô bồi năm phần hương của pháp thân.
3.3. Sự giao thoa của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo
Tác phẩm Truyện Kiều vừa tồn tại triết lí của Nho giáo, vùa tồn tại triết lý của Phật giáo
(như chúng ta đã khảo sát ở trên) , sở dĩ như thế vì bản thân tác giả đã tiếp thu cả hai tư
tưởng này. Nhưng trong Truyện Kiều, tư tưởng Nho giáo và Phật giáo không tồn tại một cách
biệt lập mà giữa chúng có sự đan xen nhau.
Tư tưởng thiên mệnh là nội dung của Nho giáo nhưng ở Truyện Kiều nó không thuần túy
Nho giáo nữa mà có thêm màu sắc Phật giáo. Nhà thơ giải thích tư tưởng định mệnh của
Nho giáo bằng ngôn ngữ của Phật giáo. Mâu thuẫn của tài và mệnh là là biểu hiện tư tưởng
định mệnh của Nho giáo thì nguồn gốc sẫu xa của nó lại chính là chữ nghiệp theo quan niệm
của Phật giáo. Để thủ tiêu mâu thuẫn của tài và mệnh, con người phải tu tâm bởi vì theo
đạo phật thì "thiện căn" - gốc rễ của cái thiện là ở trong lòng mình. đây là những lời của sư
tam hợp khi nghĩ về cuộc đời Kiều:
"Sư rằng phúc họa đạo trời
cội nguồn cũng ở lòng người mà ra
có trời mà cũng có ta
tu là cội phúc tình là dây oan"

×