Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Sốt ,Cảnh báo điều gì?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.43 KB, 5 trang )

Sốt – Cảnh báo điều gì?
Gọi là sốt khi thân nhiệt vượt quá 37oC. Có nhiều nguyên
nhân khác nhau gây sốt nhưng dù sốt do nguyên nhân nào đi
chăng nữa thì sốt làm cho cơ thể bị mất nhiều nước và cả chất
điện giải gây mệt mỏi, làm ảnh hưởng nhiều chức năng sinh lý
khác của con người, đó là chưa kể ở trẻ nhỏ sốt cao có thể gây
co giật.

Không kiểm tra thân nhiệt bằng tay.
Một số nguyên nhân gây sốt
Muốn biết có bị sốt hay không phải cặp nhiệt độ, thông thường hay
dùng biện pháp cặp ở nách. Cặp nhiệt độ ở nách cần cộng thêm 1/2
độ, ví dụ cặp nhiệt độ ở nách thấy 37oC, có nghĩa là người đó có
thân nhiệt là 37,5oC (ba mươi bảy rưỡi). Tốt nhất là nên cặp nhiệt
độ ở khoé miệng hoặc nhiệt độ ở hậu môn thì không cần cộng thêm
1/2 độ. Sốt là một hiện tượng phản ứng của cơ thể do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Có thể gọi sốt do vi sinh vật gây bệnh gây ra (sốt
nhiễm khuẩn) và sốt không do vi sinh vật gây bệnh (sốt không do
nhiễm khuẩn). Sốt nhiễm khuẩn cũng có nhiều loại khác nhau, có
thể sốt cấp tính hoặc sốt dai dẳng, kéo dài. Một số bệnh gây viêm
đường hô hấp cấp tính như viêm họng cấp, viêm amidan cấp, viêm
phế quản, thanh quản, viêm phổi cấp tính hoặc áp-xe amiđan, áp-
xe phổi thường sốt rất cao (trên 39oC). Một số bệnh viêm cầu thận
cấp, ứ mủ bể thận, viêm đường mật dẫn mật, áp-xe gan mật, các
loại sốt phát ban như sốt xuất huyết Dengue, sốt phát ban do sởi,
do thủy đậu hoặc sốt thương hàn, nhiễm khuẩn huyết, viêm não –
màng não, sốt vàng da chảy máu… cũng gây sốt cao, thậm chí sốt
rất cao (trên 40oC). Có một số bệnh mặc dù là viêm nhiễm cấp tính
nhưng thân nhiệt không tăng nhiều hoặc tăng ở mức độ vừa phải
khoảng 37,5oC – 38,5oC như bệnh viêm ruột thừa cấp tính. Tuy
vậy, một số bệnh nhiễm trùng mạn tính thì cũng gây sốt nhưng


thường sốt không cao, khoảng 37,5oC – 38,5oC, ví dụ như sốt
trong viêm loét sùi van tim, bệnh lao, cảm cúm, bệnh VA ở trẻ
nhỏ, viêm họng – xoang mạn tính, viêm đường tiết niệu. Sốt không
do nhiễm khuẩn cũng gặp khá nhiều. Hầu hết các loại sốt không do
nhiễm khuẩn là sự phản ứng của cơ thể khi gặp yếu tố lạ hoặc phản
ứng của cơ thể để sinh ra kháng thể chống lại tác nhân gây bệnh, ví
dụ như sốt nhẹ sau khi tiêm vaccin ở một số trẻ hoặc trẻ mọc răng
sữa, say nóng, say nắng hoặc sốt do tăng sinh tổ chức trong bệnh
ung thư, bệnh về máu… Nhưng đôi khi sốt không do nhiễm trùng
nhưng lại là một sự phản ứng quá mạnh như sốt do truyền dịch gặp
ở một số trường hợp.

Cặp nhiệt kế khi bị sốt để kiểm tra thân
nhiệt.
Khi bị sốt nên làm gì?
Như vậy sốt chỉ là một triệu chứng biểu hiện của rất nhiều bệnh
khác nhau, cũng do nhiều nguyên nhân khác nhau và có thể gặp ở
nhiều bộ phận khác nhau của cơ thể con người. Để làm sáng tỏ sốt
do bệnh gì thì người bệnh nên đi khám ở cơ sở y tế. Ở đó cần nói
rõ cho bác sĩ biết các biểu hiện của bệnh và các triệu chứng kèm
theo sốt như thế nào, bắt đầu sốt từ bao giờ, có đau đầu, buồn nôn,
nôn, có đau bụng, đi lỏng hoặc tức ngực khó thở, nước tiểu có màu
sắc gì không và đã dùng thuốc gì… hoặc trong gia đình và hàng
xóm có ai bị sốt như thế này không? Trên cơ sở đó, bác sĩ sẽ cho
làm các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết khi nghi bệnh. Ví dụ
nghi là viêm đường hô hấp dưới (khí quản, phế quản hoặc phổi…),
bác sĩ sẽ cho chụp Xquang phổi (thẳng, nghiêng), xét nghiệm công
thức máu, máu lắng, xét nghiệm chất nhầy họng tìm vi khuẩn,
trong trường hợp thật cần thiết sẽ được chọc hút nhầy phế quản để
xét nghiệm vi sinh tìm tác nhân gây bệnh (tất nhiên kỹ thuật này

phải được thực hiện ở cơ sở y tế có đủ điều kiện và bác sĩ thực hiện
thủ thuật này phải giàu kinh nghiệm mới thực hiện được) hoặc nội
soi phế quản… Nếu sốt cao thì trước khi đi khám bệnh nên dùng
paracetamol để giảm sốt. Với paracetamol, trẻ dưới 1 tuổi thường
dùng khoảng 60mg/lần; trẻ từ 1-3 tuổi dùng từ 60-120mg/lần; trẻ
từ 6-12 tuổi dùng 240mg/lần và liều lượng trung bình là 10mg/kg,
cách từ 4-6 giờ dùng 1 lần uống hoặc đặt hậu môn (đối với trẻ).
Đối với trẻ em, cần lau ấm, đắp khăn ấm lên trán, nách, bẹn cho trẻ
và đề phòng trẻ sốt cao gây co giật. Cả người lớn và trẻ em khi
chưa kịp đến cơ sở y tế khám bệnh thì cần uống nhiều nước, tốt
nhất là uống dung dịch oresol. Oresol có 2 loại, loại đóng gói 5,63g
thì cho vào cốc đựng 200ml nước đun sôi để nguội, lắc đều; loại
27,5g/gói thì cho vào bình đựng 1 lít nước đun sôi để nguội. Trẻ
dưới 24 tháng tuổi thì cho uống khoảng 50ml, ngày cho uống 2-3
lần; trẻ từ 2-10 tuổi cho uống khoảng 100ml, ngày uống 2-3 lần;
trẻ trên 10 tuổi và người trưởng thành thì cho uống theo nhu cầu
(khát là cho trẻ uống). Nếu không có oresol, có thể dùng nước gạo
rang hoặc pha dung dịch 2 thìa cà phê muối ăn với 8 thìa cà phê
đường trong 1 lít nước đun sôi để nguội. Như vậy chúng ta biết sốt
đều có nguyên nhân của nó và sốt sẽ gây ảnh hưởng đến sức khoẻ,
vì vậy khi bị sốt không được chủ quan, nhất là sốt cao do nhiễm
trùng, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Trẻ càng nhỏ tuổi càng phải chú ý và
theo dõi khi trẻ sốt, tránh để trẻ bị sốt cao gây co giật rất nguy
hiểm. Cần nhanh chóng đưa người bị sốt đến cơ sở y tế để được
khám bệnh và được chăm sóc cẩn thận.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×