Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Các lĩnh vực mở rộng của kỹ thuật mổ nội soi mũi xoang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 13 trang )

CÁC LĨNH VỰC MỞ RỘNG CỦA KỸ THUẬT MỔ NỘI SOI MŨI-XOANG

Phẫu thuật nội soi mũi-xoang khởi đầu chỉ tập trung giải quyết các bệnh lý vùng mũi-xoang
như viêm xoang mạn và polyp mũi. Song sau nhiều năm hoạt động, kỹ thuật mổ nội soi
mũi-xoang dần dần được mở rộng sang các vùng lân cận như ổ mắt, thần kinh thò, túi lệ và
tuyến yên. Trước đó, các trường hợp rò dòch não-tủy qua mũi phải mổ vá bằng kỹ thuật mở
sọ hở nay đã được bít kín an toàn và hiệu quả hơn với kỹ thuật mổ nội soi qua mũi. Ưu
điểm chính của kỹ thuật mổ nội soi là giảm di chứng và tăng tính thẩm mỹ cho người bệnh
do không để lại sẹo bên ngoài.
Phẫu thuật nội soi mũi-xoang chức năng đầu tiên được dùng để điều trò các trường hợp
viêm xoang mạn không đáp ứng với điều trò nội khoa. Sau đó, phẫu thuật nội soi mũi-xoang
này cũng dần dần mở rộng sang các cấu trúc lân cận và được xử dụng thường qui.
Trong lónh vực mũi-xoang, ống nội soi mũi được dùng để lấy bệnh tích viêm xoang mạn,
polyp mũi-xoang, u nhày, đốt điện để cầm các điểm chảy máu trong mũi v.v… Với ống nội
soi này, các phẫu thuật viên đã có thể tiếp cận dễ dàng vào các cấu trúc quanh các xoang
cạnh mũi như ổ mắt, thần kinh thò, túi lệ, thần kinh vidian và tuyến yên.

Giải áp thần kinh thò
Giải áp thần kinh thò có thể thực hiện qua nội soi hốc mũi, và việc phải quen thuộc với các
cấu trúc giải phẫu của vùng sàng-bướm và đỉnh ổ mắt là yêu cầu cơ bản đối với các phẫu
thuật viên khi thực hiện kỹ thuật mổ này.
Đầu tiên, phẫu thuật viên cần nạo sạch các tế bào sàng trước và sàng sau để bộc lộ ống thò
giác nằm ngoài các tế bào sàng sau và trên-ngoài của xoang bướm. Tiếp theo, lấy bỏ phần
xương của ống thò giác, những mảnh xương vụn hay các cục máu đông chung quanh ống thò
giác để giải áp cho dây thần kinh thò giác.
Một số vấn đề trong phẫu thuật giải áp thần kinh thò do chấn thương
Điều trò các trường hợp giảm thò lực sau chấn thương là một vấn đề vẫn đang còn được bàn
cãi vì có rất nhiều tác nhân có thể gây ra biểu hiện này (như chèn ép do cấu trúc xương; do
đứt hoặc kéo căng các sợi thần kinh thò giác; chèn ép do tụ máu, phù nề mô mềm, xuất
huyết trong hay quanh dây thần kinh; đụng dập hay thiếu máu nuôi huyết khối hay co mạch
…) đã được nhiều tác giả ghi nhận. Các tác nhân kể trên có thể xuất hiện đơn lẻ hay kết


hợp, nên việc chỉ dùng phẫu thuật để điều trò giảm thò lực sau chấn thương cần được bổ
sung. Các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong lónh vực này khuyên nên kết hợp phẫu
thuât giải áp với dùng steroid liều cao; kết quả phẫu thuật giải áp thần kinh thò cho các
trường hợp giảm thò lực sau chấn thương còn phụ thuộc nhiều vào thời gian từ lúc chấn
thương đến lúc tiến hành phẫu thuật; nói chung mổ giải áp sớm cho kết quả tốt; chờ và theo
dõi có thể để cho một trường hợp giảm thò lực còn khả năng hồi phục trở thành vónh viễn
không hồi phục.


H 4 Ảnh CT cho thấy có chèn ép dây thần kinh thò trái
Ngoài chấn thương, dây thần kinh thò giác còn có thể bò chèn ép vì khối u, giảm thò lực do
thiếu máu tiến triển, chèn ép trong bệnh xương hóa đá và loạn sản sợi. Trong trường hợp
giảm thò lực tiến triển do bệnh xương hóa đá, mổ giải áp thần kinh thò là giải pháp duy nhất
giúp thần kinh thò hồi phục hay tối thiểu cũng giúp bảo tồn thò giác cho người bệnh. Với
ống nội soi và các mũi khoan kim cương dài, việc mổ giải áp thần kinh thò qua nội soi đã
được thực hiện một cách an toàn và hiệu quả, giảm tỉ lệ tử vong, bảo tồn được khứu giác,
rút ngắn thời gian hồi phục, không ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ sau mổ do không để sẹo
ngoài da, không ảnh hưởng đến quá trình mọc răng ở trẻ và giảm bớt sang chấn do phẫu
thuật ở các bệnh nhân có đa tổn thương. Tuy vậy, các biến chứng có thể gặp của phẫu thuật
này bao gồm chảy máu, tụ máu quanh ổ mắt hay quanh dây thần kinh, chảy dòch não-tủy
và viêm màng não sau mổ.

Giải áp ổ mắt
Trong bệnh cường giáp ác tính, một biến chứng tuy ít gặp nhưng rất đáng sợ là giảm thò lực
do chèn ép dây thần kinh thò. Phẫu thuật giải áp ổ mắt được thực hiện để giảm sự chèn ép
dây thần kinh thò, giải quyết bệnh giác mạc hay thẩm mỹ. Phẫu thuật giải áp ổ mắt kinh
điển được thực hiện qua đường rạch ngoài da để lấy bỏ thành trong ổ mắt và sàn ổ mắt.
Phẫu thuật giải áp ổ mắt qua nội soi lấy đi thành trong ổ mắt và chỉ một phần sàn ổ mắt.
Sau khi thực hiện xong phẫu thuật nạo sàng qua nội soi, xương giấy được lấy đi, và sàn ổ
mắt chỉ được lấy bỏ khi phẫu thuật viên thấy cần thiết. Để việc giải áp ổ mắt được hiệu

quả hơn, phẫu thuật viên có thể dùng dao rạch cốt mạc ổ mắt cho mỡ ổ mắt thoát ra ngoài.
Các biến chứng ổ mắt do viêm xoang như áp xe ổ mắt có thể được giải quyết bằng phẫu
thuật nội soi với các phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm. Đầu tiên, phẫu thuật viên nạo
sàng qua nội soi, sau đó sẽ lần theo dấu vết ổ mủ để vào ổ mắt.
Hình: một trường hợp u nhày xâm lấn
vào ổ mắt




Bít lỗ rò dòch não-tủy



Rò dòch não-tủy có thể xảy ra do chấn thương hay không do chấn thương. Vò trí rò dòch não-
tủy thường gặp nhất là mảnh sàng và trần xoang sàng. Các vò trí khác có thể gặp là xoang
trán và thành ngoài của xoang bướm. Rò dòch não-tủy có thể xảy ra ở 1 hoặc 2 bên. Do
phẫu trường ở sát màng não nên biến chứng rò dòch não-tủy cũng là một trong những biến
chứng đáng ngại với các phẫu thuật nội soi mũi-xoang. Tần xuất biến chứng viêm màng
não là thước đo đánh giá kết quả phẫu thuật điều trò rò dòch não-tủy. Việc phẫu thuật điều
trò rò dòch não-tủy đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây; nhờ sự xuất hiện và phát
triển của kỹ thuật nội soi, các lỗ thủng màng cứng đã được bít kín qua đường mũi. Kỹ thuật
chiếu sáng tốt hơn, hình ảnh rõ nét hơn với các ống nội soi mũi-xoang đã giúp cho việc tiếp
cận và bít lỗ rò ở sàn sọ trước qua nội soi dễ dàng hơn. Hầu hết các vò trí rò dòch não-tủy
(ngoại trừ rò từ xoang trán) đều có thể tiếp cận và sửa chữa qua nội soi. Trước khi tiến
hành phẫu thuật, phẫu thuật viên cần xác đònh vò trí lỗ rò bằng chụp CT có bơm thuốc cản
quang hay chụp MRI. Nguyên tắc cơ bản trong phẫu thuật bít lỗ rò dòch não-tủy là xác đònh
chính xác vò trí lỗ rò, làm rướm máu vùng quanh lỗ rò và bít lỗ rò bằng cách chèn mô mỡ
hay cơ và phủ lên bằng cân cơ. Vật liệu dùng để bít lỗ rò có thể là cân cơ thái dương hay cơ
căng mạc đùi, màng sụn vách ngăn mũi hay các xương cuốn, hoặc màng não đông khô.

Nếu lỗ thũng màng não quá to, có thể làm vững chắc thêm mảnh vá bằng mảnh mô sụn tự
thân; sau mổ, bệnh nhân được chọc dẫn lưu dòch não-tủy ở cột sống thắt lưng để làm giảm
dòch áp dòch não-tủy.

H 2 Rò dòch não-tủy ở mảnh sàng trái



H 3 Rò dòch não-tủy ở thành ngoài của xoang bướm
trái, có dòch não-tủy bên trong xoang.

Hình: một trường hợp dò dòch não
tuỷ sau phẫu thuật nội soi mũi
xoang.

×