Thăm khám một người bệnh mắc bệnh máu cũng như thăm khám một người bệnh có bệnh nội khoa nói chung gồm
hai phần chính: phương pháp thăm khám lâm sàng và phương pháp thăm khám bằng các xét nghiệm.
Phương pháp lâm sàng
Các xét nghiệm máu
PHƯƠNG PHÁP LÂM SÀNG
I. BỆNH SỬ VÀ TIỀN SỬ.
Cũng giống như các bệnh án thuộc các loại bệnh khác, nhưng ở đây chúng ta cần chú ý những điểm sau đây:
1. Nghề nghiệp:
- Đặc biệt hỏi những nghề nghiệp tiếp xúc nhiều với những hoá chất như chỉ, benzen, toluen… hoặc tiếp xúc với các
chất phóng xạ, quang tuyến X như các nhân viên phòng điện quang, công nhân các viện nghiên cứu phòng xạ là một
trong những nguyên nhân chủ yếu của các bệnh máu ác tính: các bệnh bạch huyết, bệnh thiếu máu không hồi phục.
- Nghề nghiệp tiếp xúc với phân tươi như trồng rau bón bằng phân bắc, rất dễ mắc giun móc câu, là một trong những
nguyên nhân gây thiếu máu nhiều.
2. Các loại thuốc đã dùng.
Một số thuốc như cloroxit, quinin, sedocmit, các thuốc an thần, các thuốc chống ung thư, các hócmon, do cơ chế ngộ
độc hoặc dị ứng, có thể gây ra các bệnh về máu như chảy máu dưới da hay nội tạng, suy tuỷ… nhiều khi trong quá
trình điều trị một bệnh về máu bằng các thuốc kể trên có những biến chứng làm ta rất khó phân biệt đó là biến chứng
của bản thân bệnh hay do thuốc. Thí dụ đang điều trị bệnh bạch huyết kinh bằng các thuốc hoá học, người bệnh bị
chảy máu nhiều. Lúc đó rất khó phân biệt là chảy máu do thuốc hay chỉ là đợt cấp diễn của bệnh huyết kinh. Do đó cần
hỏi tỉ mỉ các thuốc đã dùng hoặc đang dùng, liều lượng và nhất là cố gắng tìm mối liên quan giữa dùng thuốc với sự
xuất hiện các triệu chứng.
3. Tiền sử:
- Bản thân: chú ý đến tiền sử chảy máu như chảy máu cam, máu lợi, máu chảy lâu cầm mỗi khi va chạm nhỏ hoặc khi
tiêm, chích, nhổ răng, cắt amidan… Hỏi những rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ, đặc biệt hiện tượng rong kinh, băng
huyết, tiền sử chửa đẻ, nhất là những lần sẩy thai liên tiếp làm nghĩ đến sự không hợp yếu tố Rh trong máu.
- Gia đình: trước một người bệnh mắc bệnh về máu, phải hỏi tình trạng sức khoẻ, bệnh tật của anh chị em ruột, cô dì
chú bác. Hỏi xem trong gia đình, họ hàng gần, có người nào mắc những bệnh tương tự như người bệnh.
- Trong một số trường hợp nghi ngờ, hỏi người bệnh chưa đủ mà phải mời gia đình người bệnh đến để thăm khám và
làm các xét nghiệm cần thiết. Có như vậy mới phát hiện được một số bệnh về máu có tính chất gia truyền có thể đặt
vấn đề điều trị và nhất là hướng dẫn cách phòng bệnh cho cả gia đỉnh đó.
II. KHÁM THỰC THỂ
Cũng như các bệnh nói chung ở đây cần chú ý đến:
1. Màu sắc do và niêm mạc.
2. Phát hiện các nốt chảy máu dưới da dưới mọi hình thái:
Chấm, mảng, cục máu. Chú ý đến điều kiện xuất hiện, địa điểm và mối liên hệ của chảy máu với các triệu chứng toàn
thân như sốt, nổi hạch.
3. Tìm các biểu hiện khác ngoài da:
Như ngứa, ban đỏ, rối loạn sắc tố, tìm các u nhỏ hoặc lớn, các hạt nổi dưới da. Nấu cần có thể làm sinh thiết các hạt
và u này để xem vi thể.
4. Thăm khám kỹ các cơ quan có tổ chức gần giống như máu:
Hạch, gan, lách. Amidan. Chú ý phát hiện các hạch ở sau như trung thất, trong ổ bụng.
Khám lâm sàng các bệnh nói chung hay trong các bệnh về máu nói riêng phải toàn diện và rất thận trọng. Nó cho ta
những triệu chứng đáng tin cậy, ít phụ thuộc vào sự sai lạc do kỹ thuật tiến hành. Tuy nhiên, khám lâm sàng chưa đầy
đủ và còn nhiều nhược điểm, vì không phát hiện những tổn thương của các tế bào máu về hình thể, chức phận, không
thăm khám được cơ quan tạo huyết chủ yếu là tuỷ xương, nguồn của hầu hết các bệnh về máu.
Vì những lý do trên, các thăm khám cận lâm sàng trong các bệnh về máu đóng một vai trò rất quan trọng, nhiều khi có
tính chất quyết định.
CÁC XÉT NGHIỆM MÁU
I. Hồng cầu.
1. Tế bào học.
1.1. Số lưỢng hồng cầu:
Là xét nghiệm cơ bản nhất. Lấy máu đầu ngón tay người bệnh lúc đói.
Bình thường ở người lớn, trong một mm3 máu có từ 3,7 – 4 triệu hồng cầu. Những thay đổi trong khoảng 400.000 là
những giới hạn của nhầm lẫn không có giá trị bệnh lý.
Dưới 3.500.000 hồng cầu, coi như thiếu máu. Trên 5.000.000 hồng cầu, coi như đa hồng cầu, một bệnh tiên phát hoặc
thứ phát sau các bệnh tiên thiên, thiếu oxy kinh diễn, ở trên cao.
1.2. Hình thái hồng cầu:
Băng phương pháp đàn máu và nhuộm May-Grun-Wald-Giemsa, bình thường hồng cầu tròn, màu hồng giữa hơi sáng
hơn.
Bệnh lý: trong một số bệnh thiếu máu, hồng cầu thay đổi, nhiều hình thể khác nhau (đa hình thể) như hình vợt, hình
dấu phẩy, hình quả lê.
1.3. Kích thước:
Đường kính trung bình của hồng cầu là 7 mm, dày 2 mm, thể tích là 88 mm3
Kích thước hồng cầu có thể thay đổi:
- Không đồng đều: hồng cầu to nhỏ khác nhau.
- Hồng cầu bé: d=4 -6 mm. thể tích dưới 80 mm3
- Hồng cầu to: d=9 – 12 mm, thể tích trên 100 mm.
- Hồng cầu đại: d > 12 mm.
- Hồng cầu bé bình bi: đường kính có giảm nhưng thể tích bình thường do hồng cầu hình cầu, dày lên.
1.4. Màu sắc:
Bình thường, hồng cầu trưởng thành nhuộm màu hồng bởi eosin (ưa axit). Trong máu ngoại vi, có một số hồng cầu
mạng lưới (chiếm 0.5 – 1.5% hồng cầu trưởng thành): khi nhuộm sống, hồng cầu chứa một mạng lưới không đồng
đều những hạt nhỏ.
Bệnh lý: trong một số bệnh thiếu máu, hồng cầu có thể đa sắc do nguyên sinh chất chứa những phần ưa axit, ưa
bazơ, hồng cầu lấm tấm chấm do chứa những hạt độc (hạt ưa bazơ) thường là do ngộ độc chì kinh diễn. Hồng cầu
mạng lưới tăng trong một số các bệnh thiếu máu còn hồi phục tốt, trong thiếu máu huyết tán.
1.5. Hồng cầu có hạt:
Bình thường không có trong máu ngoại vi. Chỉ có bệnh lý mới xuất hiện trong máu.
2. Huyết cầu tố (Hb).
2.1. Huyết cầu tố:
Theo quy ước, huyết cầu tố thường tính theo tỷ lệ % so với một người coi là bình thường (một người bệnh có n%
huyết cầu tố có nghĩa là trong 100ml máu của người bệnh chỉ có n% số lượng huyết cầu tố của 100ml máu người
thường). Thí dụ khi nói người bệnh có 80% huyết cầu tố nghĩa là số lượng huyết cầu tố trong 100ml của người bệnh
chỉ bằng 80% huyết cầu tố trong 100ml của một người coi là bình thường. Tỷ lệ 100% tương đương với 14,5 -15g
huyết cầu tố trong 100ml máu.
Kỹ thuật đo huyết tố cầu có nhiều:
- Phương pháp hoá học. Chính xác nhưng rất phức tạp. Người ta đo chất sắt trong chứa trong huýêt cầu tố và biết
rằng có 0,34g sắt trong 100g huyết cầu tố.
- Phương pháp quang học: so màu, ít chính xác, nhưng thông dụng. Kết quả tính theo % như trên.
- Tỷ lệ % huyết tố cầu đo bằng phương pháp quang học không cho ta những kết luận thực dụng vì chưa nói lên đườic
mối liên hệ với số lượng hồng cầu trên một người bệnh. Do đó người ta thường tính số lượng huyết cầu tố chứa trong
hồng cầu. Có nhiều cách tính, kết quả cũng giống nhau.
2.1.1. Tính giá trị hồng cầu:
Máu bình thường có 5 x 106 hồng cầu trong 1mm3 và Gg Hb (100%). Như vậy 1 hồng cầu chứa: [IMG]file:///C:/Users/
HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image001.gif[/IMG]
Tỷ lệ này gọi là giá trị hồng cầu và theo quy ước là 1.
2.1.2. Nếu máu người bệnh chứa n hồng cầu/mm3 và tỷ lệ huyết cầu tố là H% thì 1mm3 có
[IMG]file:///C:/Users/HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image003.gif[/IMG]
và lúc đó 1 hồng cầu có:
[IMG]file:///C:/Users/HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image005.gif[/IMG]
Giá trị hồng cầu của máu người bệnh sẽ là:
[IMG]file:///C:/Users/HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image007.gif[/IMG]
Thí dụ một người bệnh có 3 triệu hồng cầu và huyết cầu tố là 30% thì giá trị hồng cầu sẽ là:
[IMG]file:///C:/Users/HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image009.gif[/IMG]
Như vậy số lượng huyết cầu tố trong một hồng cầu của người bệnh chỉ bằng ½ số Hb trong một hồng cầu của người
bình thường.
2.1.3. Tính sức chứa Hb trung bình của một hồng cầu. Bình thường 1mm3 máu có:
[IMG]file:///C:/Users/HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image011.gif[/IMG]vậy 1 hồng cầu
chứa [IMG]file:///C:/Users/HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image013.gif[/IMG]
2.1.4. Tính nồng độ trung bình Hb của hồng cầu tức là tính số lượng Hb chứa trong 100ml hồng cầu. Bình thường
100ml máu có 14,5g Hb và có 44ml hồng cầu (hematocrit). Như vậy trong 100ml hồng cầu có:
[IMG]file:///C:/Users/HPDV20%7E1/AppData/Local/Temp/msohtml1/02/clip_image015.gif[/IMG]
Đối với một người bệnh, nồng độ trung bình tính theo công thức: NĐTB= Số Hb trong 100ml x 100 / Hematocrit.
2.2. Bệnh lý có thể thấy:
2.2.1. Hồng cầu nhược sắc:
- Thường giá trị hồng cầu bé hơn 1 hồng cầu người bệnh chứa ít huyết cầu tố hơn hồng cầu bình thường. Tuy nhiên
cần chú ý là sự giảm số lượng Hb này là do giảm thể tích của hồng cầu (hồng cầu bé) chứ không phải giảm nồng độ
trung bình về Hb của hồng cầu (nghĩa là hồng cầu vẫn bão hoà Hb như các hồng cầu bình thường).
- Hồng cầu nhược sắc thực sự: giảm nồng độ trung bình Hb của hồng cầu bất kỳ thể tích của hồng cầu to hay nhỏ.
Hiện tượng mắt bão hoà này là do thiếu chất sắt.
2.2.2. Hồng cầu ưu sắc:
Giá trị hồng cầu lớn hơn 1. hồng cầu người bệnh chứa nhiều HB hơn hồng cầu bình thường. Đó là do hồng cầu tăng
thể tích chứ không bao giờ có hiện tượng quá bão hoà huyết cầu tố trong một hồng cầu đườic. Do vậy ưu sắc thực sự
là không có.
2.2.3. Trong một vài bệnh về máu,
Ngoài loại huyết cầu tố bình thường là Hb A, người ta còn tìm được các loại huyết cầu tố bất bình thường như Hb E,
Hb S bằng phương pháp điện di huyết cầu tố.
3. Sức bền hồng cầu.
3.1. Bình thường:
Hồng cầu để trong một dung dịch nhược trương sẽ bị vỡ giải phóng huyết cầu tố: đó là hịện tượng tan máu toàn phần
hay hồng cầu rửa sạch huyết tương vào trong những dung dịch giảm dần nồng độ ion.
Kết quả: tan máu bắt đầu ở nồng độ 4,4 – 4,6% và tan hoàn toàn ở nồng độ 3,4%.
3.2. Bệnh lý.
- Sức bền hồng cầu tăng trong một số bệnh, đặc biệt trong vàng da tắc mật.
- Sức bền hồng cầu giảm, gặp trong một số bệnh nhân thiếu máu do tan máu thường hồng cầu bắt đầu tan ở nồng độ
60% và tan hoàn toàn ở 4%.
II. BẠCH CẦU.
1. Số lượng bạch cầu.
1.1. Bình thường trong 1mm3 máu có 4000 – 8000 bạch cầu.
Ở trẻ con, có thể 10.000. trẻ sơ sinh, lên đến 15.000.
1.2. Bệnh lý:
- Số lượng bạch cầu giảm xuống quá 4.000. gặp trong các bệnh nhiễm virut, thương hàn, cường lách, suy tuỷ.
- Số lượng bạch cầu tăng trong đa số các bệnh nhiễm khuẩn, các bệnh bạch cầu.
2. Công thức bạch cầu.
2.1. Bình thường, công thức bạch cầu như sau:
- Bạch cầu đa nhân trung tính. 55 - 70%
- Bạch cầu đa nhân ưa axit 2 – 4%
- Bạch cầu đa nhân ưa bazơ 0 – 1%
- Lâm ba cầu 12 – 33%
Gồm có: Lâm ba bé: 5 – 12%; Lâm ba lớn: 12 – 30%. Monoxit 4 – 8%
Ở trẻ con có 35% bạch cầu đa nhân, 60% lâm ba và 5% monoxit.
2.2. Bệnh lý:
Sự thay đổi công thức bạch cầu cho ta nhiều ý nghĩa quan trọng. Có hai loại thay đổi bệnh lý: thây đổi tỷ lệ các loại
bạch cầu và thay đổi hình thái các bạch cầu (xuất hiện các tế bào bất thường của bạch cầu), có các bạch cầu non…
2.2.1. Thay đổi tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính:
- Tăng: thường kèm theo tăng toàn bộ số lượng bạch cầu, gặp trong đa số các bệnh nhiễm khuẩn.
- Giảm: nếu có kèm thêm giảm số lượng bạch cầu, nghĩ đến su tuỷ.
2.2.2. Thay đổi tỷ lệ bạch cầu đa nhân ưa axit.
- Tăng: tăng nhất thời và tăng nhẹ trong một số bệnh nhiễm khuẩn ở giai đoạn cấp tính như bệnh tinh hồng nhiệt, múa
vờn.
Tăng kinh diễn trong các bệnh nhiễm ký sinh vật, các bệnh ngoài da, bệnh hen và một số bệnh dị ứng, bệnh Hodgkin,
bệnh bạch cầu thể tuỷ. Nhiều khi không tìm thấy nguyên nhân và có tính cách gia đình.
- Giảm: không có giá trị chẩn đoán. Thường gặp trong các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính và làm mủ.
2.2.3. Thay đổi tỷ lệ bạch cầu ưa bazơ:
Tăng trong một số bệnh ngoài da, đặc biệt tăng sau khi điều trị bằng quang tuyến các bệnh bạch cầu thể tuỷ, bệnh
Hodgkin.
2.2.4. Thay đổi tỷ lệ bạch cầu lymphô:
Thường tăng trong các bệnh kinh diễn như lao phổi. Tăng rất cao trong bệnh bạch cầu kinh thể tân.
2.2.5. Thay đổi tỷ lệ bạch cầu đơn nhân to:
Tăng trong các bệnh có tổn thương ở hệ thống tổ chức lên võng nội mạc: bệnh Hodgkin, viêm màng trong thu bán cấp
osler.
3. Tiểu cầu.
3.1. Bình thường có từ 150.000 đến 300.000 tiểu cầu trong 1mm3 máu người lớn. Trẻ con có độ 400.000.
3.2. Bệnh lý:
- Tăng: khi số lượng xuống dưới 80.000, gặp trong một số hội chứng chảy máu, (tiên phát hoặc hậu phát).
- Giảm: không có giá trị và ý nghĩa lâm sàng.
- Thay đổi về chất: có khi số lượng tiểu cầu vẫn bình thường, nhưng kích thước to. Độ tập trung kém.
Trong một số trường hợp bệnh lý, ta thấy cả hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu ở máu ngoại biên đều giảm: hội chứng
giảm toàn bộ huyết cầu.
XÉT NGHIỆM TUỶ
I. HÌNH THÁI HỌC TẾ BÀO.
Tuỷ xương sinh sản ra các tế bào thuộc ba dòng: hồng cầu, bạch cầu có hạt và tiểu cầu. Dòng bạch cầu đơn nhân to
có nguồn gốc tổ chức liên võng nội mạc. Các tế bào dòng này cũng có tạo thành trong tuỷ xương, nhưng chủ yếu là ở
lách và hạch.
1. Dòng hồng cầu.
Đi từ non đến già, ta có:
- Tiền hồng cầu non,
- Hồng cầu non ưa bazơ.
- Hồng cầu non đa sắc.
- Hồng cầu non ưa axit.
- Hồng cầu trưởng thành không nhân.
Giữa loại hồng cầu trưởng thành với hồng cầu non ưa axit có một loạt những loại hồng cầu còn di tích của nhân: hồng
cầu màng lưới thể Jolly, vòng Cabot.
2. Dòng bạch cầu có hạt.
Từ non đến giá:
- Tuỷ bào non.
- Tiền tuỷ bào.
- Tuỷ bào.
- Hậu tuỷ bào.
- Stab.
- Bạch cầu đa nhân (giống như bạch cầu ngoại vi, nhưng nhân ít có mùi hơn), loại ưa bazơ, ưa axit, trung tính.
3. Dòng tiểu cầu.
Theo đa số các tác giả, dòng này có:
- Mẫu tiểu cầu non.
- Tiền mẫu tiểu cầu.
- Mẫu tiểu cầu.
II. TUỶ ĐỒ.
Trong nhiều trường hợp xét nghiệm công thức máu ngoại biên không biết được tình trạng tổn thương của các tế bào
máu (như trong bệnh bạch cầu thể ẩn). Lúc đó phải lấy máu trong tuỷ xương (tuỷ đồ) để xem. Đa số là chọc ở trong
tủy xương chậu hoặc xương ức. Cũng có khi chọc ở xương chày hoặc nơi khác.
1. Kết quả bình thường.
Giới hạn sinh lý của tuỷ đồ rất thay đổi. Đây chỉ nêu một tuỷ đồ bình thường:
Dòng hồng cầu
Tiền hồng cầu non.
6
Hồng cầu non ưa bazơ.
Hồng cầu non ưa axit.
10
Hồng cầu bình sắc (già)
Dòng bạch cầu
Dòng tuỷ
Tuỷ bào non
2,5
Tiền tuỷ bào
1,5
Tuỷ bào trung tính
- Ưa Axit
- Ưa Bazơ
17,5
2,5
0
Hậu tuỷ bào trung tính
- Ưa Axit
- Ưa Bazơ
12
0,5
0
Bạch cầu đa trung tính
- Ưa Axit
- Ưa Bazơ
32,5
2
0,04
Dòng tân
Bạch cầu Lymphô
9,5
Bạch cầu đơn nhân to
2,5
Dòng một nhân
Tương bào và tế bào Turck
0,9
Dòng tiểu cầu
Mẫu tiểu cầu
0,06
Tỷ lệ: dòng bạch cầu có hạt/ Dòng hồng cầu = 3,4 – 4,5
2. Bệnh lý:
Có bốn trường hợp thay đổi bệnh lý:
2.1. Qúa sản:
còn gọi là phản ứng tuỷ xương) gặp trong các bệnh thiếu máu do mất máu cấp. Đặc biệt là quá sản dòng hồng cầu.
2.2. Qúa sản các tế bào ác tính:
Có thể là:
- Qúa sản tế bào ác tính dòng bạch cầu: các bệnh bạch cầu.
- Qúa sản tế bào ác tính dòng bạch cầu: bệnh Vaquez (érythremie).
- Qúa sản cả hai dòng: lúc đó gọi là bệnh hồng bạch cầu cấp (érythroleucemic).
2.3. Thiểu sản tuỷ:
Tế bào tuỷ rất nghèo nàn. Có thể thiểu sản một trong ba dòng hoặc cả ba dòng: hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu: bệnh
suy tuỷ.
2.4. Xuất hiện các hồng cầu khổng lồ (mégaloblaste):
Bình thường loại này không có trong tuỳ xương. Ngoài sự tăng thể tích rất lớn, người ta còn thấy trong hồng cầu này,
có sự thay đổi trong cấu trúc của tế bào.
Ngoài các xét nghiệm về công thức máu và tuỷ đồ, trong một số trường hợp người ta còn chọc hạch làm hạch đồ,
chọc lách làm lách đồ hay làm nghiệm pháp co lách. Những xét nghiệm này ít có tác dụng thực tế.
CÁC XÉT NGHIỆM VỀ ĐÔNG MÁU, CẦM MÁU.
Ta biết rằng hiện tượng máu cầm chảy là tổng hợp các quá trình sinh lý làm cho máu ngừng chảy. Có ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: giai đoạn thành mạch, có hiện tượng co mạch, làm hẹp chỗ đứt mạch.
Giai đoạn 2: giai đoạn tiểu cầu: tiểu cầu tập trung ở chỗ vết thương tạo thành một cái nút cầm máu. Nút này không bền
vững, dễ bị vỡ, gây chảy máu lại.
Giai đoạn 3: giai đoạn huyết tương. Fibrin tạo thành một lưới làm cho các tiểu cầu tập trung được vũng chắc. Do vậy,
sự hình thành cục máu đông nối liền với hiện tượng tạo thành chất Fibrin. Theo Bordet, sự tạo thành Fibrin có hai thì:
- Thì đầu: dưới tác dụng của Tromboplastin, với sự hiện diện của các protrombin trong huyết tương biến thành trombin.
- Thì hai: trombin tạo thành biến fibrinogen thành fibrin.
I. NGHIÊN CỨU GIAI ĐOẠN THÀNH MẠCH.
1. Đo sức bền của thành mạch.
Làm nghiệm pháp dây thắt, ống giác, kim châm (xem bài thiếu máu).
2. Đo thời gian máu chảy:
Thời gian này không những chỉ phát hiện yếu tố thành mạch, mà còn phát hiện cả yếu tố tiểu cầu.
Bình thường là 2-5 phút. Thời gian kéo dài: khi quá 15 phút máu còn chảy.
II. NGHIÊN CỨU GIAI ĐOẠN TIỂU CẦU.
1. Xét nghiệm tiểu cầu:
Số lượng, hình thể, độ tập trung (xem phần trên).
2. Đo thời gian đo cục huyết:
Bình thường từ 2- 4 giờ, trong ống nghiệm, cục huyết đo lại rõ rệt. Sau 8 giờ, thể tích cục cục huyết chỉ còn bằng 1/3
thể tích lúc đầu. Trong bệnh thiếu tiểu cầu, cục huyết không co lại được.
III. NGHIÊN CỨU GIAI ĐOẠN HUYẾT TƯƠNG.
1. Nghiên cứu sự đông máu toàn bộ:
1.1. Đo thời gian đông máu:
Bình thường từ 8-15 phút . trên 25 phút là bệnh lý rõ rệt. Từ 15 – 25 phút là nghi ngờ, cần làm lại hoặc theo dõi thêm.
1.2. Đo thời gian Howel (thời gian đông huyết tương).
Cho xitrat vào máu để chống đông (xitrat làm kết tủa Ca trong máu). Sau đó lại cho Ca vào chỗ huyết tương này. Thời
gian làm huyết tương đông lại là thời gian Howel. Bình thường từ 2-4 phút (xét nghiệm tiến hành ở nhiệt độ 370C. Kéo
dài trong bệnh máu không đông (hémophilie).
1.3. Nghiệm pháp chịu đựng heparin:
Để kiểm tra tình trạng máu dễ đông hay khó đông. Thường áp dụng trong các bệnh hay gây huyết khối như viêm tĩnh
mạch, nhồi máu cơ tim.
Phương pháp tiến hành theo Oulier: dựa trên nguyên tắc lấy huyết tương cho vào các dung dịch heparin – canxi ở
đậm độ khác nhau trong nhiều ống rồi tính thời gian Howel (thời gian đông huyết tương). Phải làm song song với huyết
tương người bình thường để làm chứng.
Kết quả: bình thường, huyết tương ở ống nghiệm thứ tư (có 2 đơn vị heparin) đông từ 8-15 phút. Nếu đông nhanh là
tình trạng dễ đông (đề phòng có huyết khối xảy ra).
2. Nghiên cứu từng yếu tố huyết tương trong đông máu.
1.1. Thời gian Quick.
Protrombin rất cần thiết cho việc đông máu để cấu tạo thành trombin. Hiện tại ta chưa định lượng được chất này, mà
chỉ biết giá trị của nó qua phương pháp tính thời gian quick.
Phương pháp này dựa trên nguyên tắc tính thời gian đông của huyết tương đã được kháng đông bằng Na xitrat hay
Oxalat, nay lại được đặt trong mỗi trường có Ca đồng thời có thừa Trombopplastin.
Kết quả: bình thường thời gian Quick là 12 giây với tỷ giá protrombin là 100% ( phải so sánh với một người được chọn
làm chứng).
Thời gian Quick dài và tỷ giá protrombin hạ trong các bệnh về gan: vàng da, xơ gan… do thiếu vitamin K và nhiễm độc
thuốc chống đông dicumarol.
1.2. Nghiệm pháp tiêu thụ protrombin:
Để đo gián tiếp lượng tromboplastin trong huyết tương.
Dực trên nguyên tắc: trong quá trình đông máu, toàn bộ số lượng trombinboplastin trong huyết tương được sử dụng
để chuyển một phần protrombin thành trombinb. Phần protrom còn lại gọi là protrombin cặn.bình thường tỷ lệ
protrombin cặn từ 10 đến 20% (như vậy là đã có từ 80 – 85% protrombin chuyển thành trombin dưới tác dụng của
tromboplastin). Khi tỷ lệ protrombin cặn tăng cao (có khi đến 60% - 80%) chứng tỏ là số lượng tromboplastin huyết
tương bị giảm sút.
Do vậy, qua nghiệm pháp tiêu thụ protrombin, ta tính được gián tiếp số lượng tromboplastin huyết tương.
1.3. Nghiệm pháp sinh tromboplastin.
Còn gọi là nghiệm pháp Biggs. Douglas. Nghiệm pháp cho biết trực tiếp số lượng tromboplastin và phân tích hệ thống
của chất này cùng các rối loạn của nó.
1.4. Định lượng fibrinogen.
Bình thường là 3-5g trong một lít huyết tương .
Dưới 3g có thể ảnh hưởng đến việc đông máu, gặp về các bệnh tổn thương tế bào gan.
1.5. Chi đàn tính máu đông thromboélastographie.
Đây là một xét nghiệm rất mới do Harter phát hiện, xét nghiệm cho bíết toàn bộ về quá trình đông máu để bổ sung
cácc xét nghiệm đã kể trên, nhưng không thể thay thế được biểu đồ đàn tính máu đông (thromboélastogramme) bình
thường biểu diễn với hình thức một âm thoa. Các hằng số chiều dài biểu hiện thời gian đông máu. Hằng số chiều dọc
hay còn gọi là biên độ cực đại cho biết hoạt động tiểu cầu – fibrinogen.
XÉT NGHIỆM MIỄN DỊCH HUYẾT HỌC.
Miễn dịch huyết học là sự nghiên cứu kháng nguyên ở trên các tế bào máu và các kháng thể phản ứng với các kháng
nguyên này.
Người ta dùng các phản ứng của miễn dịch huyết học để phát hiện các kháng thể có trong cơ thể . trong các loại
kháng thể với hồng cầu, ngưng kết tố là loại thường gặp nhất. Ở đây ta chỉ nghiên cứu loại kháng thể này.
Ngưng kết tố có hoàn toàn hay không hoàn toàn.
1. Ngưng kết tố hoàn toàn.
Bằng tiếp xúc đơn thuần, loại kháng thể này có thể trực tiếp làm ngưng kết các hồng cầu mang kháng nguyên tương
ứng bất kỳ trong môi trường pha loãng nào (môi trường muối cũng như môi trường keo).
2. Ngưng kết tố hoàn toàn:
Không có khả năng trực tiếp gây ngưng kết hồng cầu hồng mang kháng nguyên tương ứng ở trong môi trường muối.
Có nhiều nghiệm pháp để phát hiện hiện tượng này. Nghiệm pháp thường dùng là nghiệm pháp Coombs.
Nguyên tắc của nghiệm pháp Coombs.
Trong môi trường muối, ngưng kết tố không hoàn toàn bám vào các hồng cầu, nhưng không làm ngưng tụ chúng
( hồng cầu được “mặc” bởi các kháng thể này). Nhưng vì các ngưng kết tố là những globulin nên chúng tự ngưng kết
với nhau dưới tác dụng của một loại huyết thanh chống globulin điều chế từ huyết thanh thỏ vào môi trường, các
ngưng kết tố ngưng tụ kéo các hồng cầu ngưng tụ theo.
Có hai loại nghiệm pháp Coombs:
2.1. Nghiệm pháp Coombs trực tiếp:
Cốt để tìm các ngưng kết tố không hoàn toàn bám vào các hồng cầu.
Rửa sạch hồng cầu để loại bỏ huyết thanh. Cho hồng cầu rửa này vào dung dịch huyết thanh sinh lý. Sau đó cho thêm
huyết thanh chống globulin lấy từ thỏ. Nếu các hồng cầu rửa trên có ngưng kết tố không hoàn toàn bám vào bề mặt thì
sẽ bị ngưng kết (xem trên kính). Lúc đó là nghiệm pháp Coombs (+).
2.2. Nghiệm pháp Coombs gián tiếp:
Để phát hiện ngưng kết tố không hoàn toàn từ tự do trong huyết thanh.
Bước đầu, cho huyết thanh người bệnh tiếp xúc với hồng cầu người bình thường (cùng nhóm máu) trong 1 giờ ở
370C. nếu huyết thanh người bệnh có ngưng kết tố không hoàn toàn, nó sẽ bám vào hồng cầu người bình thường.