Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

PHÂN TÍCH và SO SÁNH QUAN điểm của mạnh tử, tuân tử về tính người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.76 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Tên đề tài:

PHÂN TÍCH VÀ SO SÁNH QUAN ĐIỂM CỦA
KHỔNG TỬ, MẠNH TỬ VÀ TUÂN TỬ VỀ TÍNH NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC CON NGƯỜI

Giảng viên hướng dẫn

: PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

Sinh viên thực hiện

: Hoàng Thị Vân An

Lớp

: Triết 8

Đã Nẵng - Tháng 01/2012


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................2
Phần I.........................................................................................................................................3
SO SÁNH QUAN NIỆM VỀ TÍNH NGƯỜI CỦA................................................................3
KHỔNG TỬ, MẠNH TỬ VÀ TUÂN TỬ...............................................................................3
I. Vài nét về Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử.......................................................................3
1. Khổng Tử........................................................................................................................3
2. Mạnh Tử..........................................................................................................................4
3. Tuân Tử...........................................................................................................................5
II. So sánh quan niệm về tính người của Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử...........................5
Phần II......................................................................................................................................11
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC CON NGƯỜI..................................................................11
Ý nghĩa đối với giáo dục con người......................................................................................11

Trang 1


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

LỜI MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên
thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử
trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái
nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn
minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến
nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho
giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân” (người), đứng

cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà nho, người đã đọc thấu
sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho mọi người sống hợp với luân
thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí
thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ
thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay
“Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó.
Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán
Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữ vị trí đó cho
đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á
là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam. Những người thực hành theo các
tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho. Nét đặc thù của triết học trung Quốc là
có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với
nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con
đường trị nước. Ngay từ khi Nho giáo xâm nhập vào Việt Nam, nó đã thích nghi và
phát triển mạnh mẽ, nó có ảnh hưởng đến xã hội đời sống Việt Nam rất sâu sắc, để
hiểu rỏ hơn những ảnh hưởng đó, đề tài “Vấn đề con người trong triết học Nho giáo và
ảnh hưởng của nó với xã hội Việt Nam” được thực hiện nhằm lầm rỏ hơn tính chất, nội
dung cũng như những ảnh hưởng sấu sắc của nó đến xã hội Việt Nam.
Nội dung đề tài tiểu luận gồm hai phần:
Phần I: Vấn đề Con người trong triết học Nho giáo.
Phần II: Ý nghĩa đối với giáo dục con người.
Trang 2


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An
Phần I

SO SÁNH QUAN NIỆM VỀ TÍNH NGƯỜI CỦA

KHỔNG TỬ, MẠNH TỬ VÀ TUÂN TỬ

I. Vài nét về Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử
1. Khổng Tử

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni sinh
ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân
Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình,
nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung
Quốc). Khổng Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội
nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ông
có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các
nền văn hóa Đông Á.
Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá
nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, bình thiên hạ",
sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung
Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Các giá trị đó đã có được tầm ảnh
hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong
suốt triều đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ
thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được xem là một tôn giáo lớn của
loài người, nhất là dân tộc Trung Hoa.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một
tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông
qua đời do các học trò của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho là
người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch,
Kinh Xuân Thu (Kinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên còn lại Ngũ Kinh).

Trang 3



GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

2. Mạnh Tử
Mạnh Tử (372–289 trước công nguyên; có một số tài liệu
khác ghi là: 385–303/302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc
và là người tiếp nối Khổng Tử.
Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua
Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay
là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Thời
niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng
Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu
sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc
của Nho giáo thời chiến quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng
lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia...(thời kỳ bách gia
tranh minh)và cũng là thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn
nhau gây ra các cuộc chiến tranh liên miên, dân tình vô cùng khổ sở . Tư tưởng của
Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ông không tuyệt đối hóa vai
trò của ông vua như Khổng Tử, ông chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra
đã là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của
Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người
lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ",
"Tín". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như
Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước
Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh
Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là
ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau
Khổng Tử).


Trang 4


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

3. Tuân Tử

Tuân Tử tên Huống , tự Khanh, cũng tự Tôn Khanh.
Đời Hán đặt tên sách của Tuân Tử là "Tôn Khanh Tử",
sang thời Đường mới đổi lại xưng hô "Tuân Tử". Tuân
Tử người nước Triệu, sanh vào năm nào không được rõ,
chỉ biết "Niên giám Tuân Tử", bắt đầu ghi chép sự tích
của Người từ năm Triệu Huệ Văn Vương nguyên niên,
tức 298 tr. KN. TL và mất vào năm thứ 25 Sở Khảo Liệt
Vương, tức 238 tr. CN. Đại để là, trước 40 tuổi, Tuân Tử
chuyên tâm về việc trau dồi học vấn, khoảng trước sau 50 tuổi đi du hành qua các
nước, từ 60 tuổi trở đi, những năm đầu làm huyện lệnh Lan Lăng của nước Sở, những
năm sau thì mở lớp dạy học, y như Khổng Tử, Mạnh Tử thuở trước. Vào những năm
cuối cùng, lúc tuổi về già, Tuân Tử mở trường tư thục dạy học và viết sách, sáng lập ra
học phái Lan Lăng, tạo dựng phong khí thư hương cho xứ này. Người đời sau hay hiểu
một cách tổng quát là, lúc về già, Khổng Tử cùng Mạnh Tử đều cáo lão về vườn, lập
ngôn và trước tác. Thật ra, bảo trọng Khổng - Mạnh lập ngôn là đúng, nhưng viết sách
vị tất đã đúng. Riêng Tuân Tử, trong thời gian ở Lan Lăng, chẳng những đã lập ngôn,
mà còn lập thư nữa. Ba mươi ba thiên trong cuốn sách mà Tuân Tử đã viết, là một bộ
tác phẩm, có hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh nhất của phái Nho học thời Chu - Lân.

II. So sánh quan niệm về tính người của Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử

Trung Quốc cổ đại là một vùng đất rộng lớn và đông dân. Trong suốt chiều dài
lịch sử, các nhà tư tưởng Trung Quốc thường quan tâm đến việc tìm kiếm đường lối tối
ưu để đảm bảo cho đất nước được ổn định, thống nhất, nhân dân được an cư lac
nghiệp. Vì vậy từ thời cổ đại, ở Trung Quốc đã xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng,
các quan niệm khác nhau và cũng gây nhiều cuộc tranh luận giữa các phái; trong đó
nổi bật là vấn đề về con người và xây dựng con người, cụ thể là quan niệm về tính
người mà tiêu biểu là Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử là ba đại diện tiêu biểu. Qua đó
để thấy được nét tương đồng và sự khác biệt giữa các tác giả khi đưa ra những quan
niệm khác nhau về tính người.
Trang 5


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

Như chúng ta đã biết phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử phát triển
về phía duy tâm tiên nghiệm, Tuân Tử phát triển về phía duy vật. Vấn đề xây dựng con
người trong các học phái triết học Trung Quốc cổ là coi trọng sự nỗ lực của cá nhân,
sự quan tâm của gia đình và xã hội. Thực ra sự tương đồng trong quan niệm tính người
của Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử đều thống nhất với nhau ở chỗ coi trọng sự giáo
hóa và đều nhằm phát triển cái thiện. Đồng thời muốn thiết lập một trật tự xã hội có
đẳng cấp, có tôn ti trật tự phải lấy Nhân Nghĩa, Lễ, Chính danh làm chuẩn mực.
Bên cạnh nét tương đồng thì trong quan niệm về tính người của Khổng Tử,
Mạnh Tử và Tuân Tử đã có sự khác biệt. Đáng chú ý là học thuyết “tính ác” của Tuân
Tử tương phản với học thuyết “tính thiện” của Mạnh Tử trên cơ sở những quan niệm
của Khổng Tử. Như vậy làm cho tư tưởng triết học Trung Hoa thêm phong phú và sâu
sắc, nói lên nhiều khía cạnh tồn tại trong mỗi con người.
Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người trong
đó các quan hệ như: vua – tôi, cha – con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Khi bàn về bản

tính con người, Khổng Tử cho rằng tính người sinh ra không hiền cũng không ác, bản
tính ban đầu là giống nhau, do xã hội tác động mà thay đổi. Theo ông, mục đích của
giáo dục là rèn luyện nhân tính:
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
(Hồ Chí Minh)
Người nhân cũng là người có trí, dũng. Khổng Tử nói: “Mình muốn lập thân thì
hãy giúp người khác lập thân. Mình muốn thành đạt thì hãy giúp người khác thành
đạt”. Người nhân biết thương người nhưng cũng biết ghét người. “Ghét kẻ bất nhân
cũng là nhân vậy”. Đồng thời khi bàn về bản tính con người, ông cho rằng: “tính mỗi
người đều gần nhau, do tập tành và thói quen mới hóa ra xa nhau” (Luận ngữ, Dương
Hóa, 2). Về cơ bản, tư tưởng của Khổng Tử là bảo thủ, muốn duy trì và phát triển chế
độ đẳng cấp tông pháp nhà Chu. Trung tâm học thuyết của ông là chữ Nhân. Gốc của
Nhân là “Hiếu, Đễ”. Trong quan niệm của Khổng Tử, Nhân gắn chặt với Lễ. Có thể
coi Lễ là phương thức giúp người ta đi được tới Nhân. Và ông là nhà giáo dục lớn, ông
cho rằng “tính người vốn gần nhau nhưng việc rèn luyện thì xa nhau” (Tính tương cận,
Trang 6


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

tập tương viễn). Ông nói: “Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí
thiện”. Từ quan điểm này, người ta suy luận tranh cãi đưa ra nhiều thuyết khác nhau.
Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử đã là gần hai thế kỷ. Mạnh Tử là đại diện xuất sắc
nhất của phái Nho học chính thống thời Chiến quốc và ông được tôn là “Á thánh” (bậc
thánh nhân thứ hai sau Khổng Tử). Về mặt tư tưởng triết học, luân lý, đạo đức, những
luận thuyết của Mạnh Tử xoay quanh các vấn đề tâm tính, thiên, mệnh và tính thiện.
Mạnh Tử quan niệm rằng, người ta sinh ra ở đời vốn đã mang sẵn bản tính lương thiện

(tính thiện). Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện. Tuy nhiên, lí giải về
bản tính này có nhiều cách khác nhau, đồng thời với Mạnh Tử có 3 quan điểm chính:
1. Tính tự nhiên của con người không thiện cũng không bất thiện.
2. Tính tự nhiên của con người có thể là thiện và cũng có thể là bất thiện.
3. Tính tự nhiên của con người có tính thiện, có tính bất thiện.
Mạnh Tử đã bác bỏ mọi quan niệm ấy, theo ông bản tính của con người là thiện,
nó là bản nguyên tinh thần vốn có của con người, do con người thiên lý, trời phú cho.
Theo Mạnh Tử, tính thiện tự nhiên ấy được biểu hiện ở bốn mặt là Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí. Sự khác nhau giữa con người với con vật, theo Mạnh Tử là ở chỗ trong mỗi con
người đều có phần quý trọng và phần bỉ tiện, có phần cao đại và phần thấp hèn, bé
nhỏ. Chính phần quý trọng cao đại mới là tính người, mới là cái khác giữa người và
cầm thú. Do đó ông khuyên mọi người nên coi trọng việc tu dưỡng nội tâm, bảo tồn
cái tính thiện để nó có thể phát triển “lương tri lương năng”, hoàn thiện phẩm chất tốt
đẹp (theo quan điểm Nho gia). Tính thiện ấy, theo Mạnh Tử “người quân tử thì giữ
được, kẻ thú dân thì bỏ mất” và “không giữ được thì chẳng khác nào loài cầm thú”.
Như vậy, quan niệm về tính thiện của Mạnh Tử cũng mang dấu ấn giai cấp và thời đại.
Mạnh Tử cũng đã giải thích thêm chữ Nghĩa, xác định Nghĩa là thích nghi, và chủ yếu
là thích nghi với Nhân. Ông coi Nhân là tâm của con người, Nghĩa là do đường đi của
người đời. Tính thiện của con người đều bắt nguồn từ cái “tâm” của mỗi con người.
Tâm là do trời phú cho ta, nhờ có tâm mà phân biệt điều phải trái, thiện ác. Vì vậy
sống phải có tâm, đi lại phải có đường, do đó dường như Nhân, Nghĩa của Nho gia gắn
bó với con người ở mọi lúc mọi nơi như bóng với hình. Thực ra thì Nhân, Nghĩa cũng
không phải là cái gì chung chung như vậy.
Trang 7


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An


Mạnh Tử lại quan niệm rằng, nguyên lý của muôn vật đều nằm trong ý thức của
chủ quan con người “mọi vật đều có đầy đủ trong ta” (vạn vật giai bị ư ngã). Không
phải tìm kiếm ở đâu xa xôi, chỉ cần phát huy bản năng đạo đức trong nội tâm (tận tâm)
là có thể thấu hiểu được bản tính của mọi sự vật ngoài ta (tri tinh). Đồng thời đã là
người ai cũng có trong người cái mầm thiện, đó là lòng trắc ẩn (thương xót), lòng tu ố
(thẹn, ghét), lòng từ nhượng (khiêm nhường), lòng thị phi (phải trái). Lòng trắc ẩn là
đầu mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ,
lòng thị phi là đầu mối của trí. “Đầu mối” ở đây có nghĩa là “gốc”. là “nguồn”. Vì vậy
ông khẳng định tính người vốn thiện, người ta sở dĩ có những hành vi bất thiện là do bị
“vật dục” che lấp không phát huy mạnh mẽ cái tính thiện trời cho. Nếu biết phát huy
các đầu mối ấy thì con người ngày càng mạnh, có đủ sức giữ gìn bốn biển.
Bản tính thiện của con người còn xuất phát từ cái chung của loài người, “phàm
những vật đồng loại đều mang một bản chất giống nhau. Tại sao đối với con người ta
lại nghi ngờ điều đó? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều là đông loại”.
Ý nghĩa tích cực “thuyết tính thiện” của Mạnh Tử là ở chỗ phát huy bốn đầu
mối, làm cho phần tốt trong con người ngày càng phát triển, còn phần xấu ngày càng
thu hẹp lại. Bên cạnh đó, tính thiện nhằm chứng minh trật tự xã hội và các giáo điều
đạo đức do giai cấp thống trị đương thời chế định ra là chân lý phổ biến, bền vững,
không thể thay đổi, bởi nó phù hợp với “đức tính bẩm sinh” của nhân loại.
Tuân Tử cũng là một học giả xuất sắc của phái Nho gia nhưng tư tưởng của ông có
nhiều chỗ khác với Khổng Tử và Mạnh Tử đặc biệt là ở tính người mà cụ thể là tính
ác. Theo Tuân Tử, bản tính đầu tiên của con người là ác. Chính vì vậy mà cần phải học
tập tu dưỡng, cần phải có Nhân, Nghĩa, Lễ để dẫn dắt làm cho con người trở thành
thiện. Ông cho rằng : “Nay cái tính của người ta sinh ra là hám lợi, thuận cái tính ấy
thì dẫn đến sự tranh đoạt mà sự nhường nhịn không có; sinh ra là có ghen ghét, thuận
cái tính ấy thì dẫn đến sự làm hại lẫn nhau mà lòng trung tín không có; sinh ra là muốn
thỏa mãn tai mắt, thích thân sắc, thuận cái tính của người ta thì sẽ sinh ra sự tranh
giành , hợp với việc xâm phạm loạn li mà thành ra tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có
phép để giáo hóa, có lễ nghĩa để dẫn dắt sau đố mới có nhường nhịn với đạo lý mà
thành ra trị. Qua đó thì cái chính của người ta rõ ràng là ác, còn cái thiện của tính là

người ta tạo nên”. Học thuyết “ tính ác” của ông tương phản với học thuyết “ tính
Trang 8


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

thiện” của Mạnh Tử. Tuân Tử cho rằng: theo đuổi tìm kiếm sự thỏa mãn những nhu
cầu dục vọng, sinh lý là bản tính của con người. Ông nói: “đói muốn no, rét muốn ấm,
mệt muốn nghỉ ngơi”. Đó là tính của con người. Ông lại nói: “người ta sinh ra vốn đã
có dục vọng: mắt thích đẹp, tai thích tiếng hay” (Tuân Tử - Tính ác). Theo ông nếu ai
cũng cứ theo cái bản tính ấy mà hành động thì xã hội tất sẽ diễn ra sự tranh giành,
cưỡng đoạt, và sẽ đi đến “bao loạn”. Vì vậy bản tính con người là “ác” coi những nhu
cầu về sinh lý như “ăn no, mặc ấm” là “cội nguồn và biểu hiện của tính ác của con
người”. Rõ ràng đây là một quan điểm sai lầm. Tuy nhiên trong quan niệm tính ác của
Tuân Tử cũng bao hàm nhân tố hợp lý. Ông cho rằng, hành vi đạo đức của người ta
không bắt nguồn từ bản tính của con người, mà do công phu rèn luyện mà có. Phẩm
chất của con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và là kết quả của sự giáo dục rèn
luyện, cải hóa từ ác thành thiện. Do vậy ông đề cao lễ trị. Ông cho rằng Lễ Nghĩa và
đẳng cấp trong xã hội là cần thiết để duy trì trật tự xã hội. Những luận điểm này, về cơ
bản là có tính duy vật. Vì vậy ông coi trọng, đề cao tinh thần tự tu thân.Trên đây là
những nét tương đồng và sự khác biệt quan niệm về tính người của Khổng Tử, Mạnh
Tử và Tuân Tử được đặt ra một cách thiết thực. Chính những quan điểm đó đã làm cho
tư tưởng triết học Trung Hoa thêm phong phú và sâu sắc, nói lên nhiều khía cạnh tồn
tại trong mỗi con người.
Nhận xét:
Từ những phân tích trên đây đã cho thấy vấn đề về tính người đã có những cách
hiểu khác nhau. Nhìn chung Nho gia hướng con người vào tu thân và thực hành đạo
đức là hoạt động căn bản nhất, luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.

Quan điểm về vũ trụ, về nhân sinh, về nhận thức luôn thấm đượm ý thức đạo đức. Tất
cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm chuẩn. Vì vậy vấn đề thiện và ác của con người
thành tiêu điểm tranh luận quan trọng nhất của lịch sử triết học Trung Quốc. Người
Trung Quốc trong lịch sử coi việc tu thân dưỡng tính cá nhân liên hệ mật thiết với
nhận thức thế giới khách quan, thậm chí coi tu thân dưỡng tính là cơ sở nhận thức thế
giới nhận thức.
Để cũng cố những mối quan hệ cơ bản trong xã hội, Nho gia đã nêu lên những
phẩm chất quan trọng bậc nhất mà mọi người phải đạt tới. Con đường phấn đấu là phải
ra sức tu dưỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình, góp phần vào việc quản lý
Trang 9


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

đất nước, sau đó đem lại yên vui cho thiên hạ. Quan niệm của Khổng Tử và các nhà
nho ra đời cách ngày nay khoảng 2500 năm, nhiều tư tưởng và quan niệm của họ đã
quá lỗi thời, nhiều nguyên tắc đề xuất không còn hiệu lực và không phù hợp với thời
đại ngày nay. Tuy nhiên trong các quan niệm về “tính thiện” và “tính ác” của các tác
giả cũng có những thành tố mang tính phổ biến, thậm chí đối với xã hội Đông Á có
tính lâu bền. Tôi nghĩ rằng nguyên tắc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của các
nhà Nho đến nay vẫn còn giá trị. Bên cạnh đó trong quan niệm về tính người đã đặt
con người trong năm mối quan hệ với những lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục
tiêu phấn đấu và nội dung tư tưởng của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự
góp phần củng cố trật tự xã hội, nó là sản phẩm của xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ.

Trang 10



GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An
Phần II

Ý NGHĨA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC CON NGƯỜI

Ý nghĩa đối với giáo dục con người:
Từ những phân tích trên đây đã cho thấy vấn đề về tính người đã có những cách
hiểu khác nhau. Nhìn chung Nho gia hướng con người vào tu thân và thực hành đạo
đức là hoạt động căn bản nhất, luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội.
Quan điểm về vũ trụ, về nhân sinh, về nhận thức luôn thấm đượm ý thức đạo đức. Tất
cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm chuẩn. Vì vậy vấn đề thiện và ác của con người
thành tiêu điểm tranh luận quan trọng nhất của lịch sử triết học Trung Quốc. Người
Trung Quốc trong lịch sử coi việc tu thân dưỡng tính cá nhân liên hệ mật thiết với
nhận thức thế giới khách quan, thậm chí coi tu thân dưỡng tính là cơ sở nhận thức thế
giới nhận thức.
Ngay từ thế kỷ thứ V - VI Tr.CN, Khổng Tử đã cho rằng giáo dục - đào tạo có thể
hướng con người tới chỗ hoàn thiện. Ông đã xem giáo dục là nền tảng của đời sống
đạo đức, kinh tế, chính trị, xã hội. Khổng Tử, người sáng lập ra phái Nho gia dựa trên
cơ sở học thuyết về đức “trung hòa”, “trung dung” là đạo của trời đất và học thuyết về
bản tính “nhân nghĩa” của đạo làm người, Khổng Tử chủ trương trị nước bằng phương
pháp “đức trị” và đề cao việc “giáo hóa con người” làm phương thế để ổn định trật tự
xã hội và tiến tới xây dựng một xã hội lý tưởng, thái bình thịnh trị.
Khổng Tử cho rằng nhân cách con người được hình thành không chỉ thuần túy
bởi điều kiện môi trường sống mà còn do điều kiện giáo dục quyết định, với mỗi người
các đức tính như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng cần phải được học tập, rèn luyện thì mới
phát triển đúng hướng và mới có thể vận dụng vào trong cuộc sống. Đối với một dân
tộc, theo ông giáo dục là nhân tố không thể thiếu được, một dân tộc dốt không thể
mạnh được. Khổng Tử đã nhận ra rằng: “Giáo dục, phát triển trí đức là chìa khóa để

phát triển kinh tế, đồng thời phát triển kinh tế là cơ sở cho phát triển giáo dục và dân
trí”. Và Khổng Tử cũng cho rằng giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi lẽ
công bằng, đến tôn ti trật tự, đến thái độ của mỗi người đối với cuộc sống cộng đồng.
Ông thấy được giáo dục không chỉ có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân
Trang 11


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

cách của mỗi cá nhân mà còn quyết định đến vận mệnh và tương lai của cả một dân
tộc, vì vậy Khổng Tử đã chủ trương đề cao giáo dục đào tạo con người.
Khi đề cao vai trò của giáo dục, Khổng Tử cũng đã bộc lộ rõ mục đích giáo dục
là đào tạo ra lớp người quân tử có đủ phẩm chất và năng lực để nhận chức của triều
đình, trung thành phục vụ chế độ và làm lực lượng nòng cốt để ổn định và cải biến xã
hội, hướng tới xây dựng xã hội lý tưởng.
Khi xác định mục đích giáo dục, đồng thời Khổng Tử cũng cho thấy rõ quan
điểm của ông về đối tượng giáo dục. Khổng Tử chỉ quan tâm giáo dục một lớp đối
tượng mà ông hy vọng có thể làm nòng cốt cho xã hội chứ không phải là toàn thể nhân
dân lao động. Ở đây Khổng Tử đã có sự mâu thuẫn với chính mình, một mặt với tư
tưởng tiến bộ và trái tim nhân hậu mong muốn đưa mọi người trở về với đức nhân
bằng việc giáo hóa đạo đức nên ông chủ trương: “hữu giáo vô loại”, ai cũng được học
và có quyền được học, ông chủ trương mở rộng giáo dục, bình dân hóa giáo dục.
Giáo dục con người theo Khổng Tử là dạy học “đạo lý”, để tạo ra con người có
đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, hiếu bằng văn chương và lục nghệ. Ông không dạy
mọi người về những vấn đề như quái dị, bạo lực, phản loạn và mê tín quỉ thần. Ông
cho rằng: “chuyên tâm nghiên cứu những học thuyết hoang đường, sự ấy có hại cho
mình vậy - Công hồ dị đoan, tứ hại giã dĩ”
Để đào tạo ra những con người lý tưởng, Khổng Tử đã đề xuất một hệ thống

phương pháp giáo dục khá chặt chẽ, với những kiến giải sâu sắc. Có thể nói với hệ
thống phương pháp giáo dục này Khổng Tử xứng đáng là một nhà giáo dục lớn.
Khổng Tử đã sử dụng nhiều phương pháp dạy học rất độc đáo, có thể khái quát lại
gồm:
Một là: Phương pháp đối thoại gợi mở, là phương pháp giảng dạy bằng cách trao
đổi giữa thầy và trò, giữa người dạy và người học nhằm phát huy tính năng động, sáng
tạo và khoa học, khả năng tư duy của người học. Ông nói: “Kẻ nào chẳng phấn phát
lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào chẳng ráng lên để tỏ
ý kiến mình, thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ nào đã biết rõ một góc, nhưng chẳng
chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia, thì ta chẳng dạy kẻ ấy nữa - Bất phẫn, bất
khải; bất phỉ, bất phát. Cử nhứt ngung, bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục giã.”
Trang 12


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

Hai là: Phương pháp kết hợp học đi đôi với hành, lời nói kết hợp với việc làm, là
thực hành điều đã học và đem tri thức của mình vận dụng vào trong cuộc sống. Ông
nói: “Người quân tử trước học văn chương (như Kinh Thi, Kinh Thư) đặng mở rộng trí
thức của mình; kế đó, người nương theo lễ giáo mà kiềm giữ lấy nết mình; nhờ vậy mà
khỏi trái đạo lý. - Quân tử bác học ư văn; ước chi dĩ lễ; diệc khả dĩ phất bạn hỹ phù”.
Ba là: Phương pháp “ôn cũ biết mới”, thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và học
tập. Ông thường nhắc rằng: “Người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết
thêm những điều mới, người đó có thể làm thầy thiên hạ đó - Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ
vi sư hỹ”. Theo Khổng Tử, muốn tiến bộ người học phải luôn cố gắng nỗ lực, siêng
năng trau dồi tri thức cho mình, phải luôn có thái độ cầu tiến, vượt lên. Người học nhất
định phải có thái độ khách quan trong học tập, không được vị kỷ tư dục, võ đoán, cố
chấp, tự phụ chủ quan - “vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã”.

Khổng Tử đã đưa ra hệ thống các phương pháp giáo dục, phát huy tính năng
động, tích cực và sáng tạo của người học. Những phương pháp đó đến nay vẫn có ý
nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả cao trong giáo dục. Khổng Tử cũng xác định, trong
nền giáo dục cần phải đào tạo ra lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội và trung thành
với chế độ xã hội ấy. Muốn thực hiện tốt chiến lược giáo dục đào tạo con người thì cần
phải nhận thức đúng và giải quyết đúng mối quan hệ giữa các mục tiêu nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Việc xã hội hóa giáo dục, mở rộng giáo
dục phải đi đôi với việc chú trọng và bồi dưỡng nhân tài, vì nhân tài là lực lượng quan
trọng, giữ vị trí then chốt và là chỗ dựa để thực hiện chiến lược phát triển đất nước.
Đồng thời cũng cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đức và tài, giữa “tiên học lễ,
hậu học văn”. Nhờ đó giáo dục mới có thể thực hiện được sứ mệnh quan trọng của
mình là đào tạo ra đội ngũ những người lao động, những người trí thức mới, có đạo
đức công dân tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có bản lĩnh chính trị và lòng
trung thành.
Còn Mạnh Tử và Tuân Tử đều là bậc thầy của Nho giáo thời Chiến quốc, dù có
những đánh giá đối lập nhau về tính con người nhưng cũng đều thống nhất như Khổng
Tử rằng môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng
vai trò quyết định cho bản tính của con người trong tương lai.
Trang 13


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng

SVTH: Hoàng Thị Vân An

Thật ra, đánh giá khác nhau về bản chất con người của hai ông không có gì mâu
thuẫn. Tuân Tử nhìn theo hướng tiến hóa của vạn vật, cho rằng con người là một loài
động vật trong thế giới sinh học nên theo nguồn gốc ban đầu vốn dữ tính, muốn thành
người có lý trí thì phải được giáo dục. Mạnh Tử nhìn con người từ khía cạnh xã hội
học, cho rằng con người được sinh ra trong cộng đồng, có tình thương của cha mẹ, anh

em, bè bạn nên bản tính ban đầu lương thiện, nhưng khi tiếp xúc, học tập trong các
điều kiện xã hội khác nhau thì tính tình ắt sẽ khác nhau. Từ đó có thể thấy từ xưa đến
nay, mọi thế hệ nhân loại đều khẳng định vai trò vô cùng to lớn của giáo dục đối với
con người.
Tóm lại, để cũng cố những mối quan hệ cơ bản trong xã hội, Nho gia đã nêu lên
những phẩm chất quan trọng bậc nhất mà mọi người phải đạt tới. Con đường phấn đấu
là phải ra sức tu dưỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình, góp phần vào việc
quản lý đất nước, sau đó đem lại yên vui cho thiên hạ. Quan niệm của Khổng Tử và
các nhà nho ra đời cách ngày nay khoảng 2500 năm, nhiều tư tưởng và quan niệm của
họ đã lỗi thời, một số nguyên tắc đề xuất không còn hiệu lực và không phù hợp với
thời đại ngày nay. Tuy nhiên trong các quan niệm về “tính thiện” và “tính ác” của các
tác giả cũng có những thành tố mang tính phổ biến, thậm chí đối với xã hội Đông Á có
tính lâu bền. Và cả nguyên tắc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của các nhà
Nho đến nay vẫn còn giá trị. Bên cạnh đó trong quan niệm về tính người đã đặt con
người trong năm mối quan hệ với những lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu
phấn đấu và nội dung tư tưởng của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp
phần củng cố trật tự xã hội, nó là sản phẩm của xã hội Trung Hoa lúc bấy.
Kết luận:
Tư tưởng nhân của Khổng Tử, Tuân Tử và Mạnh Tử là những khuôn thước để
hoàn thiện con người, lành mạnh hóa xã hội và ổn định cuộc sống. Trong bất cứ lĩnh
vực nào của đời sống xã hội, con người bao giờ cũng là nhân tố đầu tiên. Tư tưởng
nhân của Khổng Tử về thương người, hoàn thiện tự thân; về lễ, nghĩa, trí rất cần cho
xã hội ngày nay, khi mà đạo đức ngày càng xuống cấp.
Quan điểm tồn tâm, dưỡng tánh của Mạnh Tử cũng rất cần thiết cho mỗi con
người trong xã hội qúa ư bận rộn ngày nay.
Trang 14


GVHD:PGS.TS Nguyễn Tấn Hùng


SVTH: Hoàng Thị Vân An

Phương pháp giáo dục con người theo hướng gợi ý là tư tưởng rất tiến bộ, rất phù
hợp với giáo dục ngày nay.
Về chính trị, tư tưởng lấy dân làm gốc là tư tưởng tiến bộ mà mọi thể chế chính
trị nhân bản phải tuân theo.
Tuy nhiên, cũng như bất cứ học thuyết nào, tư tưởng nhân của Khổng Tử và
Mạnh Tử vẫn có những hạn chế.
Một mặt Khổng Tử đề cao giáo dục, nhưng mặt khác lại tin vào mệnh trời. Việc
ông cho tiểu nhân là người học để phục vụ cho giai cấp cầm quyền chứng tỏ ông còn
nặng chế độ đẳng cấp. Đề cập đến nhân, mỗi chỗ ông trả lời một khác, rốt cuộc tư
tưởng nhân của ông không biết phải dựa vào câu nào cho đúng nhất mà chi có thể tổng
hợp nhiều câu và thông qua lễ, nghĩa, trí mới có thể hiểu được. Song có người cho là,
tùy theo từng tình huống, sự kiện và hoàn cảnh mà Khổng Tử phương tiện nói ra tư
tưởng nhân cho phù hợp để việc ứng dụng đạt kết quả. Thực chất đây là phương pháp
giáo dục tùy duyên của Khổng Tử.
Với Mạnh Tử, hạn chế của ông là tất cả đều tin vào mệnh trời, nhiều khi làm cho
con người ỷ lại, không lo hoàn thiện chính mình. Lý luận về nhận thức tâm, tính, chí,
khí của ông có tính chất tiên nghiệm.

Trang 15



×