Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Danh ngôn Anh - Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.81 KB, 50 trang )

Danh ngôn: Tình bạn


1. Your friend is the man who knows all about you, and still likes you.
Bạn của anh là người biết tất cả về anh mà vẫn thích anh.
-- Elbert Hubbard

2.
Who finds a faithful friend, finds a treasure.
Tìm được một người bạn chân thành là tìm được một kho tàng.
(Jewish saying)

3.
Frienship ísingle soul dwelling in two bodies.
Tình bạn là một tâm hồn ngự trong hai thể xác.
-- Aristotle

4.
Some people come into our lives and quickly go. Some stay for awhile
and leave footprints on our hearts. And we are never, ever the same.
Có người đến trong đời ta rồi đi qua mau. Có một vài người dừng lại,
và để lại dấu trong tim ta. Và sau đó ta không bao giờ giống như
trước nữa.
-- Vô danh

5.
"Friendship needs no words..."
Tình bằng hữu không cần lời ...
-- Dag Hammarskjold.

6.


A friend hears the song in my heart and sings it to me when my
memory fails
Bạn là người nghe được bài ca trong tim tôi, và hát lại cho tôi nghe,
khi trí nhớ của tôi đã lụt.
.-- Vô danh

7.
Count your age with friends but not with years
Nên tính tuổi bằng số bạn, không nên tính bằng năm.
-- Vô danh

8.
"My friend is he who will tell me my faults in private."
Bạn là người nói riêng cho tôi biết các lỗi lầm của tôi.
-- Solomon Ibn Gabirol

9.
"There can be no Friendship where there is no Freedom."
Không thể có tình bạn ở những nơi không có tự do.
-- William Penn

10.
A single rose can be my garden... a single friend, my world.Chỉ một
cánh hồng cũng đủ là một khu vườn cho tôi, ... một người bạn, là thế
giới của tôi.
-- Leo Buscaglia

11.
When it hurts to look back, and you're scared to look ahead, you can
look beside you and your best friend will be there .

Khi ngoái lại sau là cực hình và ta không dám ngó về phía trước, ta
vẫn có thể nhìn bên cạnh ta, và người bạn tốt nhất của ta sẽ có mặt
ở đó.
If you think that the world means nothing, think again. You might
mean the world to someone else.
Khi thế giới đối với bạn không còn ý nghĩa gì nữa, nên suy nghĩ lại.
Có thể bạn là cả một thế giới dối với một người nào đó.
Sometimes we expect far too much of the people around us, and
because no one can ever live up to those expectations, we are almost
always disappointed.
Ðôi khi chúng ta đòi hỏi quá nhiều nơi những người quanh ta, và vì
không ai có thể đáp ứng đầy đủ với các đòi hỏi đó, ta thường hay bị
thất vọng.

12.
It's much better for our friends and for ourselves if we drop our
expectations and illusions, and accept them all just the way they are.
Thật tốt hơn cho bạn hữu và cho chính chính ta, nếu ta bỏ hết các đòi
hỏi và ảo tưởng, mà chấp nhận bạn hữu đúng theo bản chất của họ.

13.
Whether we realize it or not, everyone we know is very special to us.
Ta có thể nhận biết được hay không, nhưng tất cả những người mà ta
quen biết đều hết sức đặc biệt đối với ta.

14.
Friendship is born at that moment when one person says to another:
"What! You, too? Thought I was the only one."
Tình bạn nảy sinh ngay khi người này nói với người kia : "Ủa ! bạn
cũng vậy sao ? Tôi tưởng chỉ có mình tôi mới như thế."

-- C. S. Lewis
15.
Truth springs from argument amongst friends. .
Từ những tranh luận giữa bằng hữu mà nảy sinh ra sự thật.
-- David Hume

16.
We are all travelers in the wilderness of the world, and the best that
we can find in our travels is an honest friend.
Chúng ta đều là những người lữ hành trong sự hoang dã của thế giới,
và điều tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể tìm được trong các chuyến đi
này là một người bạn chân chính.
-- Robert L. Stevenson..
17. Une amitié peut naître sur la terre la plus aride et la plus improbable.
Một tình bạn có thể nảy sinh ra từ mảnh đất khô cằn và không chắc
chắn nhất .
(Maeve Binchy) .
18. L'amitié est une forme d'égalité comparable à la justice. Chacun rend
à l'autre des bienfaits semblables à ceux qu'il a reçus.
Tình bạn là một hình thức công bằng có thể so sánh với công lý. Họ
hoàn trả cho bạn họ tất cả những lợi ích mà họ đã nhận được từ bạn
họ
(Aristote).

19. La littérature ne console guère. Elle donne juste la douce illusion de l'amitié ressuscitée.
Văn chương không an ủi chút nào hết mà chỉ cho cáo ảo tưởng của
tình bạn được khơi lại.
(Christian Authier).
20. La grande différence entre l'amour et l'amitié, c'est qu'il ne peut y
avoir d'amitié sans réciprocité.

Sự khác biệt lớn giữa tình yêu và tình bạn, là không thể có tình bạn
một chiều
(Michel Tournier).
21. Vieille amitié ne craint pas la rouille.
Tình bạn lâu dài không sợ rỉ sét
(Proverbe français).
22. Le premier mérite qu'il faut chercher dans votre ami, c'est la vertu,
c'est ce qui nous assure qu'il est capable d'amitié, et qu'il en est
digne. N'espérez rien de vos liaisons lorsqu'elles n'ont pas ce
fondement.
Giá trị hàng đầu phải tìm nơi bạn ta, là đức hạnh, chính đức tính này
bảo đảm là người đó có thể làm bạn với ta và xứng đáng với tình
bạn . Đừng hy vọng gì ở các sự quan hệ khác nếu những mối quan hệ
đó không có nền tảng trên
(Madame de Lambert).
23. Nous ne pouvons rien aimer que par rapport à nous, et nous ne
faisons que suivre notre goût et notre plaisir quand nous préférons
nos amis à nous-mêmes; c'est néanmoins par cette préférence seule
que l'amitié peut être parfaite.
Ta chỉ có thể yêu thích một cái gì đó theo ý ta mà thôi, và ta chỉ theo
sở thích và sự vui thích của ta khi ta thích bạn ta hơn ta; chính cái sự
ưu tiên đó mới làm cho tình bạn được hoàn hảo
(La Rochefoucauld) .
24. L'amitié n'était-elle pas une forme de la musique ?
Tình bạn phải chăng là một dạng của âm nhạc
(Erik Orsenna).
25. Nous perdons toujours l'amitié de ceux qui perdent notre
estime.
Ta luôn luôn mất tình bạn vói những người ta mất lòng quý mến
(Joseph Joubert).

26. À chacun sa vie : c'est le secret de l'amitié. (Daniel Pennac).
Mỗi người một cuộc sống : đó chính là bí quyết của tình bạn
L'amitié se nourrit de communication.
Tình bạn được nuôi dưỡng bằng sự liên lạc trao đổi nhau.
(Montaigne).
27. La politique dénature et ruine l'amitié.
Chính trị làm biến tính và hủy hoại tình bạn
(Tahar Ben Jelloun).
28. Le temps est le meilleur bâtisseur de l'amitié. Il est aussi son
témoin et sa conscience. Les chemins se séparent, puis se croisent.
Thời gian là yếu tố xây dựng tình bạn tốt nhất và cũng là chứng nhân
và lương tâm của tình bạn. Những con đường tách rời ra rồi lại giao
nhau.
(Tahar Ben Jelloun).
29. L'amitié est une vertu démocratique et républicaine.
Tình bạn là đạo đức dân chủ và cộng hòa
(Francesco Alberoni) .
30. L'amitié peut se passer longtemps de preuves.Il y a toujours un peu
de vide dans les amitiés les plus pleines, comme dans les oeufs.
Tình bạn có thể không cần chứng cớ trong thời gian dài. Luôn luôn có
một khoảng trống nhỏ trong những tình bạn đầy đủ nhất, như trong
cái trứng vậy.
(Jules Renard).
31. Il ne faut pas confondre amitié et besoin de confidences.
Không nên lẫn lộn giữa tình bạn và nhu cầu tâm sự
(Erik Orsenna) .
32. L'amitié est le seul sentiment plus fort que l'amour, même s'il ressemble à l'amour
dépouillé de l'attirance physique.
Tình bạn là tình càm duy nhất mạnh hơn tình yêu, dẫu rằng nó giống với tình yêu thiếu
sự lôi cuốn vật chất.

(Nicolas Hulot).
33.
Amitié vaut plus que parenté.
Tình bạn có giá trị hơn bà con họ hàng
(Proverbe corse).
34. Dans la vie politique, on ne se fait pas, on ne se crée pas de véritables amitiés. On a
quelques bons compagnons.
Trong đời sống chính trị, ta không có, ta không tạo ra tình bạn thực thụ. Ta có vài bạn
đồng hành tốt
(François Mitterrand).
35. Avec une femme, l'amitié ne peut être que le clair de lune de
l'amour.
Với một người đàn bà, tình bạn chỉ là ánh trăng của tình yêu
(Jules Renard).
36. L'amitié diminue lorsqu'il y a trop de bonheur d'un côté et trop
de malheur de l'autre.
Tình bạn giảm khi (người này) một bên có quá nhiều hạnh phúc và
(người) bên kia thì quá nhiều bất hạnh
(Carmen Sylva).
37. L'admiration se passe de l'amitié. Elle se suffit à elle-même.
Lòng khâm phục không cần tình bạn. Một mình nó cũng đủ.
(Jules Renard).
38. Les blessures d'amitié sont inconsolables.
Những xúc phạm tình bạn không thể khuây khỏa được
(Tahar Ben Jelloun).
39. L'amitié entre une femme et un homme s'arrête au seuil de la
chambre.
Tình bạn giữa một người đàn bà và một người đàn ông ngừng lại tại
ngưỡng cửa phòng ngủ
(Grégoire Lacroix).

40. La véritable amitié ne gèle pas en hiver.
Tình bạn thực thụ không đông cứng vào mùa Đông
(Proverbe allemand) .
41. En amour on est un contre un, en amitié nous sommes deux.
Trong tình yêu, một chọi một; trong tình bạn, ta là hai
(Nicolas Hulot).
42. C'est ce que les hommes aiment ensemble qui fait l'amitié.
Chính cái mà người ta thích cùng với nhau, tạo ra tình bạn
(Nicolas Hulot).
43. Les amitiés d'enfance résistent parfois au temps, jamais à la distance.
Tình bạn thời niên thiếu có khi chịu đựng được với thời gian, không bao giờ với
khoảng cách
(Fatou Diome).
44. L'amitié n'a de sens que si elle prête à se prouver par un sacrifice.
Tình bạn chỉ có nghĩa khi nó có thể chứng tỏ bằng một sự hy sinh.
(Sully Prudhomme).
45. L'amitié, c'est d'abord être lâche : il faut fermer sa gueule sans cesse.
Tình bạn, trước tiên là hèn nhát : phải câm miệng luôn luôn.
(Maurice Pialat).
46. Les amitiés les plus sincères sont souvent celles que l'on ne
soupçonne pas.
Những tình bạn chân thật nhất thường là những tình bạn mà ta không
ngờ đến.
(Vincent Gury).

47. En amitié, on progresse, en amour, on décroît.
Ta thăng tiến trong tình bạn, và giảm dần trong tình yêu.
(Jules Renard).
48. Entre un homme et une femme, l'amitié ne peut être que la passerelle qui mène à
l'amour.

Giữa một người đàn ông và một người đàn bà, tình bạn chỉ có thể là
nhịp cầu dẫn đến tình yêu.
(Jules Renard) .
49. Les vieilles amitiés s'improvisent.
Tình bạn lâu dài ngẫu nhiên mà thành
(Georges Courteline) .

50. En amitié, quand on s'est confié ses secrets d'argent, ça tourne
mal.
Khi người ta thố lộ những bí mật về tiền bạc trong tình bạn, mọi sự
sẽ xấu đi.
(Jules Renard).
51. Amitié : mariage de deux êtres qui ne peuvent pas coucher ensemble
Tình bạn là sự phối hợp của hai người không ngủ chung với nhau
được.
(Jules Renard) .

52. L'avantage des amitiés platoniques, c'est qu'elles ne vous
deçoivent jamais.
Tình bạn tinh khiết có cái lợi là không bao giờ làm cho ta thất vọng.
(David E. Kelley).
53. Une fausse amitié est comme un banc de sable (mouvant ?).
Tình bạn giả dối giống như một bãi cát lún. (tiếng miền Nam : sình đất võng)
(Proverbe indien).

54. La véritable amitié commence quand les silences ne pèsent
plus.
Tình bạn chân thật bắt đầu khi những lúc yên lặng không làm ta cảm
thấy nặng nề.
(Romain Werlen).

55. Offrir l'amitié à qui veut l'amour, c'est donner du pain à qui meurt de
soif.
Ðem tình bạn cho một người đang cần tình yêu, là đem bánh mì cho
một kẻ đang chết khát.
(Proverbe espagnol) .
56. L'amitié naît quant une personne dit à une autre "Quoi ! Vous
aussi ? Je croyais que j'étais le seul".
Tình bạn nảy sinh khi người này nói với người kia "Sao! bạn cũng vậy
sao ? Tôi cứ ngỡ là chỉ có độc một mình tôi."
(C.S. Lewis).
57. Mieux vaut perdre un peu d'argent qu'un peu d'amitié.
Thà mất ít tiền còn hơn mất một chút tình bạn.
(Proverbe malgache).
58. Une vie sans amour humain peut se concevoir - par exemple
chez les religieux et les prêtres... traditionnels. Une vie sans amitié
serait horriblement désertique.
Đời không tình yêu có thể hình dung được- thí dụ như nơi các nhà tu
hay tu sĩ ... theo truyền thống. Đời không tình bạn sẽ trống vắng
kinh khủng..
(Paul Guimard).
59. Une haie de séparation garde verte l'amitié.
Một hàng rào ngăn cách sẽ giữ tình bạn xanh tươi.
(Proverbe allemand).
60. N'empruntez rien de votre ami, si vous souhaitez que son amitié continue.
Không nên mượn bất cứ gì của bạn mình, nếu muốn giữ tình bạn bền lâu.
(Proverbe oriental).
61. Le respect est le lien de l'amitié.
Sự kính trọng lẫn nhau là giềng mối của tình bạn.
(Proverbe oriental) .
62. Si nos amis nous rendent des services, nous pensons qu'à titre d'amis ils nous les

doivent, et nous ne pensons pas du tout qu'ils ne nous doivent pas leur amitié.
Khi bạn bè giúp ta một vài điều nào đó, ta có thể nghĩ là vì họ là bạn
nên họ phải giúp ta. Và ta toàn toàn không nghĩ là họ chẳng cần gì
đến tình bạn của ta cả
(Vauvenargues).
63. Les amis sont les anges qui nous soulèvent quand nos ailes
n'arrivent plus à se rappeller comment voler.
Bạn hữu là những thiên thần nâng đỡ ta khi ta quên không biết vỗ
cánh thế nào để bay lên.
64. Si vous connaissez un ami qui ne vous accepte pas tel que vous êtes, c'est qu'il n'est pas
votre ami.
Nếu ta quen với một người mà họ không chấp nhận con người thật của ta thì họ không
phải là bạn ta..
65. L'amitié authentique est un trésor de très grande valeur qui ne peut absolument pas se
trouver le long des routes par hasard.
Tình bạn chân thật là một kho tàng quí giá mà ta không thể nào ngẫu nhiên tìm thấy dọc
đường..
66. L'amitié est le sel de la vie.
Tình bạn là gia vị của cuộc đời.
67. Un ami, c'est comme un gâteau au chocolat, dur au coeur tendre.
Một người bạn giống như một cái bánh sô cô la : bên ngoài cứng, bên trong mềm.
68. Il arrive que la route de l'amitié conduise à l'auberge de l'amour.
Ðôi khi con đường của tình bạn dẫn đến quán tình yêu..
69. Il est bon de traiter l'amitié comme les vins et de se méfier des mélanges.
Nên xem tình bạn như rượu vang, và nên dè chừng các pha trộn.
70. Un ami... rien n'est plus commun que le nom, rien n'est plus rare que la chose.
Một người bạn, danh xưng thì không gì thông thường hơn, mà sự vật thì không gì hiếm
hơn..
71. La terre nous fait attendre ses présents à chaque saison, mais on recueille à chaque
instant les fruits de l'amitié.

Ta phải chờ theo mùa mới có hoa quả do đất cho ta, nhưng lúc nào ta cũng nhận được
các thành quả của tình bạn..
72. Pouvoir s'asseoir ou marcher avec un ami pendant une heure sans avoir à s'occuper de sa
présence... voilà l'amitié.
Có thể ngồi hay đi bên cạnh một người bạn hằng giờ mà không phải chú tâm đến sự
hiện diện của người đó ... đó là tình bạn..
73. Un ami c'est quelqu'un qui laisse ta liberté intacte mais qui t'oblige à être toi-même.
Người bạn là người không đụng chạm đến tự do của ta, nhưng lại buộc ta phải là con
người thực của ta..
74. Un jour l'amour demande à l'amitié:
-À quoi es-tu censé servir?
-Je sèche les larmes que tu as fait couler.
Một ngày tình yêu hỏi tình bạn :
- Anh làm gì ở đời ?
- Tôi lau khô những giọt lệ mà anh làm ứa ra..
75. Il faut choisir ses amis comme des objets précieux; peu nombreux mais de qualité.
Nên chọn bạn như chọn những món đồ quí, ít nhưng phẩm chất cao..
76. Une véritable amitié, c'est comme une étoile. Elle ne brille vraiment que lorsque nous
traversons les périodes sombres de notre vie.
Tình bạn chân chính giống như một ngôi sao. Nó chỉ thật sự chiếu sáng khi ta trải qua
những giai đoạn đen tối của cuộc đời..
77. Les meilleurs amis sont souvent ceux qui comprennent votre besoin de solitude et de
silence.
Những người bạn tốt nhất thường là những người thông hiểu nhu cầu biệt lập và yên
lặng của ta..
78. Ne te hâte ni de faire des amis nouveaux, ni de quitter ceux que tu as.
Đừng hấp tấp kết bạn mới, cũng như đừng vội vã bỏ bạn cũ..

Kinh-Nghiệm Thành-Đạt của Cuộc Đời
Đức Khổng-Tử

Vietsciences-
KCPKT
23 tháng
10/2004

I. Kinh-Nghiệm Thành-Đạt của Cuộc Đời Đức Khổng-Tử
Khổng-Tử đã kể lại các giai-đoạn thành-đạt của cuộc đời ngài như sau: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí
vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ
thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc
học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi
tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-
đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và
bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra
ngoài khuôn-khổ đạo-lý).
Trong lời phát-biểu trên, Đức Khổng-Tử có ý nói rằng con người tới một lứa tuổi nào đó mới có
khả-năng nhận-thức và thực-hành những điều mà người chưa đạt đến lứa tuổi đó thì chưa nhận-
thức và thực-hành được. Để giúp các bạn trẻ hiểu rõ trọn-vẹn ý-nghĩa lời phát-biểu của Khổng-Tử
trên đây, chúng tôi xin bàn về từng phần của lời phát-biểu này.
1- Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu Học
Trong câu "ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học," chúng tôi thấy có mấy chữ cần phải được giải-thích
để giúp các bạn trẻ hiểu cho rõ. Chữ "hữu" có nghĩa là "thêm" (thập hữu ngũ: mười thêm năm,
tức là 15), chữ "chí" có nghĩa là "để hết tâm ý," và chữ "vu" có nghĩa là "đối với" Cả câu "ngô thập
hữu ngũ nhi chí vu học" có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới có thể tự-mình chuyên-tâm vào việc
học. Có biết như thế, các bậc cha mẹ mới không buồn-phiền khi thấy các con mình mải chơi đùa
và không chịu chuyên tâm học-hành trước khi chúng chưa tới lứa tuổi 15. Và cũng nhờ đó, các
bậc cha mẹ mới đem hết kiên-nhẫn, kỹ-năng, và nghệ-thuật để chăm-nom săn-sóc cho các con
mình ngay từ khi chúng còn nhỏ (trước 15 tuổi) hầu giúp chúng thành-công trong việc học.
2- Tam Thập Nhi Lập
"Tam thập nhi lập" có nghĩa là khi người ta tới 30 tuổi thì sức tự-lập mới có thể chắc-chắn và
vững-vàng. Thực vậy, khi đạt tới 30 tuổi, con người có thể tự-lập và gây-dựng nên sự-nghiệp cho

mình với điều-kiện là họ phải có chí tự-lập cũng như được cha mẹ săn-sóc và giáo-dục chu đáo.
Chí tự-lập của con người giữ vai-trò quyết-định trong việc tự-ập. Trong thực-tế đã có nhiều người
tự-lập từ trước lứa tuổi 30 và cũng có người không tự-lập được ở ngoài lứa tuổi 30. Đây là trường-
hợp của những người có chí tư- lập hay không. Nếu không có chí tự-lập thì dù cha mẹ có săn-sóc
và giáo-dục cũng vẫn không tự-lập được. Họ là những người ăn bám gia-đình và xã-hội.
3- Tứ Thập Nhi Bất Hoặc
"Tứ thập nhi bất hoặc" có nghĩa là khi người ta tới 40 tuổi mới có thể hiểu thấu mọi sự-lý trong
thiên-hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay xấu, phân biệt
được những ai là người chân-chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì nên làm hay không.
Không phải người nào ở cái tuổi 40 cũng được như vậy. Muốn đạt tới trình độ "nhi bất hoặc," con
người phải được giáo-dục kỹ-lưỡng và tự mình cố công học-hỏi chuyên-cần ngay từ khi còn nhỏ.
4- Ngũ Thập Nhi Tri Thiên-Mệnh
"Ngũ thập nhi tri thiên-mệnh" có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thông-suốt chân- lý
của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời. Không phải bất cứ ai tới 50 tuổi là đạt được trình-độ
"tri thiện-mệnh" Muốn đạt được trình độ "tri thiên-mệnh," con người cũng phải có căn-bản vững-
vàng về giáo-dục, kiến-văn, và kinh-nghiệm sống.
5- Lục Thập Nhi Nhĩ-Thuận
"Lục thập nhi nhĩ-thuận" có nghĩa là khi người ta tới 60 tuổi thì mới đạt đến mức độ hoàn-hảo về
mặt tri-hành, kiến-văn, và kinh-nghiệm về cuộc sống. Nhờ đó, người ta có thể nhận-xét và phán-
đoán được ngay tức-khắc và chính-xác về các sự-kiện và nhân-vật trong thiên-hạ. Khi nhìn hay
nghe thấy điều gì, người ta không những không cảm thấy chướng-ngại mà còn hiểu thấu ngay
mọi lẽ. Không phải tự-nhiên mà ta đạt được trình-độ "nhi nhĩ thuận" Muốn đạt được trình-độ này,
con người cũng phải có căn-bản giáo-dục, đạo-đức, kiến-văn, và kinh-nghiệm từng-trải về sự đời.
6- Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ
"Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" có nghĩa là tới 70 tuổi, con người sẽ đạt đến tình- trạng
rất hoàn-hảo về cách xử-sự và xử-thế. Nhờ đó mà mỗi khi người ta định nói điều gì hay làm việc
gì thì tự-nhiên thể-hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao được vậy, và không bao giờ
vượt ra khỏi khuôn-khổ của đạo-lý hay lẽ thường. Đây là trình-độ tuyệt-hảo của con người ở vào
tuổi từ 70 trở lên nếu trước đó họ được giáo-dục đúng cách, tự tìm tòi học-hỏi, có kiến-văn
quảng-bác, có tu-tâm dưỡng-tánh, và đã từng-trải cũng như rút được ưu khuyết-điểm trong các

kinh-nghiệm về nỗi ê-chề đớn-đau của cuộc đời.
Tuy rằng Khổng-Tử đã trình bày về những lứa tuổi cuộc đời cụ-thể của ngài như đã nói ở trên,
chúng ta phải hiểu rằng đây cũng là ý của ngài muốn nói về từng giai-đoạn tác-thành-của các lứa
tuổi cuộc đời con người. Muốn đạt tới khả-năng nhận-thức và thực-hành ở mỗi lứa tuổi như đã đề-
cập ở trên, người ta phải được giáo-dục và tự mình chuyên-tâm vào việc học-hỏi liên-tục ngay từ
khi còn trẻ, tức là từ trước khi tới lứa tuổi 15 và tiếp-tục cho tới 70 tuổi, để trau-giồi kiến-văn,
đạo-đức, và rút-tỉa kinh-nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.
Mỗi lứa tuổi 15, 30, 40, 50, 60, và 70 thể-hiện kết-quả của việc giáo-dục trong gia-đình và học-
đường cùng kiến-văn có được qua sự học-hỏi ở trường đời. Nếu không được giáo-dục đúng cách
và nếu không biết tự tu tâm dưỡng tánh, tự trau-giồi kiến-văn cho hoàn-hảo, và tự rút tỉa kinh-
nghiệm trường đời thì con người giống như "ông bình vôi," càng sống lâu càng ngu và càng làm
hại dân hại nước dù rằng có bằng cấp cao đến thế nào đi nữa.
Có tuổi là một việc, nếu không được giáo-dục đúng cách và không tự trau-giồi kiến-văn cùng
kinh-nghiệm sống thì dù tới 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, hay 70 tuổi đi nữa, người ta cũng
không có sức tự-lập, không hiểu hết sự lý, không biết được mệnh trời, không thông-suốt mọi lẽ,
và không thể làm chủ được hành-động và tư-tưởng của mình nhiên-hậu sẽ vượt ra ngoài khuôn
khổ đạo lý. Việc quan- trọng nhất là nếu đã tới 30 tuổi mà không tự-lập được vững-vàng, ta sẽ
gặp nhiều gian-truân chứ đừng nói chi đến việc có thể giúp mình và giúp đời một cách có hiệu-
quả được.
II. Việc Học và Trau Giồi Kiến-Văn
1. Học Kinh-Nghiệm Của Người
Muốn lập thân cho đúng nghĩa của nó, các bạn trẻ phải chú-tâm vào việc học. Học không phải có
nghĩa là chúng ta chỉ cần cắp sách đến trường và đọc nhiều sách vở để biết chữ nghĩa hay học
được một nghề để kiếm nhiều tiền hầu vinh-thân phì-gia là đuViệc học phải gồm đủ mọi mặt và
nhiều cách.
Mục-đích của việc học là để thành con người với đúng nghĩa của nó, tức là con người hoàn-hảo, có
đạo-đức, và hữu-dụng cho nhà cho nước. Học là noi gương sáng của tiền-nhân và các bậc vĩ-nhân
quân-tử, tức là bắt-chước những việc làm ích quốc lợi dân mà các bậc tiền-nhân đã làm. Ngoài ra,
chúng ta cũng cần phải bắt-chước những việc làm của các người đồng thời với ta khi việc làm của
họ có ý-nghĩa và đáng cho ta học-hỏi và noi theo để cứu-nhân độ-thế.

Cần phải giao-thiệp rộng và lăn-lộn với đời để học kinh-nghiệm sống và trau-giồi kiến-văn cho
quảng-bác. Học để phân-biệt được điều phải điều trái. Thấy điều tốt điều phải, ta phải bắt-chước.
Thấy điều sai quấy, ta phải tránh. Người khôn là người biết học kinh-nghiệm của người khác,
người dại là người chỉ biết học kinh-nghiệm của chính mình.
2. Học Một Biết Mười
Từ những hiểu-biết căn-bản của việc học có được tại học-đường và trong gia-đình, ta có thể
nghiên-cứu thêm và nhiên-hậu phát-minh ra những điều mới. Làm sao học một để biết mười, tức
là học cách tìm tòi nghiên-cứu, suy-diễn, nhận-xét, và phê-phán. Không nên quá tin vào sách-vở
vì sách-vở cũng có nhiều cái sai trái trong đó. Người xưa có nói "Tận tín ư thư bất như vô thư,"
tức là quá tin vào sách thà đừng có sách còn hơn. Điều này là để cảnh-cáo những người thuộc loại
mọt-sách. Đọc sách mà không chịu phân-tích và nhận-xét thì chỉ có hại mà thôi. Thậm-chí có
người còn cho là những gì cổ- nhân viết ra để lại cho hậu-thế chỉ là những "tao-phách" (cặn bã)
mà thôi. Những người biết cách học- hỏi thì phải coi những "tao-phách" này như là một tài-liệu để
nghiên-cứu thêm mà thôi chứ không có thể nào hoàn-toàn tin vào đó được.
3. Học phải Hành
Những điều gì học được phải đem thực-hành để giúp-ích cho đời. Biết mà để đó cũng giống như
không biết và cái biết đó là một điều vô-ích. Biết điều phải mà không làm thì cái biết đó chẳng có
ích gì cho nhân-quần xã-hội. Hơn-nữa, khi ta học được điều hay mà không đem ra phổ-biến và
thực- hành thì cái học của ta cũng mai-một đi. Chính vì thế mà việc học ở các nước tân-tiến đều
đi từ kiến- thức tới thí-nghiệm, trắc-nghiệm, áp-dụng, rồi thi-hành, và cuối cùng lượng-giá cùng
rút ưu-khuyết- điểm để cải-tiến hầu giúp-ích cho đời-sống con người tốt đẹp hơn.
4. Học để Làm Người
Đây là cái học quan-trọng nhất. Cái học của Á-Đông chúng ta chú-trọng tới việc xây-dựng con
người toàn-diện về kiến-thức cũng như về đạo-đức. Cái học của Tây-Âu chú-trọng về mặt chuyên-
môn để đào-tạo các chuyên-gia hơn là đào-tạo con người. Tuổi trẻ Việt-Nam ở hải-ngoại đã có lõi-
cốt của cái học Á-Đông ta, nay lại được học thêm cái tinh-tuý về khoa-học kỹ-thuật Tây-Âu thì
thật là điều tuyệt-diệu. Học để có kiến-thức và chuyên-môn cao thì dễ, nhưng muốn học để làm
người, con người toàn-diện, thì rất khó. Chính vì thế mà các bạn trẻ cần phải chú-ý các mặt sau
để việc học của ta thêm hoàn-hảo:
- Ở trong Gia-Đình Phải Học sao để Làm Người Con Hiếu-Thảo.

"Hiếu-Thảo" là rường- mối của mọi nết ăn-ở trên đời. Cha mẹ là người sinh ra mình, săn-sóc và
nuôi-nấng mình rất vất-vả, và còn lo giáo-dục cho mình nên người tử-tế nữa. Công-đức ấy kể sao
cho xiết được! Chính vì thế mà con cái phải biết kính-yêu và biết ơn cha mẹ. Lúc nhỏ, con cái chỉ
cần thể-hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng cách vâng-lời cha mẹ, chăm-chỉ học-hành, và yêu mến cha
mẹ. Khi lớn lên, con cái thể-hiện sự biết ơn cha mẹ bằng cách hết lòng phụng-dưỡng mẹ cha, ân-
cần săn-sóc cha mẹ, kính-trọng cha mẹ, và giúp-đỡ cha mẹ mổi khi cha mẹ cần đến. Có được như
thế thì con cái mới được gọi là người con có hiếu và mới được gọi là người có giáo-dục. Nếu làm
trái các điều này, ta là người con bất-hiếu. Con người đã mang tội bất-hiếu thì chắc-chắn họ chỉ là
kẻ sâu-dân mọt-nước.
Học Sao để Có Đễ với Anh Chị Em của Mình.
"Đễ" có nghĩa là kính yêu, thương yêu, và hoà-thuận đối với anh chị em. Nói một cách khác, đối-
xử tử-tế, hợp đạo-lý, và giữ trọn tình-nghĩa trước sau với anh chị em đều được gọi là "đễ" Có đễ
thì anh chị em mới hoà, đồng-bào mới thương yêu nhau, và nhiên-hậu xã-hội mới thịnh-vượng.
- Học sao để Đạt Được Đức-Tính Cẩn-Trọng và Chân-Thành
Khi làm việc gì và khi tiếp- đãi ai, "cẩn-trọng" là điều ta phải chú tâm. Điều này có nghĩa là khi
giao-tiếp với tha-nhân, ta phải giữ lễ và tôn-trọng ý-kiến của họ.
Khi đã nhận làm việc gì, ta phải chú-tâm để làm cho bằng được. Khi đã hứa với ai điều gì, ta phải
giữ lời và nếu vì lẽ gì không giữ được lời đã hứa, ta phải thông-báo kịp thời để người ta tìm người
khác thay thế.
Đã có quan-niệm cho là người Việt mình quá nhiều tự-ái và thiếu chân-thành. Trong thực- tế,
nhận-xét này rất đúng. Chính vì lẽ đó, muốn thành-công và giúp ích cho dân cho nước, ta phải
bớt tự-ái và thêm chân-thành. Chân-thành là nghĩa là duyên, Bớt phần tự-ái tạo nên thân tình
(thơ Khải Chính). Sự chân-thành phải coi là nòng-cốt vì có chân-thành mới có tín. Tín là báu-vật
của cả nhân- loại. Không có tín, con người sẽ biến thành kẻ bất-lương và là hạng sâu-dân mọt-
nước. Khi làm việc, ta phải cẩn-trọng và chân-thành, tức là có tín, thì mọi việc sẽ thành-công.
Muốn thế, khi làm một công việc gì, ta phải có kế-hoạch thi-hành, đôn-đốc, và kiểm-soát trong
tinh-thần cộng-tác, tương-kính, khoa-học, và dân-chủ.
Có cẩn-trọng và có tín thì ta mới có thể làm việc ích-quốc lợi-dân được. Ở Bắc-Mỹ này nếu ta bị
coi là người "no trust," tức là kẻ bất-tín, thì không thể nào tiến-thân được và suốt đời phải sống
trong sự khinh-khi của người đời.

- Phải Học Sao Có Được Lòng Từ-Ái, Khoan-Dung, và Độ-Lượng.
Đạo Phật coi trọng các hạnh "đại-từ ,đại-bi, đại-hỷ, đại-xậu" Đại-từ là lòng hiền-lành lớn nhằm
đem lại niềm-vui cho tất-cả chúng-sinh, đại-bi là lòng thương-xót lớn nhằm cứu-khổ cho tất cả
chúng-sinh, đại-hỷ là tạo sự vui-vẻ với tất-cả chúng-sinh, và đại-xả là đem tất-cả mọi sự vui thích
của mình mà thí cho người khác.
Đạo Thiên-Chúa coi trọng đức "bác-ái" Bác-ái là yêu thương tất-cả mọi người mọi vật và giúp
ích cho đời, yêu người như yêu mình và yêu cả kẻ thù.
Khổng-Giáo coi trọng lòng "nhân" Nhân là tính tốt ở trong lòng mà trời đã phú sẵn cho ta, đó
là cái lòng tốt của con người. Lòng nhân là điều cốt-yếu giúp ta để trở thành con người vì nếu con
người đã bất-nhân thì không còn phải là con người nữa mà là con vật! Ngoài ra, Khổng Tử còn
nói: "Khắc kỷ phục lễ vi nhận" Điều này có nghĩa là bỏ hết cái bệnh tư-dục của mình là khắc-kỷ,
hồi-phục được chân-lý của trời là phục lễ, đó là nhân. Nói tóm-lại, nhân là lòng thương yêu và
kính-trọng người.
Phật-Giáo,Thiên-Chúa-Giáo, và Khổng-Giáo đều dậy ta tấm lòng yêu thương tha-nhân, khoan-
dung độ-lượng với mọi người, và ăn ở phải có lòng nhân. Ta phải sáng-suốt để gần-gũi người có
nhân
"Khoan- dung độ-lượng" có nghĩa là tha-thứ và thương yêu mọi người khi họ vô-ý vướng phải lỗi-
lầm.
-[b] Phải Học Sao Để Lập-Chí. Khi muốn làm việc gì, ta quyết-định làm cho bằng được, đó là
chí. Người xưa thường nói: "Hữu chí giả, sự cánh thành (người đã có chí thì việc chắc phải nên);
có chí thì nên; có chí làm quan, có gan làm giàu; làm trai chí ở cho bền, chớ lo muộn vợ, chớ
phiền muộn con; làm trai có chí lập-thân, rồi ra gặp hội phong-vân có ngày; làm trai quyết-chí
tang-bồng, sao cho tỏ mặt anh-hùng mới cạm" Vậy chí là cái lòng muốn làm và quyết-định làm
một việc gì cho đến thành-công mới thôi. Ta phải học-tập làm sao để thực-hiện được "lòng muốn
và quyết-định" này mỗi khi ta bắt tay vào làm một công-việc gì. Có như thế thì mọi việc ta theo-
đuổi mới thành-công tốt đẹp.
Khi đã có hiếu, đễ, cẩn-trọng, chân-thành, từ-ái, khoan-dung độ-lượng, và lập được chí
thì cái học của ta mới toàn-vẹn. Tuy-nhiên, cuộc đời vẫn có nhiều ngoại-lệ, nhất là ở thời nay.
Hoàn-cảnh và dòng-giống cũng có ảnh-hưởng đến sự hiểu-biết và sự lập-nghiệp của con người.
Xưa cũng như nay, vẫn có người lập-nghiệp và tự-lập được ở cái tuổi hai mươi và có người còn

sớm hơn nữa. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người ở ngoài cái tuổi 30 mà vẫn không lập-nghiệp và tự-
lập được.
Cùng một trình-độ học-vấn mà ở mỗi tuổi người ta hiểu sự-vật một khác. Cùng một tác-phẩm mà
mỗi lần đọc lại, ta lại hiểu kỹ hơn. Cuộc sống và sự học-hỏi giúp ta hiểu đời càng ngày càng kỹ
hơn. Chính vì thế mà đến tuổi 60, nếu đã có kiến-văn và kinh-nghiệm vững-vàng thì mỗi khi thấy
sự việc gì dù trái hay phải, dù thiện hay ác, dù sướng hay khổ, ta cũng không lấy gì làm ngạc-
nhiên. Bởi thế cái tuổi 60 mươi mới được gọi là tuổi "nhi nhĩ thuận" Đến tuổi 70, nếu ta có kiến-
văn quảng-bác, kinh-nghiệm chín-chắn, và sở-học uyên-thâm thì mọi việc ta suy-nghĩ, phát-biểu,
hay làm đều theo dúng với lương-tâm cùng khuôn-khổ của đạo-lý. Bởi thế, cái tuổi 70 mới được
gọi là tuổi "tùng tâm sở dục bất du cụ"
III. Kết-Luận
Không phải cứ có nhiều tuổi ta mới thông-minh tài giỏi. Thông-minh có thể do nòi-giống và sự
bẩm-sinh mà có. Người xưa thường cho là "lão ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ sinh"
(con quạ già trăm tuổi không bằng chim phượng-hoàng mới sinh ra) hay "hậu sinh khả uý" là vậy.
Tuy nhiên, kiến-thức và kinh-nghiệm phải do học-hỏi mới thành. Tuổi đời cộng thêm việc học-hỏi
và từng-trải mới đạt được các trình-độ "tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri
thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du cụ" Ta cần phải chú
tâm vào việc học ngay từ khi còn trẻ và tiếp-tục học mãi cho đến già. Việc học phải bao-gồm từ
sự bắt-chước, trau-giồi kiến-thức, nghiên-cứu, áp-dụng, thực-hành, đến việc học làm người.
Ngoài ra, ta phải cố-gắng và có quyết-tâm học-hỏi thì mới mong đạt tới trình-độ từ "tam thập nhi
lập" đến "tùng tâm sở dục bất du củ" một cách đúng nghĩa của nó được

Danh ngôn thời Xuân Thu
Vietsciences-
Từ Vũ 18
tháng 03 /
2004

BÙI-HÀNH-KIỆM
• Kẻ sĩ cần nhất khí độ phải cho to, kiến thức phải cho rộng.

CHIẾN-QUỐC SÁCH
• Không biết mà nói là ngu, biết mà không nói là hiểm.
CHU-HI
• Cách trị nhà cốt ở hoà thuận, cách mưu sinh cốt ở siêng năng.
CỔ NGỮ
• Việc tốt nhất ở thế gian không gì bằng cứu người nguy cấp thương
kẻ khốn cùng.
CÔNG-NGHI
• Không lấy bậy của ai là giầu; Không bị nhục với ai là sáng
ĐÀM-TỬ
• Kẻ xa xỉ thì giầu mà vẫn không đủ, người kiệm ước thì nghèo mà
tiêu vẫn có thừa.

DỊCH KINH
• Người hay ít nói, người nông nỗi nhiều lời.
GIA NGỮ
• Chớ nói nhiều, nói nhiều lỗi nhiều.
• Quân tử nói bằng việc làm, tiểu nhân nói bằng ngọn lưỡi.
HÁN THƯ
• Muốn cho người không nghe chẳng gì bằng đừng nói, muốn cho
người không biết chẳng gì bằng đừng làm.
HẬU HÁN THƯ
• Nền không chắc mà tường không cao thì sự bại hoại nằm sẵn ở đó.
HỨA HÀNH
• Tâm không bình an, khí không hoà nhã thì lời nói hay lầm lỗi
KHỔNG TỬ
• Dở nhất trong cái đạo xử thế là không thấy cái lỗi của mình.
• Hiếu thảo là nguồn gốc của đạo đức.
• Kẻ sĩ không lo người đời chẳng biết mình mà chỉ sợ mình bất tài
thôi.

• Không oán trời, không trách người là quân tử.
• Người khôn ngoan hỏi nguyên do lầm lỗi ở bản thân, kẻ dại khờ hỏi
nguyên do ở người khác.
• Người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người.
• Thấy người hay nghĩ sao cho bằng, thấy người dở tự xét mình có
dở
KINH-VIÊN TIỂU-NGỮ
• Kẻ có tính hay nghi ngờ đừng chớ cùng họ lo toan việc lớn.
LÃ KHÔN
• Để tâm nghiền ngẫm mãi thì lẽ gì mà không nghĩ ra, kiên gan bền
chí mãi thì việc gì mà làm chẳng nổi.
• Việc làm nên trước mọi người, câu nói nên sau mọi người.
LÃ-TƯ-PHÚC
• Có học vấn mà không có đạo đức là người ác, có đạo đức mà không
có học vấn là người quê.
LÃO TỬ
• Biết đủ trong cái đủ của mình thì luôn luôn đủ.
• Biết người là trí, biết mình là sáng
• Không có lỗi nào to bằng ham muốn; Không có tai hoạ nào to bằng
không biết đủ.
• Lo thắng người thì loạn; Lo thắng mình thì bình.
• Lời thành thật thì không đẹp; Lời đẹp thì không thành thật.
LỄ KÝ
• Sa chân thì chết đuối, sảy miệng thì chết oan.
LUẬN HÀNH
• Người quân tử chẳng sợ cọp mà chỉ sợ miệng kẻ gièm pha.
LUẬN NGỮ
• Người quyền thế chỉ biết hùng dũng mà không biết nghĩa thì làm
loạn
• Người thường dân chỉ biết hùng dũng mà không biết nghiã thì trộm

cướp.
LỤC TÀI-TỬ
• Nuốt được cái cay đắng trong cái cay đắng mới làm được hạng
người trên loài người.
LỤC-THẾ-NGHI
• Làm việc vô ích để cầu phúc không bằng làm việc có ích để cứu
người.
LÝ-TIÊU-VIỄN
• Xử những việc khó xử càng nên khoan dung ; Xử với người khó xử
càng nên trung hậu ; Xử thời buổi khó khăn càng nên tự nhiên như
vô tâm.
MẠNH TỬ
• Đối với kẻ tự hại thân dầu nói cũng bằng thừa. Đối với kẻ tự liều
thân dầu giúp cũng vô ích.
• Kẻ sĩ mà còn quyến luyến sự yên vui thuận tiện cho xác thịt thì tâm
lụy chí hèn không đáng được gọi là kẻ sĩ.
• Nghiã nhân là ngọn đuốc soi đường cho thiên hạ.
• Ngu thì người ta khinh, khôn thì người ta ghét; Khôn mà làm như
ngu mới thật là khôn.
• Người ta chẳng chịu làm điều dở về sau mới có thể làm được điều
hay.
• Đọc sách mà không chịu tinh tường suy nghĩ là vùi dập đi cái công
phu của người xưa.

Danh ngôn chung
Bấm để Ä‘á»c trong chế độ hiển thị 800x600
Nguyễn Vũ Ngân Hà


Tình yêu mù lòa nên rất cần rờ mó

Proverbe Brésilien

Tình yêu mù lòa nhưng hôn nhân trả lại cho ánh sáng
Proverbe Allemand

Có ba loại đàn ông không hiểu gì hết về đàn bà: những
thanh niên trẻ, những người già và những người ở giữa hai
loại người đó
Proverbe Irlandais

Tim càng nhỏ, lưỡi càng dài
Proverbe Italien

Người khéo ngoại giao là người đàn ông luôn nhớ ngày sinh
nhật của đàn bà, nhưng không bao giờ nhớ tuổi của người
đó
Proverbe Américain

Gà trên cao làm dơ gà dưới thấp
Proverbe Brésilien

Chó không đuôi không diễn tả được sự vui mừng
Proverbe Albanais

Ai có voi phải có cửa rộng lớn
Proverbe Afghans

Người giàu giết thời gian và thời gian giết kẻ nghèo
Proverbe Irlandais


Người giàu có nhiều tiền hơn nhưng kẻ nghèo có nhiều con
Danh ngôn chung
Bấm để Ä‘á»c trong chế độ hiển thị
800x600
Nguyễn Vũ Ngân Hà


Tình yêu mù lòa nên rất cần rờ mó
Proverbe Brésilien

Tình yêu mù lòa nhưng hôn nhân trả lại cho ánh sáng
Proverbe Allemand

Có ba loại đàn ông không hiểu gì hết về đàn bà: những
thanh niên trẻ, những người già và những người ở giữa hai
loại người đó
Proverbe Irlandais

Tim càng nhỏ, lưỡi càng dài
Proverbe Italien

Người khéo ngoại giao là người đàn ông luôn nhớ ngày sinh
nhật của đàn bà, nhưng không bao giờ nhớ tuổi của người
đó
Proverbe Américain

Gà trên cao làm dơ gà dưới thấp
Proverbe Brésilien

Chó không đuôi không diễn tả được sự vui mừng

Proverbe Albanais

Ai có voi phải có cửa rộng lớn
Proverbe Afghans

Người giàu giết thời gian và thời gian giết kẻ nghèo
Proverbe Irlandais

Người giàu có nhiều tiền hơn nhưng kẻ nghèo có nhiều con

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×