Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

VẤN ĐỀ SỞ HỮU: TỪ HIỆN THỰC SUY NGẪM VỀ QUAN NIỆM CỦA C. MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.82 KB, 16 trang )

VẤN ĐỀ SỞ HỮU: TỪ HIỆN THỰC SUY NGẪM VỀ QUAN NIỆM CỦA
C. MÁC
PGS.TS Phí Mạnh Hồng- Trường Đại học Kinh tế- ĐHQG Hà Nội
Tóm tắt: Theo Mác, chỉ có thể hiểu được quan hệ sở hữu của một hệ thống
kinh tế khi đặt nó trong toàn bộ quan hệ sản xuất hiện thực tương ứng. Đồng
thời, “Giải phẫu học về con người là cái chìa khóa cho giải phẫu học về con khỉ”
(Mác, 1998). Vận dụng những chỉ dẫn có tính chất phương pháp luận này, đứng
trên góc nhìn của thế giới đương đại, cần cắt nghĩa và thẩm định lại quan niệm
của chính Mác về quan hệ sở hữu đặc trưng trong CNTB và CNXH. Nhờ đó, có
thể khắc phục được cách nhìn thiên kiến về sở hữu tư nhân trong một nền kinh
tế thị trường hiện đại cũng như những ngộ nhận về chế độ công hữu. Đó là
những tiền đề cần thiết để tiếp tục thúc đẩy quá trình Đổi mới hiện nay ở Việt
Nam.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác, sở hữu tư, sở hữu công, kinh tế thị trường.

1. Mở đầu
Quá trình Đổi mới ở Việt Nam thực chất là quá trình chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, được thiết kế trên cơ sở tư duy về mô hình CNXH kiểu
cũ, sang nền kinh tế thị trường. Những thành tựu to lớn mà Đổi mới mang lại
xác nhận tính đúng đắn của quá trình chuyển đổi này. Tuy nhiên những khó khăn
và bất ổn tích đọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy những động
lực mà giai đoan Đổi mới vừa qua mang lại đã dần suy yếu, tiềm năng mà nó có
thể khai thác đã dần cạn kiệt. Tiến trình Đổi mới cần được tiếp tục thúc đẩy một
cách triệt để, nhất quán hơn, ít mang tính chất “ngập ngừng” hơn. Để làm được
điều này, việc tháo dỡ những rào cản về mặt tư duy là tiền đề cần thiết. Trong số
những rào cản đó, không thể không đề cập đến vấn đề sở hữu, với tính cách là
một quan hệ cốt yếu trong một hệ thống kinh tế. Bài viết sẽ bàn luận về vấn đề
này trên cơ sở suy ngẫm lại quan niệm của Mác trên cơ sở hiện thực của Việt
Nam và thế giới hôm nay.
2. Quan niệm của C. Mác về quan hệ sở hữu nói chung – những chỉ dẫn
phương pháp luận


Trong các quan điểm của Mác về sở hữu, cần phân biệt hai lớp quan điểm:
một lớp liên quan đến cách nhìn phương pháp luận chung về sở hữu và một lớp
liên quan đến quan niệm cụ thể của Mác về sở hữu trong CNTB và CNXH.

1


Liên quan đến cách nhìn có tính cách phương pháp luận chung của Mác về
sở hữu, những luận điểm sau của ông là rất đáng chú ý: “Trong mỗi thời đại lịch
sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt quan hệ xã
hội hoàn toàn khác nhau. Cho nên, định nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là
cái gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản.
Nếu muốn định nghĩa quyền sở hữu như là một quan hệ độc lập, một phạm
trù đặc biệt, một ý niệm trừu tượng và vĩnh cửu, thì như thế chỉ là sa vào một ảo
tưởng siêu hình hay mang tính chất luật học mà thôi” (Mác, 1988a) (Tác giả nhấn
mạnh).
“Cái mà về thực chất Pru-đông muốn nói đến là chế độ sở hữu hiện tồn, chế
độ sở hữu tư sản hiện đại. Đối với câu hỏi: sở hữu ấy là gì, người ta chỉ có thể trả
lời bằng một sự phân tích phê phán “khoa kinh tế chính trị”, môn học này bao
quát toàn bộ những quan hệ sở hữu ấy, không phải trong biểu hiện pháp quyền
của chúng với tư cách là những quan hệ ý chí, mà là trong hình thái hiện thực của
chúng, tức với tư cách là những quan hệ sản xuất” (Mác, 1988b).
“Kết quả chung mà tôi đạt được và đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự
nghiên cứu sau này của tôi có thể trình bày vắn tắt như sau: Trong sự sản xuất xã
hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ với nhau, những quan hệ
xác định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản
xuất; những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ
cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương

ứng với cơ sở hiện thực đó. …Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các
lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có,
hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó - mâu thuẫn
với những quan hệ sở hữu, trong đó, từ trước đến nay, các lực lượng sản xuất vẫn
phát triển”. (Mác, 1993a) (Tác giả nhấn mạnh)
Như vậy, dựa theo Mác, có thể rút ra một số nhận xét sau: Thứ nhất, quan hệ
sản xuất hiện thực là nội dung của quan hệ sở hữu. Thông thường, trên bề mặt xã
hội, quan hệ sở hữu tồn tại như là hình thức biểu hiện về mặt pháp lý của các
quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, để hiểu được bản chất của các quan hệ sở hữu,
người ta lại phải xem xét chúng không phải trong biểu hiện pháp lý mà là trong
toàn bộ hình thái hiện thực của chúng như là các quan hệ sản xuất. Nếu như “định

2


nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là cái gì khác mà là trình bày tất cả những
quan hệ xã hội của sản xuất tư sản” thì để hiểu quan hệ sở hữu, cần phải xuất
phát từ toàn bộ các quan hệ sản xuất hiện thực chứ không phải ngược lại. Điều đó
cũng có nghĩa là việc xác lập một chế độ sở hữu không chỉ dừng lại ở những
tuyên bố pháp lý. Nếu các quan hệ sản xuất hiện thực (tương ứng với hình thức
pháp lý của sở hữu) không được triển khai thì tính chất pháp lý của sở hữu sẽ
không có cơ sở thực tế. Trong trường hợp này, sở hữu trước sau cũng sẽ không có
nội dung giống như cái vỏ pháp lý mà nó muốn thể hiện. Thậm chí sự xung đột
giữa hình thức pháp lý với nội dung kinh tế của sở hữu sẽ trở thành yếu tố kìm
hãm quá trình phát triển. Chẳng hạn, nếu về mặt pháp lý, cá nhân A được xem là
người sở hữu duy nhất về một tài sản nào đó, trong khi trên thực tế, những người
khác vẫn có thể nắm giữ, chiếm dụng, khai thác tài sản hoặc thụ hưởng những lợi
ích phát sinh từ tài sản trên mà không cần sự cho phép của A thì quyền sở hữu
của A chỉ tồn tại trên danh nghĩa. A sẽ không còn tha thiết tìm cách khai thác một
cách sáng tạo và hiệu quả tài sản của mình. Một khu rừng được tuyên bố là thuộc

sở hữu toàn dân sẽ không mảy may có giá trị kinh tế gì đối với tôi, với tư cách là
một người đồng sở hữu, nếu như “lâm tặc” và các nhân viên kiểm lâm đang khai
thác nó, dù là bất hợp pháp, như là những tài sản cá nhân.
Thứ hai, quan hệ sở hữu cũng như các quan hệ sản xuất là có tính chất lịch
sử. Nó hình thành, phát triển, vận động phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Một quan hệ sở hữu, phản ánh một loại quan hệ sản
xuất nhất định, sẽ không mất đi khi mà nó vẫn cho phép lực lượng sản xuất xã hội
phát triển. Một quan hệ sở hữu mới cũng không thể ra đời nếu như lực lượng sản
xuất chưa phát triển đến trạng thái chín muồi làm điểm tựa cho nó. Mác viết:
“Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản
xuất xã hội mà hình thái đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển,
và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn cũng không bao giờ xuất hiện trước khi
những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng
xã hội cũ” (Mác, 1993a). Nói cách khác, quan hệ sở hữu, quan hệ sản xuất không
thể vượt quá trình độ của lực lượng sản xuất, bị quy định bởi lực lượng sản xuất.
Sự ngộ nhận về khả năng thiết lập một loại quan hệ sản xuất tiên tiến, cao hơn
trình độ của lực lượng sản xuất hiện có, nhằm mở đường cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất thực chất là đi ngược với quan điểm của Mác, và quan trọng hơn,
đã bị thực tiễn bác bỏ. Mặt khác, trong các xã hội hiện đại, do các lực lượng sản
xuất phát triển nhanh chóng, được dẫn dắt bởi các cuộc cách mạng khoa học -

3


công nghệ, các quan hệ xã hội của sản xuất, bao hàm cả quan hệ sở hữu, bằng
cách nào đó, khó có thể đứng yên mà sẽ phải tiến hóa không ngừng.
Thứ ba, trong lịch sử, đã từng tồn tại các hình thái sở hữu khác nhau. Chế độ
sở hữu “công cộng” dưới hình thức sở hữu bộ lạc, công xã được xem là các hình
thái nguyên thủy của sở hữu. Chế độ sở hữu tư nhân chỉ xuất hiện trong thời kỳ
tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, khi sản xuất xã hội và phân công lao động

phát triển đến một trình độ nhất định. Sở hữu tư nhân cũng tiến triển dưới các
hình thái khác nhau trong các xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, trong đó
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa được xem là hình thái phát triển cao nhất của nó.
Trong sự tiến triển chung như vậy, khi một hình thái sở hữu, đặc trưng cho
một xã hội mới, cao hơn, tiến bộ hơn xuất hiện và thay thế cho một hình thái sở
hữu đặc trưng cho xã hội cũ, thì điều đó không có nghĩa là trong mọi trường hợp,
hình thái sở hữu cũ hoàn toàn biến mất. Xã hội mới có thể kế thừa các sản phẩm
của lịch sử bằng cách dung nạp các hình thái sở hữu cũ và bắt chúng phải thích
nghi, phụ thuộc vào hình thái sở hữu mới. Chính vì vậy, khi bàn về các khái niệm
như tư bản và địa tô, một mặt, Mác cho rằng, ở bình diện chung, địa tô chính là
sự thực hiện về mặt kinh tế quyền sở hữu ruộng đất (Mác, 1994). Mặt khác, tuy
đia tô là hình thức có trước tư bản, song chỉ có thể hiểu được địa tô TBCN sau
khi đã hiểu tư bản, trong khi có thể hiểu được tư bản mà không cần hiểu địa tô
(Mác, 1998). Điều đó có nghĩa là: khi đã bị thu nạp vào hệ thống sản xuất TBCN,
sở hữu ruộng đất cũng sẽ mang hình thức sở hữu ruộng đất tư bản chủ nghĩa.
Cũng như vậy, trong hệ thống sản xuất TBCN, sở hữu công (thực hiện thông qua
sở hữu nhà nước), hình thái sở hữu tư của những người sản xuất nhỏ vẫn tồn tại
như những hình thái sở hữu thứ yếu, phụ thuộc. Nói cách khác, một hình thức sở
hữu vốn có trước về mặt lịch sử, khi nằm trong một hệ thống sản xuất mới, bị chi
phối bởi các quan hệ sản xuất xã hội mới, sẽ bị biến đổi để thích ứng và phù hợp
với một hệ thống sản xuất cao hơn.
Thứ tư, Mác còn đưa ra một chỉ dẫn phương pháp luận quan trọng khi tuyên
bố: “Xã hội tư sản là một tổ chức sản xuất phát triển nhất và đại diện nhất trong
lịch sử. Vì vậy, các phạm trù biểu thị những quan hệ của xã hội đó, kết cấu của xã
hội đó, đồng thời cũng cho ta cái khả năng hiểu thấu được kết cấu và các quan hệ
sản xuất của tất cả các hình thái xã hội đã diệt vong; xã hội tư sản đã được xây
dựng nên trên những tàn dư và những yếu tố của những hình thái xã hội ấy, một
phần kéo theo sau nó những tàn dư còn chưa khắc phục được, một phần thì phát

4



triển đầy đủ tác dụng của những cái trước kia chỉ tồn tại dưới dạng một dấu hiệu
báo trước mà thôi, v.v.. Giải phẫu học về con người là cái chìa khóa cho giải phẫu
học về con khỉ. Ngược lại, người ta chỉ có thể hiểu được những dấu hiệu báo
trước cái cao hơn trong các loài động vật cấp thấp khi người ta đã biết được bản
thân cái cao hơn đó. Như vậy, nền kinh tế tư sản cho ta cái chìa khóa để hiểu nền
kinh tế cổ đại, v.v…”. (Mác, 1998). Theo mạch tư tưởng này của Mác, trong các
nấc thang phát triển của lịch sử xã hội, người ta cần phải đứng trên nấc thang cao
nhất có thể để nhìn nhận, xem xét những nấc thang thấp hơn mà xã hội loài người
đã đi qua trước đó nếu muốn hiểu thấu về chúng. Nói cách khác, xã hội hiện tại là
chìa khóa để hiểu các xã hội trong quá khứ chứ không phải ngược lại. Hai trăm
năm qua, thế giới biến đổi quá nhiều và tốc độ của sự biến đổi ấy lại ngày càng
gia tăng trong những thập kỷ gần đây. Trong bối cảnh ấy, không thể không tin
rằng CNTB và thế giới ngày nay đang đứng ở nấc thang phát triển cao hơn hẳn so
với CNTB và thế giới trong thế kỷ 19. Nếu theo đúng tinh thần của đoạn văn trên,
thì chính việc tìm hiểu CNTB ngày nay, thế giới ngày nay là chìa khóa để chúng
ta hiểu chính xác hơn CNTB thời Mác, thế giới thời Mác. Chúng ta có thể dùng
điều này để thẩm định lại một số quan niệm cụ thể của chính Mác về sở hữu
trong CNTB và CNXH.

3. Quan niệm của C. Mác về sở hữu tư bản chủ nghĩa – hình thức sở hữu đặc
trưng trong hệ thống kinh tế thị trường
Những luận điểm về chế độ sở hữu TBCN, dĩ nhiên, được Mác khái quát và
tổng kết từ hiện thực của xã hội tư sản thời ông. Ở thời Mác, chế độ sở hữu
TBCN là một chế độ sử hữu tư nhân trong đó các tư liệu sản xuất được tập trung
trong tay một nhóm nhỏ các nhà tư bản, còn đông đảo những người lao động là
không có tư liệu sản xuất và buộc phải trở thành những người lao động làm thuê.
Theo Mác, do độc chiếm các tư liệu sản xuất nên nhà tư bản sẽ chi phối quá trình
sản xuất, chiếm đoạt giá trị thặng dư do lao động không công của người công

nhân làm ra. Cái mà người công nhân nhận được chỉ là tiền công, tức giá cả của
sức lao động, bị quy định bởi giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết chỉ đủ để tái
sản xuất ra sức lao động của anh ta. Quá trình tái sản xuất cũng chính là quá trình
tái sản xuất ra các quan hệ sản xuất TBCN, trong đó những người công nhân sẽ bị
bần cùng hóa và bị cột chặt mãi vào thân phận của những người lao động làm
thuê. Do tiền công chỉ là một phần trong giá trị mới hoàn toàn do người công
nhân tạo ra, nên quan hệ tư bản – lao động là một quan hệ bóc lột. Trong trường
hợp này, nguồn gốc của bóc lột là chế độ tư hữu TBCN về tư liệu sản xuất, dù

5


cách thức bóc lột của nó khác hẳn với các chế độ tư hữu khác, dựa trên các quan
hệ thống trị - lệ thuộc trực tiếp. (xem Mác, 1993c, đặc biệt phần nói về quá trình
sản xuất giá trị thặng dư). Do đó, xóa bỏ tư hữu như là cơ sở của việc xóa bỏ chế
độ người bóc lột người, được Mác, Ăng ghen nêu lên như một công thức tóm tắt
trong Tuyên ngôn của những người cộng sản (Mác & Ăng ghen, 1976).
Như vậy, cách nhìn và phân tích của Mác về sở hữu trong chế độ TBCN (lẫn
dự báo của ông về sở hữu trong xã hội tương lai được rút ra từ đó), một mặt,
được triển khai trên cơ sở các quan niệm triết học của ông về lịch sử song mặt
khác, nó cũng phản chiếu đậm nét những điều kiện thực tế của thời đại ông – thời
đại của nền kinh tế công nghiệp đại cơ khí, chủ yếu gắn liền với cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất.
Từ lát cắt thứ nhất, có thể nói, Mác không đơn giản coi chế độ sở hữu tư sản
chỉ là một kiểu dạng của sở hữu tư nhân mà xem nó như là kết quả phát triển
hoàn bị từ những hình thái sở hữu tư nhân trước đó trong lịch sử, khiến cho nó
hoàn toàn khác trước. Cũng là sở hữu tư nhân, song trong chế độ nô lệ, những
người chủ nô không những sở hữu các điều kiện vật chất của sản xuất mà còn sở
hữu bản thân các nô lệ như là những “công cụ biết nói”, còn trong chế độ phong
kiến, ruộng đất – tư liệu sản xuất chính- thuộc về giai cấp địa chủ, còn những

người nông nô, tuy không phải là nô lệ song vẫn chỉ tồn tại như những kẻ lệ
thuộc (vào ruộng đất và địa chủ). Trong các xã hội này, nền kinh tế là nền kinh tế
tự nhiên, dựa nhiều vào ruộng đất cũng như các nguồn lực tự nhiên, sẵn có và
quan hệ giữa chủ sở hữu và người lao động là quan hệ chi phối – lệ thuộc một
cách trực tiếp. Trong khi đó, ở xã hội tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế là nền kinh tế
hàng hóa phổ biến – một nền kinh tế thị trường đích thực, rộng khắp và quan hệ
giữa nhà tư bản với tư cách là người sở hữu các phương tiện sản xuất và người
lao động là quan hệ giữa các cá nhân độc lập. Vì thế, sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa là một kiểu dạng hoàn toàn khác biệt về chất so với sở hữu tư nhân của các
xã hội tiền tư bản.
Đối với Mác, sản xuất TBCN là một dạng sản xuất hàng hóa phổ biến được
phát triển lên từ sản xuất hàng hóa giản đơn. Ông luôn luôn khẳng định: sở hữu
tư nhân là một trong hai điều kiện cho sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng
hóa (Mác, 1993c). Chính trên nền tảng của sở hữu tư nhân mà những người sản
xuất hàng hóa cần phải trao đổi với nhau. Phân công lao động chia tách họ với
nhau, đồng thời sự trao đổi hàng hóa lại liên kết họ với nhau. Chỉ trong chế độ sở

6


hữu tư nhân, khi những người sở hữu hàng hóa đối diện với nhau như những chủ
thể kinh tế độc lập, khi những người này không có khả năng chiếm đoạt sản phẩm
của người khác thông qua sự phân phối trực tiếp hay các quan hệ cống nạp, các
giao dịch thị trường mới trở nên cần thiết. Quan điểm này của Mác là nhất quán.
Vì cho rằng CNXH với tính cách là sự phủ định của CNTB sẽ được thiết lập trên
cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, Mác luôn hình dung trong CNXH sẽ
không còn sản xuất hàng hóa (Mác, 1993b). Trong các mô hình CNXH hiện thực
trước đây, khi phải nhân nhượng với thực tiễn về sự tồn tại của các quan hệ hàng
hóa- tiền tệ, các nhà lý luận mác-xit phải sửa đổi một cách sai lầm luận điểm này
của Mác bằng cách lý giải rằng: trong CNXH, sự tách biệt tương đối giữa các chủ

thể kinh tế (chứ không nhất thiết là sở hữu tư nhân) là cơ sở của các quan hệ hàng
hóa, quan hệ thị trường1. Tuy nhiên, trên thực tế, một khi sở hữu tư nhân không
được thừa nhận hoặc không được thừa nhận một cách đúng mức, các quan hệ thị
trường không thực sự phát triển và phát triển một cách lành mạnh.
Từ cách lý giải của Mác có thể thấy kinh tế thị trường đích thực với tính
cách là nền kinh tế hàng hóa phổ biến phải dựa trên nền tảng: quyền sở hữu tư
nhân phổ biến về các tài sản được xác lập và thừa nhận. Ở thời của Mác, công
nhân nói chung có thể không có tư liệu sản xuất song điều đó không hàm nghĩa là
họ không có quyền sở hữu các tư liệu sản xuất một khi họ là những cá nhân độc
lập và tự do, không lệ thuộc trực tiếp vào người khác. Họ có quyền sống, quyền
lao động tức quyền tự do sử dụng ít nhất là thứ tài sản mà mình có như thân thể,
kiến thức, kỹ năng…, những thứ quyền mà người nô lệ hay nông nô trong các xã
hội trước đây không có. Chính điều này mở ra tiềm năng để họ có thể sở hữu các
tài sản vật chất khác một khi năng suất lao động xã hội tăng lên, các điều kiện xã
hội khác xuất hiện cho phép họ chuyển hóa những năng lực lao động của mình
thành tiền bạc, tài sản nhiều hơn – điều mà thời Mác về cơ bản chưa xảy ra. Mặt
khác, chính tính chất phổ biến của quyền tư hữu về các tài sản, với việc thủ tiêu
các quan hệ thống trị - lệ thuộc cá nhân trực tiếp khiến cho các quan hệ thị trường
trở nên phổ biến2.

1 Chẳng hạn xem: Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Đình Kháng, Nguyễn Văn Luân và
Nguyễn Xuân Khoát (Eds), (2002), tr.50. Nhiều giáo trình sau này vẫn trình bày như vậy.
2 Ở chỗ này người ta hay nhầm lẫn khi cho rằng kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của CNTB,
mà là sản phẩm chung, đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Sự thực, trong các xã
hội tiền tư bản, các quan hệ thị trường chỉ là những quan hệ bên lề, thứ yếu, bị chi phối bởi các quan hệ kinh
tế tự nhiên.

7



Tuy nhiên, lát cắt thứ hai cho thấy, chúng ta cần thận trọng hơn khi tiếp thu
một số luận điểm cụ thể của Mác về chế độ sở hữu TBCN (cũng như các quan
điểm có tính chất dự báo của ông về chế độ sở hữu trong CNXH mà ở phần sau
bài viết này sẽ phân tích). Các luận điểm kinh tế trong học thuyết của Mác, theo
đúng tinh thần triết học của ông, suy đến cùng, cũng chỉ là sự phản ánh những
điều kiện thực tế của thời đại công nghiệp đại cơ khí thời Mác. Chúng cần được
kiểm nghiệm lại theo tinh thần “thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”. Từ khi Mác
mất đến nay (2018), 135 năm đã trôi qua và thế giới đã có quá nhiều đổi khác. Vì
thế, sẽ là dễ hiểu nếu có những luận điểm mà Mác nêu lên và từng được thừa
nhận rộng rãi song giờ đây không còn giải thích được thế giới ngày nay nữa.
Khi đối chiếu với thực tiễn, chúng ta thấy cho đến nay CNTB chẳng những
chưa sụp đổ như lý thuyết Mác dự báo mà vẫn tiếp tục tồn tại với những sức sống
mới phù hợp với các điều kiện phát triển mới của nền kinh tế tri thức. CNXH
hiện thực – vốn xuất hiện không phải ở những nước tư bản phát triển nhất giống
như tiên liệu của Mác, trên thực tế đã không tạo ra được NSLĐ cao hơn hẳn
CNTB, mới thực sự sụp đổ. Các nước vẫn tiếp tục con đường XHCN như Trung
Quốc, Việt Nam…đều phải tiến hành cải cách, đổi mới theo hướng chuyển từ một
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường – vốn bị phủ nhận
trong mô hình CNXH cũ. Những bằng chứng thực tiễn như vậy đòi hỏi phải cắt
nghĩa, thẩm định lại những luận đề trên của Mác.
Luận đề nhấn mạnh sự xung đột (chứ không phải hợp tác) giữa tư bản và lao
động cũng như tính chất bóc lột của quan hệ sản xuất TBCN dựa chủ yếu trên các
luận điểm: 1. Lao động là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị (hàng hóa); 2. Giá trị
sức lao động của người công nhân làm thuê (theo Mác, đó là cái mà tiền lương
xoay quanh) được quy về giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức
lao động của người công nhân. Luận điểm thứ nhất có nguồn gốc từ những nhà
kinh tế học trước Mác (khởi thủy từ W. Petty). Nó ra đời trong hoàn cảnh mà thời
đại kinh tế nông nghiệp (theo một cách phân kỳ khác, người ta cho rằng lịch sử
sản xuất xã hội của loài người diễn tiến theo trình tự: kinh tế nông nghiệp, kinh tế
công nghiệp và hiện nay đang bước vào kỷ nguyên kinh tế tri thức) về căn bản

còn đóng vai trò thống trị. Trong thời đại đó, lao động (cơ bắp) là nguồn lực quan
trọng nhất, dẫn dắt, chi phối các quá trình tạo ra của cải. Lý luận giá trị - lao
động, vì vậy chính là sự phản chiếu tầm quan trọng có tính chất lịch sử của nguồn
lực này. Khi thời đại kinh tế nông nghiệp bị vượt qua và lùi sâu vào quá khứ, lý
luận giá trị - lao động cũng mất dần chỗ đứng trong các lý thuyết kinh tế học hiện

8


đại. Nó được thay thế bằng các lý thuyết mới giải thích tốt hơn các yếu tố chi
phối sự vận động lên, xuống của giá cả và tiền lương (ví dụ nổi tiếng được các
nhà kinh tế sau này dùng để phản bác lý luận giá trị - lao động là: giá trị của viên
ngọc trai tự nhiên không chỉ bao gồm lao động mà người thợ mò ngọc trai kết
tinh vào. Chính vì nó có giá trị nên người ta mới đi mò ngọc trai chứ không phải
ngược lại). Các lý thuyết này cũng không còn xem tiền lương là hình thức biểu
hiện của giá trị sức lao động, trong đó giá trị sức lao động của người công nhân
làm thuê được quy về giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao
động của họ (Mác, 1993c), vì điều đó rõ ràng không đúng với hiện thực của các
nền kinh tế hiện đại. Nó đặc biệt không giải thích được hiện tượng tiền lương cao
một cách ổn định, phổ biến của những người có khả năng lao động đặc biệt như
các vận động viên, các ca sỹ hay các CEO tài năng3. Khi cho rằng tiền lương bị
quy định bởi giá trị sản phẩm biên của lao động, kinh tế học hiện đại giải thích
chính xác hơn bản chất tiền lương, tiền công của mọi loại hình lao động.
Ngoài ra, khác với thời của Mác, ngày nay nhiều người trung lưu hay giàu
có vẫn có thể là những người làm thuê mặc dù họ không phải là những người
hoàn toàn không có tư liệu sản xuất. Theo Mác, một trong các điều kiện để sức
lao động trở thành hàng hóa, do đó lao động trở thành lao động làm thuê, là tình
trạng không có tư liệu sản xuất của những người lao động. Trong nền kinh tế hiện
đại, nhất là khi khu vực dịch vụ ngày càng lớn mạnh, một người vừa có thể là
người làm thuê ở chỗ này song lại là ông chủ kinh doanh ở chỗ khác. Người ta

cũng có thể vừa là lao động làm thuê song đồng thời cũng là cổ đông của chính
doanh nghiệp nơi mình làm việc.
Trước đây, Mác hình dung vị trí chức năng trong hệ thống sản xuất giữa tư
bản và lao động là tương đối cố định do quan hệ giữa hai nhóm xã hội này luôn
có khả năng tự tái tạo. Người công nhân do chỉ nhận được những đồng tiền lương
ít ỏi, chỉ đủ duy trì đời sống của mình và gia đình mình, cho nên họ bị cột chặt
vào thân phận của người không có tư liệu sản xuất và buộc phải đi làm thuê.
Ngày nay, cùng với sự tiến bộ về khoa học và công nghệ, với sự gia tăng về mức
trang bị vốn (hiện vật) trên mỗi đơn vị lao động, sản phẩm biên do lao động tạo
ra tăng lên là cơ sở cho tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động
được cải thiện dần theo thời gian. Mặt khác, hệ thống an sinh xã hội được thiết
lập và ngày càng được hoàn thiện, các cơ hội tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế
3 Không hiếm cầu thủ ở các câu lạc bộ bóng đá châu Âu hiện có mức lương trên 100.000 bảng/tuần. Số tiền
này vượt xa nhu cầu tái sản xuất ra sức lao động của họ và gia đình họ.

9


dần dần được mở rộng cho mọi người dân trong các nước phát triển. Nói cách
khác, các thể chế kinh tế thị trường hiện đại đã khiến cho tính linh động xã hội
trở thành một thực tế, do đó, một người vốn xuất thân nghèo khó vẫn có thể vươn
lên thành người giàu có và ngược lại. Địa vị của mỗi người trong hệ thống sản
xuất xã hội ngày càng phụ thuộc vào việc tích lũy vốn nhân lực (tri thức, kỹ năng,
nghị lực, ý chí…) hơn là các nguồn lực vật chất. Do tính linh động xã hội này mà
ranh giới, hố ngăn cách giữa các giai cấp trong xã hội trở nên mờ nhạt hơn.
Những điều nói trên cho thấy toàn bộ các quan hệ sản xuất hiện thực của các
xã hội thị trường hiện đại, vốn cần thiết để hiểu chân xác hơn quan hệ sở hữu
trong các xã hội này như chính Mác gợi ý, đã khác xa so với chính các quan hệ
này ở thời Mác. Sự thật thì ở thời Mác, tính chất gay gắt của sự xung đột giai cấp,
xã hội là không thể phủ nhận và đó là cơ sở thực tiễn cho dự báo của Mác về sự

sụp đổ không tránh khỏi, trong một tương lai gần của CNTB thời Ông. Sự xung
đột này bắt nguồn từ thế yếu tương đối của những lao động nghèo khó trong quan
hệ giao dịch giữa tư bản và lao động khi mà nỗ lực làm giàu của các nhà tư bản
hay những người tư hữu bị dẫn dắt bởi lòng tham không được chế ngự, mặc dù
cũng chính nỗ lực ấy có thể đem lại sự thịnh vượng chung cho xã hội như A.
Smith khẳng định (Smith, 1997). Tuy nhiên, thực tế, như ta đã biết, sự sụp đổ của
CNTB hay của hệ thống kinh tế thị trường dựa trên quyền tư hữu phổ biến đã
không xảy ra. Một mặt, nó chứng tỏ được sức sống mãnh liệt của mình vì nó phù
hợp với giai đoạn lịch sử mà con người về căn bản còn là những người tư lợi,
những người hành động trước hết vì lợi ích cá nhân thiết thân của mình. Dựa trên
nền tảng quyền tư hữu được tôn trọng và bảo vệ, hệ thống này khuyến khích các
cá nhân khai thác hữu hiệu các tài sản và các tiềm năng của mình trong các hoạt
động sản xuất, trao đổi nhằm tối đa hóa các lợi ích bản thân. Tất cả những điều đó
tạo ra sự năng động và thịnh vượng của các nền kinh tế thị trường. Vì lẽ đó, trong
hai trăm năm qua, bất chấp những thay đổi khác nhau trong hệ thống này, “chế độ
tư hữu vẫn tiếp tục đóng vai trò trung tâm”, quyền tư hữu không những không
yếu đi mà ngày càng được củng cố và mở rộng ở mức độ tinh vi hơn (Tan, 2008).
Mặt khác, nó tiếp tục phát triển nhờ giải pháp tự hoàn thiện mình, thông qua việc
phát triển các thể chế để bảo vệ các cá nhân ở thế yếu và bất lợi, để trừng phạt
các hành vi kinh doanh gian dối, không lành mạnh và có tính chất lạm dụng (đối
với nhóm yếu thế), do đó, làm giảm đi những xung đột và mâu thuẫn giữa các
nhóm lợi ích. Nhà nước hiện đại ngày càng đóng tốt hơn vai trò là trọng tài (bên
thứ ba) trong các giao dịch thị trường (Tan, 2008) thông qua việc ban hành và

10


cưỡng chế thực thi các quy tắc, luật lệ cần thiết cho sự hoạt động hiệu quả của
khu vực tư nhân. Các chức năng của nhà nước cũng được mở rộng để đối phó với
các “thất bại thị trường”, bảo vệ cạnh tranh tự do (chống độc quyền, hiệu chỉnh

ngoại ứng, cung cấp hàng hóa công, ổn định kinh tế vĩ mô…). Các hệ thống an
sinh xã hội được thiết lập, các chính sách phân phối lại được áp dụng để hạn chế
sự bất bình đẳng thu nhập. Sự mở rộng và hoàn thiện không ngừng vai trò của
nhà nước với tư cách là một thể chế cung cấp các dịch vụ công vừa giúp duy trì
hoạt động lành mạnh của thị trường tự do, vừa bổ sung và khắc phục các khiếm
khuyết của thị trường. Quy mô của khu vực công trong các nền kinh tế thị trường
hiện đại lớn hơn nhiều so với thời Mác, song đó không phải lực lượng thay thế
khu vực tư (Phí & Trần, 2014).

4. Về quan niệm của C. Mác về chế độ sở hữu trong CNXH
Các luận điểm của Mác về CNXH và chế độ công hữu đặc trưng của nó,
hoàn toàn chỉ là những phác thảo, có tính chất như những dự báo về những cái có
thể xuất hiện trong xã hội tương lai. Những dự báo này được khai triển dưới lăng
kính thực tiễn của thời Mác – tức chúng được ngoại suy từ những “dấu hiệu báo
trước của cái cao hơn” (CNXH) mà Mác nhận ra trong chính cơ thể của “loài
động vật cấp thấp” (CNTB). Phép ngoại suy đó được rút ra từ quan niệm của Ông
về sự phát triển lịch sử như một tiến trình tuyến tính, tự nhiên, theo đó CNTB tất
yếu sẽ sụp đổ và chế độ sở hữu tư nhân TBCN sẽ bị thay thế bằng một hình thức
đối nghịch: chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất. Mác cho rằng sự thay thế
này là một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ những mâu thuẫn nội tại của CNTB.
Đó trước hết là mâu thuẫn giữa một bên là tính chất xã hội hóa ngày càng gia
tăng của nền sản xuất với một bên là quan hệ sở hữu tư nhân TBCN. Về mặt xã
hội, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa giai cấp của những người lao
động làm thuê, bị bóc lột với giai cấp tư sản – những kẻ bóc lột. Lô gic phát triển
tự nhiên của CNTB là CNCS (mà giai đoạn đầu là CNXH) với tư cách là một
hình thái kinh tế - xã hội thay thế cao hơn. Áp dụng nguyên tắc phủ định của phủ
định, Mác hình dung trong hệ thống kinh tế của xã hội mới, chế độ tư hữu TBCN
sẽ bị xóa bỏ và được thay thế bằng chế độ công hữu, phù hợp với tính chất xã hội
hóa của nền sản xuất. Với việc thiết lập chế độ công hữu, CNXH, theo hình dung
lý thuyết của những người mác-xit, chẳng những có thể xóa bỏ chế độ người bóc

lột người mà còn tạo ra một NSLĐ cao hơn hẳn so với CNTB, thông qua việc tổ
chức một nền sản xuất có kế hoạch trên phạm vi toàn xã hội. Bản chất kinh tế của

11


CNXH như vậy thường được đồng nhất với chế độ công hữu. Trong mô hình
CNXH hiện thực, các nước XHCN cũ rõ ràng tuân theo chỉ dẫn này của Mác .
Như vậy, giải pháp mà Mác đề xuất nhằm khắc phục những mâu thuẫn vốn
có trong hệ thống kinh tế thị trường TBCN là hoàn toàn khác với giải pháp tự
hoàn thiện bên trong hệ thống này như đã trình bày ở trên. CNXH ở Liên Xô và
các nước XHCN khác trước đây đã tồn tại trong một khoảng thời gian không
ngắn để “hiện thực hóa” và kiểm nghiệm những dự báo của Mác. Nếu căn cứ vào
‘tiêu chuẩn thực tiễn” thì câu trả lời là rõ ràng.
Tuy nhiên, điều cần làm rõ là: sự sụp đổ của CNXH hiện thực (kiểu cũ) có
là tất yếu, bắt nguồn từ những khiếm khuyết nội tại hay chỉ là do những sai lầm
chủ quan, nhất thời của những người lãnh đạo? Liệu việc thay thế chế độ tư hữu
phổ biến bằng chế độ công hữu phổ biến có làm nền kinh tế vận hành hiệu quả
hơn, và có triệt để xóa bỏ được bất công, bóc lột, thực hiện công bằng xã hội như
lý tưởng và mục tiêu mà CNXH theo đuổi?
Việc thủ tiêu chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất như ở các nước XHCN cũ dẫn đến sự chi phối tập trung và toàn diện của nhà
nước đối với các quá trình sản xuất, trước hết là đối với sự phân bổ các nguồn lực
đầu vào cho các hoạt động kinh tế, hình thành nên hệ thống kinh tế kế hoạch hóa
tập trung. Đây được xem là cơ chế khắc phục tính tự phát cố hữu của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, do đó, đảm bảo tính hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Lập
luận về ưu thế vượt trội của cơ chế phân bổ các nguồn lực đầu vào cho sản xuất
một cách tập trung thông qua nhà nước, dựa trên nền tảng chế độ công hữu, thực
tế phải dựa vào các giả định ngầm về một nhà nước hoàn hảo và con người, với
tư cách là các tác nhân kinh tế, khi không còn là những kẻ tư hữu sẽ thay đổi

động cơ của mình để trở thành những người không tư lợi. Về nguyên tắc, nhà
nước luôn phải hoạt động vì ý chí, mong muốn và lợi ích chung của xã hội và nó
cũng luôn có năng lực để nhận biết chính xác sở thích và lợi ích chung đó. Nó
cũng có đầy đủ thông tin và năng lực để đề ra và triển khai các quyết định phù
hợp với lợi ích chung của toàn xã hội, đảm bảo cho nền kinh tế luôn hoạt động
nhịp nhàng, cân đối, hiệu quả. Đồng thời các cá nhân luôn biết hy sinh lợi ích
riêng của mình để phụng sự cho lợi ích chung 4. Đây là các giả định rất thiếu thực
4 Vì thế, ở các nước XHCN trước đây, người ta luôn có khuynh hướng phủ nhận hay hạ thấp lợi ích cá nhân,
thậm chí “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” được xem là khẩu hiệu chính thống. Khi phải thừa nhận tính chính
đáng của lợi ích cá nhân, người ta lại kêu gọi phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể và lợi ích xã hội, trong đó lợi ích xã hội phải được được đặt cao hơn lợi ích cá nhân, lợi ích tập

12


tế. Con người nằm trong và ngoài bộ máy nhà nước thường không phải là những
cá nhân lý tưởng. Họ vẫn luôn có những sở thích, lợi ích khác nhau (ngay cả khi
họ là người đồng sở hữu các tài sản chung của xã hội), có khả năng xung đột
nhau. Lợi ích cá nhân vẫn là động cơ chi phối hành vi của họ song các cơ hội để
họ theo đuổi lợi ích riêng thông qua các hoạt động sản xuất và trao đổi đã bị thu
hẹp đáng kể khi các quan hệ thị trường và quyền tư hữu bị loại bỏ. Để đạt được
lợi ích của mình, họ buộc phải thăng tiến trên các nấc thang quyền lực hành chính
trong bộ máy nhà nước, hay các tổ chức xã hội khác (bao gồm cả các “doanh
nghiêp”) vốn có thiên hướng bị nhà nước hóa. Sự theo đuổi quyền lực cũng như
sự mâu thuẫn giữa lợi ích xã hội chung và lợi ích cá nhân là cơ sở khách quan có
thể dẫn tới sự lạm dụng quyền lực nhà nước. Ngoài ra, năng lực ra, triển khai
quyết định công của nhà nước cũng luôn bị chế ước bởi khả năng thu thập thông
tin, khả năng kiểm soát các hành vi phản ứng của người dân trước chính sách của
nhà nước, bởi tính quan liêu cố hữu của bộ máy nhà nước. Ra quyết định trong
khu vực công là quá trình ra quyết định tập thể, phức tạp. Một khi quyền lực

cưỡng chế đặc biệt của nhà nước bị lạm dụng, đồng thời năng lực của nhà nước là
hạn chế thì việc ra quyết định đó cũng như cơ chế phân bổ nguồn lực tập trung
qua nhà nước sẽ biến dạng thành kiểu cơ chế “xin – cho” và trở nên không hiệu
quả.
Mặt khác, trong điều kiện chế độ sở hữu công cộng, thực hiện thông qua sở
hữu nhà nước, tư cách đồng sở hữu của các cá nhân, trên thực tế, lại không đem
lại quyền lực ra quyết định đối với các tài sản chung ngang nhau giữa họ. Sự bất
cân xứng về thông tin cũng như về vị thế quyền lực trong việc ra quyết định đem
lại lợi thế hơn hẳn cho một số người – những người nắm quyền lực trong bộ máy
nhà nước. Dựa vào những điều này họ có thể chiếm đoạt tài sản công để thu lợi
riêng. (Tham nhũng trong trường hợp này trở thành một hình thức bóc lột). Điều
này nằm ở trong bản chất của chế độ công hữu tuyệt đối: Người ta có thể chiếm
dụng tài sản hay hàng hóa của xã hội mà không cần trao đổi, mua bán một cách
ngang giá (Phí, 2011).
Khác với chế độ tư hữu, trong chế độ công hữu, mọi người có khuynh
hướng đối xử với tài sản chung như một cái gì đó không hoàn toàn thuộc về
mình. Cơ chế chia sẻ lợi ích và chi phí trong việc sử dụng tài sản công giữa
những người đồng sở hữu không tạo ra động lực để những người được giao quản
thể. Trên thực tế, hệ thống kinh tế XHCN không thiết lập được một cơ chế hữu hiệu để hài hòa hóa các lợi
ích này như hệ thống kinh tế thị trường.

13


lý các tài sản công phải hướng đến các quyết định hiệu quả. Cả phần thưởng lẫn
mức phạt đối với họ là không đáng kể so với hệ thống khuyến khích tự nhiên theo
kiểu tư nhân. Cơ chế này cũng không tạo ra động lực đủ mạnh để khuyến khích
những người đồng sở hữu còn lại – những người dân hay người lao động bình
thường tích cực tham gia vào việc giám sát, bảo vệ tài sản công nếu như điều đó
đòi hỏi họ phải bỏ ra một sự nỗ lực hay hy sinh đáng kể nào đó. Ở đây người ta

lại vấp phải vấn đề “kẻ ăn không” (free rider) như trường hợp xảy ra đối với các
hàng hóa công cộng. Tất cả những điều này có thể thấy rõ trong sự vận hành của
hệ thống các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nơi mà sự xung đột lợi ích giữa
người sở hữu (toàn dân chẳng hạn) tài sản công với những người được ủy nhiệm
quản lý tài sản là khó kiểm soát và xử lý một cách có hiệu quả. (Vấn đề phi hiệu
quả còn trầm trọng hơn khi thực tế, các doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động
trong môi trường thiếu vắng cạnh tranh, ít bị đối diện với nguy cơ phá sản do sự
che chắn và thiên vị của nhà nước. Hơn nữa, trong các DNNN, do tài sản doanh
nghiệp không phải là tài sản của các cá nhân xác định, người ta khó có khả năng
thiết kế, thực thi cơ chế thưởng, phạt đủ mạnh, hữu hiệu đối với các cá nhân
giống như các doanh nghiệp tư nhân (Stiglitz, 2000)).
Khi chế độ công hữu được xác lập toàn diện, người lao động, về cơ bản, trở
thành người không có tài sản tư hữu, thì phân phối theo lao động tự nhiên trở
thành nguyên tắc chi phối sự phân chia các kết quả đầu ra. Nó cũng được xem là
cơ chế phân phối mang tính công bằng. Tuy nhiên, sự không hiệu quả trong việc
phân bổ và sử dụng các nguồn lực đầu vào, như đã phân tích ở trên, cũng đẻ ra
những hệ quả không mong muốn trong lĩnh vực phân phối kết quả đầu ra. Thứ
nhất, sự mất mát hiệu quả chung sẽ làm giảm phúc lợi và mức sống chung của
toàn xã hội. Thứ hai, sự phân bổ lao động theo cơ chế tập trung không dựa trên sự
lựa chọn phù hợp với năng lực và sở thích của các cá nhân cũng làm giảm phúc
lợi của họ. Thứ ba, việc thiếu vắng một thước đo khách quan để đo lường số
lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đóng góp khiến cho phương thức
phân phối theo lao động không tránh khỏi mang tính chất của một lối phân phối
tương đối bình quân, cào bằng đối với đại đa số người lao động. Thứ tư, những
lạm dụng vị thế quyền lực khác nhau trong bộ máy nhà nước, vốn được ủy nhiệm
quản lý toàn bộ các nguồn lực kinh tế của xã hội, sẽ sản sinh một tầng lớp đặc
quyền, đặc lợi, trái ngược với nguyên tắc công bằng xã hội.
Tính chất phân phối có tính chất bình quân hóa đối với số đông người lao
động, việc hình thành cơ chế đặc quyền, đặc lợi đối với một nhóm nhỏ có khả


14


năng lạm dụng quyền lực nhà nước cùng với tính thiếu hiệu quả của cơ chế phân
bổ nguồn lực, rõ ràng xung đột với mục tiêu của CNXH và không tạo ra được
những động lực cần thiết cho sự phát triển dài hạn của nền kinh tế. Đó là lý do
sâu sa, bên trong giải thích sự sụp đổ của hệ thống XHCN cũ.

5. Kết luận
1. Những phân tích ở trên cho thấy: chừng nào mà con người về căn bản vẫn là
những người tư lợi và việc theo đuổi lợi ích cá nhân vẫn là động cơ thiết thân chi
phối các hành vi kinh tế của họ thì chừng đó hệ thống kinh tế thị trường, dựa
trên nền tảng tôn trọng và bảo vệ quyền tư hữu vẫn phát huy được sức sống của
mình. Đồng thời, trong hoàn cảnh ấy, chế độ công hữu thường bộc lộ nhiều
khiếm khuyết và tỏ ra là phi hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, sở hữu công,
khu vực công vẫn luôn tồn tại. Tuy nhiên, ở đây chúng đóng vai trò như là một
yếu tố bổ sung cần thiết cho sở hữu tư, khu vực tư nhằm đảm bảo cho nhà nước
thực hiện được chức năng sữa chữa thất bại thị trường, hơn là hình thái sở hữu
hay khu vực kinh tế thống trị hay chủ đạo.
2. Mác là nhà tư tưởng và học giả vĩ đại có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử tư
tưởng nhân loại. Ông là người nhìn ra và phê phán một cách sâu sắc những
khuyết tật của hệ thống sản xuất TBCN, truyền cảm hứng cho các phong trào xã
hội nhằm thay đổi và cải tạo thế giới. Sự dích dắc của lịch sử tuy không đi theo
con đường mà Mác hình dung, song rõ ràng, những thay đổi to lớn trong thế giới
ngày nay, kể cả ở những nước tư bản phát triển, chịu tác động không nhỏ từ sự
phê phán và những phong trào như vậy.
Cái mà Mác để lại cho những người hậu thế chia sẻ lý tưởng XHCN của ông
không phải là sơ đồ chi tiết về cách thức xây dựng một xã hội tương lai mà là
những chỉ dẫn có tính cách phương pháp luận, được kiểm nghiệm nghiêm ngặt
bởi nguyên tắc “thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”. Tiếp thu di sản của Mác trên

tinh thần đó sẽ giúp chúng ta có thể từ bỏ được những thiên kiến về vấn đề sở
hữu, trong đó có việc đánh đồng CNXH với chế độ công hữu, để tiếp tục thúc đẩy
tiến trình Đổi mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mác C., & Ăng ghen, Ph. (1976). Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (Bản dịch
tiếng Việt). Hà nội: Nxb Sự thật.

15


2. Mác, C. (1988a). Sự khốn cùng của triết học (Bản dịch tiếng Việt). Hà Nội:
Nxb Tiến bộ Mat-xcơ-va và Nxb Sự thật.
3. Mác, C. (1988b). Thư gửi J. B. Schweizer 24 Jan. 1865. Trong phụ lục C.
Mác, Sự khốn cùng của triết học. Hà Nội: Nxb Tiến bộ Mat-xcơ-va và Nxb
Sự thật.
4. Mác, C. (1993a). Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (Bản dịch tiếng
Việt). Trong C. Mác, Ph. Ănghen, toàn tập, tập 13. Hà Nội: Nxb Chính trị
Quốc gia.
5. Mác, C (1993b). Phê phán cương lĩnh Gôta. Trong C. Mác, F. Ănghen, toàn
tập, tập 19 (Bản dịch tiếng Việt). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
6. Mác, C. (1993c). Tư bản, Quyển 1. Trong C. Mác, F. Ănghen, toàn tập, tập
23 (Bản dịch tiếng Việt). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
7. Mác, C. (1994). Tư bản, Quyển 3. Trong C. Mác, F. Ănghen, toàn tập, tập 25
(Bản dịch tiếng Việt), tr.270. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia
8. Mác, C. (1998). Các bản thảo kinh tế những năm 1857 – 1859. Lời nói đầu
(Bản dịch tiếng Việt). Trong C. Mác, Ph. Ănghen, toàn tập, tập 46, Phần I.
Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật.
9. Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Đình Kháng, Nguyễn

Văn Luân, Nguyễn Xuân Khoát (Eds), (2002). Giáo trình Kinh tế chính trị
Mác – Lênin (dùng cho các khối ngành không chuyên kinh tế- quản trị kinh
doanh trong các trường đại học, cao đẳng). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
10. Phí Mạnh Hồng (2011). Vấn đề phân phối trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 1 (392), 3 – 9.
11. Phí Mạnh Hồng, & Trần Đình Thiên (2014). Quan niệm và tính thực tiễn của
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 3 (430), 31 – 37.
12. Smith, A. (1997). Của cải của các dân tộc (Bản dịch tiếng Việt). Hà Nội:
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Stiglitz, J. E. (2000). Economics of the Public sector. New York, NY: W.W.
Norton & Company
14. Tan, Li (2008). Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp (Bản dịch tiếng Việt). TP
Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.

16



×