Suy ng ẫ m v ề quan h ệ th ươ ng m ạ i Vi ệ t - Trung
Việt Nam không có quy chế ràng buộc đối với hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc. Còn phía bạn thường đề ra và thay đổi xoành xoạch những quy định
về kiểm định, về mức phí nhập cảnh… , khiến doanh nghiệp của ta nhiều
phen điêu đứng, nhất là những nhà buôn hoa quả, thủy sản tươi, mủ cao su.
Những năm qua, thường nghe rằng quan hệ thương mại Việt – Trung phát
triển mạnh, Trung Quốc trở thành bạn hàng hàng đầu, thị trường trọng điểm
của Việt Nam. Tổng kim ngạch hai chiều tăng nhanh, bình quân 40%/năm,
luôn đạt sớm mục tiêu mà Lãnh đạo cấp cao hai nước thỏa thuận.
Năm 2007, kim ngach thương mại hai nước đạt 15 tỷ USD – mục tiêu đặt ra
đến năm 2010, khiến mục tiêu năm 2010 được dịch lên mốc 20 tỷ USD.
Trong tổng kim ngạch hai chiều giữa hai nước, phần thương mại biên giới
Việt - Trung thường chiếm trên dưới 30%. Nhiều giải pháp liên tục được
đưa để đưa quan hệ đó lên tầm cao mới tương xứng với 16 chữ vàng.
Những nhận xét đó chỉ đúng một phần. Cụm từ “thương mại hai chiều” bị
lạm dụng, cán cân thương mại chưa khi nào được rạch ròi và đặt nó trong
cán cân thương mại toàn cục, khiến tạo ra ảo giác, không thấy thực chất vấn
đề, chỉ nói triển vọng, ít phân tích những bất cập, nếu có cũng chỉ lác đác, dè
dặt.
Với đường đi lối lại trên bộ, đường sông, ven biển đều thuận, Việt Nam có
thể xuất khẩu (XK) sang Trung Quốc nhiều hàng hóa phẩm cấp bình dân,
khoáng sản, nguyên liệu thô, hoa quả, thủy sản tươi sống, khó bảo quản; và
nhập khẩu (NK) từ thị trường này máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu tương
thích với trình độ sản xuất, khả năng thanh toán, đáp ứng nhanh nhu cầu của
nền sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, tự phát…và bổ sung quỹ hàng tiêu dùng
những năm sản xuất của ta còn chới với. Tất cả “lợi lộc” chỉ dừng ở đó, còn
đánh đổi lại bất cập khá nhiều. Bằng những số liệu sưu tầm được lắp ghép
dưới đây, xin cùng suy ngẫm.
Nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc và
So sánh nhập siêu từ Trung Quốc với tổng NS của cả nước
triệu USD
Năm
Chỉ tiêu
2001 2006 2007 2008 2009 KH 2010
VN XK sang
TQ
1.418 3.030 3.356 4.536 4.781 5.000
VN NK từ
TQ
1.629 7.309 12.502 17.123 15.970 16.800
VN nhập
siêu (NS)
210 4.360 9.145 12.587 11.190 11.300
Tỷ lệ NS 14,8% 143,9 % 272,5% 277,5 % 234 % 226%
XK của cả
nước
15.029 39.826 48387 62.685 56.584 60.544
NK của cả
nước
16.217 44.891 60.783 80.714 68.830 72.660
Cả nước NS 1.118 5.065 12.398 18.031 12.246 12.016
Tỷ lệ NS của
cả nước
7,9% 12,7% 25,6% 28,8% 21,6% 19,8%
Tỷ trọng NS
từ TQ/ NS
của cả nước
18,7% 86,0% 73,76% 69,8% 97,1% 94,4%
(Nguồn: Tự lập biểu theo số liệu của Bộ Thương mại, Bộ Công Thương).
Qua đây nói lên điều gì?
1 – Nhập siêu (NS) từ thị trường Trung Quốc ngày càng lớn cả về giá trị
và tỷ lệ tương đối. Năm 2001 nhập siêu từ Trung Quốc là 210 triệu USD,
năm 2009 đã lên tới 11,1 tỷ USD, gấp 52,8 lần, đó là hệ quả tất yếu do XK
của Việt Nam sang Trung Quốc cũng trong thời gian đó chỉ bằng 3,3 lần,
còn NK bằng tới 9,8 lần. Tỷ lệ NS năm 2001 là 14,8%, năm 2006, tỷ lệ đó là
vọt lên 143,89%, từ năm 2007 đến năm 2009 và dự kiến 2010 đều trên 220
%.
2 - Tỷ lệ NS từ Trung Quốc luôn lớn hơn tỷ lệ NS của cả nước. Năm 2001
tỷ lệ NS từ Trung Quốc là 14,8% trong khi tỷ lệ NS của cả nước là 7,9%. Từ
năm 2006, các cặp số tương ứng vẫn “tuân thủ quy luật” đó nhưng độ doãng
cách lớn hơn. Năm 2006 là: (143,9% và 12,7%); năm 2007 là: (272,5 và
25,6%); năm 2008 là: (277,5% và 28,8%); năm 2009 là: (234% và 21,6%);
và dự kiến năm 2010 tình hình sáng hơn, nhưng vẫn tương tự: (226% và
19,8%)
3 - NS từ Trung Quốc chiếm phần lớn tổng NS của Việt Nam. Năm 2001,
tỷ trọng NS từ Trung Quốc chiếm là 18,7% NS của cả nước. Tỷ trọng đó
bình quân 4 năm 2006 -2009 lên 78%, trong đó năm 2008 thấp nhất là 69,85,
năm 2009 cao nhất là 97,1%. Dự kiến năm 2010 là 94,4%. Đây thực sự là
oái oăm của ngoại thương nước ta, là trong khi nhập siêu từ Trung Quốc
luôn áp đảo thì các thị trường khác như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Úc… , ta lại
xuất siêu. Nhưng đáng tiếc hơn là ta chỉ NK ở thị trường này kỹ thuật thấp,
sao chép, thải loại, không tranh thủ được nguồn hàng từ nhưng nền kỹ nghệ
nguồn, hàng đầu thế giới. Những nhà máy xi măng lò đứng, nhà máy đường
một thời đua nhau rước về đã và đang còn đó làm chứng nhân.
3 – Khó thu hẹp NS. Khi XK hầu như chỉ thu được đồng Nhân dân tệ - đồng
tiền này khó mua được hàng từ thị trường khác, nhất là ở các nước phát
triển. Ngược lại vì xuất không đủ, nên ta phải huy động các nguồn ngoại tệ
mạnh để nhập hàng từ Trung Quốc.
Điểm qua danh mục mặt hàng trao đổi sẽ lý giải thêm về điều đó. Hàng của
ta quanh quẩn chỉ là hàng thô, rất thô, hàm lượng thấp hoặc tươi sống khó
bảo quản, thậm chí mủ cao su, than đá…, Trung Quốc là khách hàng chính,
giá đã thấp lại thường bị ép cấp, kim ngạch XK thấp. Còn khi nhập về tiếng
là nhập “nguyên nhiên vật liệu” nhưng đó lại là hàng hóa thực thụ như sắt
thép, phân bón, vật tư nông nghiệp, hóa chất, vải, sợi, da cho dệt may…, giá
ắt sẽ cao dẫn đến tổng kim ngạch NK cao.
4 . Nhiều bất cập khác.
Hàng Trung Quốc vào Việt Nam bằng bất cửa khẩu nào, đường bộ, trên
biển, còn hàng Việt Nam qua Trung Quốc bị buộc phải qua một hoặc một số
cửa khẩu do phía bên đó chỉ định. Cao su chỉ được qua Móng Cái hoặc Lục
Lầm. Thủy hải sản chỉ được qua Móng Cái. Hoa quả tươi chỉ được qua Lào
Cai hoặc Lạng Sơn.
Việt Nam không có quy chế ràng buộc đối với hàng NK từ Trung Quốc. Còn
phía bạn thường đề ra và thay đổi xoành xoạch những quy định về kiểm
định, về mức phí nhập cảnh… , khiến doanh nghiệp của ta nhiều phen điêu
đứng, nhất là những nhà buôn hoa quả, thủy sản tươi, mủ cao su.
Hàng Việt Nam chủ yếu loanh quanh ở các tỉnh phía Nam, Tây Nam Đại
lục. Cá biệt có thứ vào xâu lại thường là hàng được phía Trung Quốc NK
dạng thô mộc sau đó chau chuốt, thêm chi tiết tăng giá trị. Trong khi đó
hàng Trung Quốc vào bất cứ địa chỉ nào của Việt Nam, từ đô thành hạng đặc
biệt đến bản làng hẻo lánh. Ngoài ra, buôn lậu, gian lận thương mại qua biên
giới luôn nhức nhối, trong số đó không ít hàng bị phát giác là mất an toàn vệ
sinh thực phẩm, đồ chơi trẻ em kích động bạo lực , gây ảnh hưởng tiêu cực
đến sản xuất, lưu thông, dân sinh.
Hàng Việt Nam sang Trung Quốc thường là thương hiệu danh tiếng. Hàng
Trung Quốc vào Việt Nam đa phần là hàng địa phương, giá rất bèo, ai cũng
“khuân” dù biết là “tiền nào của ấy. Trong rối rắm này, từ 1/1/2010, khi
Hiệp định khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN có hiệu lực, hai
bên sẽ cùng giảm thuế đối với hàng của nhau, chắc chắn là hàng Trung Quốc
có lợi, bởi sức cạnh tranh cao hơn hẳn hàng Việt Nam, sẽ nhanh chóng lợi
dụng sự ưu đãi thuế quan để đổ vào Việt Nam. Còn phía ta, hy vọng XK
sang Trung Quốc chỉ có khoáng sản thô là cứ vô tư, còn hoa quả, thủy sản
tươi, mủ cao su…. hãy dè chừng, thuế giảm nhưng các rào chắn khác đã sẵn
sàng, các hàng hóa khác hãy… đợi đấy.
Cơ chế thanh toán vẫn sơ khai, tiền trao cháo múc, không an toàn. Ngân
hàng quốc gia hai nước dường như không mặn mà vào cuộc, để dân buôn tự
phát, phấp phỏng rủi ro.
Trước thực tế này, nên luận bàn cho hướng đi tới đạt được sự công bằng
thương mại giữa hai bên theo thông lệ buôn bán quốc tế.
Nguyễn Duy Nghĩa, nguyên phó văn phòng Bộ Thương mại