VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
TẠI CÁC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁNG ĐANG NỔI
Bài viết này muốn nêu lên vai trò của tổ chức định mức tín nhiệm ở các thị trường
chứng khoán đang nổi, qua đó cung cấp một khuôn khổ hiểu biết các vấn đề tối quan
trọng về chính sách cần được xem xét trong việc thành lập một tổ chức định mức tín
nhiệm.
Ở các quốc gia đang phát triển, hầu hết các tổ chức định mức tín nhiệm được thành
lập vào những năm 1990. Ngoài ra chỉ có 5 tổ chức định mức tín nhiệm ở các thị
trường chứng khoán phát triển trước 1975 và 4 trong số này ở Mỹ.
Vai trò của các tổ chức định mức tín nhiệm trong các thị trường tài chính
Một tổ chức định mức tín nhiệm chuyên về dịch vụ đưa ra ý kiến về độ tin cậy tín
dụng của người phát hành chứng khoán. Nó là một ý kiến quan trọng về rủi ro tín
dụng, hay là một đánh giá về khả năng của người phát hành thanh toán nợ gốc và lãi
đúng hạn trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó. Vì vậy, định mức tín
nhiệm phải là một sự đánh giá trước khả năng của người phát hành hoàn trả gốc và
lãi đúng hạn. Bởi vì các công cụ của thị trường tiền tệ là ngắn hạn, nên chúng dễ
đánh giá hơn các loại trái phiếu dài hạn. Định mức tín nhiệm là gồm cả đánh giá định
tính và định lượng về sức mạnh tín dụng của người phát hành. Người phát hành có
thể là các doanh nghiệp, chính quyền địa phương thậm chí là cả một quốc gia trong
trường hợp phát hành nợ của chính phủ. Ngoài các nhân tố về định tính, như là chất
lượng của ban quản trị công ty, các tiêu chuẩn phân tích bao gồm các tỷ số tài chính
chủ yếu như là tỷ lệ sinh lời trên vốn hoặc tài sản, hệ số nợ so với vốn, các hệ số về
tính thanh khoản, thu nhập trên chi phí cố định, dòng tiền so với tổng nợ.
Một định mức tín nhiệm không phải là một lời khuyên mua hoặc bán một chứng
khoán cụ thể nào đó. Ở nhiều quốc gia, điều này có thể là một lưu ý quan trọng trong
việc xác định trách nhiệm pháp lý của một tổ chức định mức tín nhiệm trong trường
hợp vỡ nợ, hoặc sự chấm dứt của một công ty hoặc các tổ chức khác phát hành
chứng khoán. Để thành công, một tổ chức định mức tín nhiệm phải có các đặc điểm
cơ bản, bao gồm:
tính tin cậy,
tính độc lập,
tính khách quan,
kỷ thuật thành thạo,
có đủ các nguồn lực và khả năng tiếp cận các thông tin tin cậy về người phát
hành chứng khoán.
Định mức được biển hiện dưới hình thức các ký hiệu dễ hiểu được thừa nhận bởi
nhà đầu tư. Ví dụ trái phiếu bình thường được xếp hạng từ AAA (nghĩa là ít bị vỡ nợ
nhất) cho đến D (nghĩa là đã bị vỡ nợ rồi) phụ thuộc vào khả năng của người phát
hành trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Ở Mỹ và các thị trường khác, có một vài khác biệt
về ký hiệu và thang bậc được sử dụng. Nói chung, trái phiếu hạng BBB hoặc cao
hơn hoặc Baa được xem là hạng đầu tư. Trái phiếu được xếp hạng thấp hơn được
xem là đầu cơ có thể không thích hợp cho các tổ chức tài chính trung gian hoặc các
nhà đầu tư tổ chức như ngân hàng, các quỹ đầu tư và các công ty bảo hiểm. Các
định nghĩa và các phương pháp được sử dụng trong xác định mức tín nhiệm quan
trọng cho cả nhà đầu tư lẫn các nhà quản lý. Trong những năm gần đầy, định mức
tín nhiệm trái phiếu đã được sử dụng ngày càng thường xuyên hơn bởi các nhà
quản lý ngân hàng và chứng khoán để quản lý các tiêu chuẩn cẩn trọng hoặc xác
định tính thích hợp đầu tư cho một số loại quỹ đầu tư.
Để trở thành tin cậy và hữu ích cho nhà đầu tư, định mức tín nhiệm phải được xem
là đáng tin cậy và khách quan của các chủ thể tham gia thị trường. Để một định mức
đáng tin cậy, tổ chức định mức tín nhiệm phải có kỹ thuật chuyên nghiệp, đủ nguồn
lực tài chính, tiếp cận các thông tin tài chính tin cậy về người phát hành, và các thủ
tục hoạt động nội bộ đưa đến công tác định mức nhất quán và tin cậy. Nói chung các
thủ tục tương tự đang được thực hiện ở cả các thị trường đã phát triển lẫn đang nổi.
Ở hầu hết các quốc gia, định mức tín nhiệm thường được thực hiện theo yêu cầu
của người phát hành. Tuy nhiên, ở Mỹ việc các tổ chức định mức tín nhiệm định giá
chứng khoán không theo yêu cầu của người phát hành không phải là không thường
thấy.
Tính độc lập của các tổ chức định mức tín nhiệm. Tính độc lập của một tổ chức định
mức tín nhiệm là tối quan trọng cho tính tin cậy và thành công cuối cùng cho nhà
cung cấp dịch vụ. Vì vậy, quyền sở hữu và cấu trúc quản lý quan trọng đối với sự
thành công cuối cùng của một tổ chức định mức tín nhiệm. Một tổ chức định mức tín
nhiệm phải tự do từ cả ảnh hưởng chính trị và áp lực lớn từ các tổ chức phải chịu sự
đánh giá tín nhiệm. Có một sự khuyến khích kinh tế mạnh mẽ cho một tổ chức định
mức tín nhiệm duy trì tính độc lập của nó từ cảm nhận của công chúng về tính công
bằng và khách quan trong đánh giá sẽ quyết định sự thành công cuối cùng hoặc thất
bại của một tổ chức định mức tín nhiệm dù cho thị trường mà nó phục vụ là thị
trường đã phát triển, mới nổi hay thị trường quốc tế.
Các loại công cụ được định mức tín nhiệm. Một loạt các công cụ tài chính rộng rãi có
thể phải chịu sự định mức tín nhiệm bao gồm các chứng từ thương mại, trái phiếu
công ty, các công cụ tài chính có cấu trúc và cổ phiếu ưu đãi. Ở hầu hết các quốc
gia, định mức tín nhiệm giới hạn đối với các công cụ thị trường trái phiếu và tiền tệ
nhưng ở một số quốc gia cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi cũng được định mức
tín nhiệm. Không phải là không phổ biến đối với các tổ chức nhận tiền gửi, các quỹ
đầu tư và các tổ chức tài chính khác như khả năng chi trả tiền bồi thường của các
công ty bảo hiểm cũng được định mức. Tính sẵn sàng của định mức tín nhiệm cũng
còn đóng góp cho sự phát triển các sản phẩm tài chính phức tạp như các công cụ tài
chính có cấu trúc. Không có sự sẵn sàng của công tác định mức tín nhiệm của các
tổ chức định mức tín nhiệm, sẽ rất khó bán các sản phẩm này cho các nhà đầu tư tổ
chức tinh vi.
Phí định mức tính nhiệm. Nói chung, hầu hết thu nhập của các tổ chức định mức tín
nhiệm có được từ phí được trả bởi người phát hành chứng khoán. Những nhà phát
hành chứng khoán nợ sẵn sàng trả cho việc định giá với mong đợi rằng một sự định
mức thuận lợi sẽ giúp giảm chi phí vay mượn nói chung của họ. Cụ thể, điều này
đúng cho các công ty nhỏ hơn, ít nổi tiếng hơn, nếu không sẽ không hấp dẫn được
nhà đầu tư. Trong khi các nhà phát hành trả phí cho định mức tính nhiệm với kỳ
vọng chi phí vay mượn thấp hơn, có một khuyến khích mạnh mẽ cho các tổ chức
định mức tín nhiệm phát hành các định mức tín nhiệm chính xác trong đó danh tiếng
của tổ chức định mức tín nhiệm rất quan trọng đến sự sống còn lâu dài về mặt kinh
tế của nó. Trong những năm trước đây, các tổ chức định mức tín nhiệm Mỹ thực
hiện các hoạt động định mức tín nhiệm của họ chủ yếu thông qua phí đặt mua được
trả bởi những người sử dụng định mức tín nhiệm. Vào cuối những năm 1960, các tổ
chức định mức tín nhiệm Mỹ bắt đầu chuyển sang thu phí những người phát hành.
Về mặt này, rất quan trọng để chú ý sự sẵn lòng của người phát hành để trả phí phải
là một hàm số niềm tin của nhà đầu tư vào định mức tín nhiệm như là một tín hiệu
mà tách bạch các chứng khoán về các mức độ rủi ro và cho phép những chứng
khoán có rủi ro thấp hơn thu được doanh thu phát hành cao hơn – một lợi ích mà
người phát hành sẵn lòng để trả.
Các xem xét về luật pháp quản lý. Nói chung, các yêu cầu luật pháp quản lý là một
nhân tố quan trọng trong phát triển dịch vụ định mức tính nhiệm ở cả các thị trường
chứng khoán đã phát triển lẫn mới nổi. Ở các thị trường chứng khoán đã phát triển,
định mức tín nhiệm thường được sử dụng như là một công cụ quản lý để quản lý các
tiêu chuẩn cẩn trọng đối với các công ty chứng khoán và các ngân hàng, hoặc chỉ ra
các đầu tư được phép cho các nhà đầu tư tổ chức như là các quỹ hưu bổng, các
công ty bảo hiểm, hoặc các quỹ thị trường tiền tệ.
Ở Mỹ, định giá tín nhiệm không bắt buộc cho phát hành chứng khoán nhưng nó
được sử dụng rộng rãi để quản lý các tiêu chuẩn luật pháp (như yêu cầu vốn của các
công ty chứng khoán). Ngược lại, định mức tín nhiệm được yêu cầu ở Nhật từ năm
1990 như là một tiền điều kiện cho người phát hành các trái phiếu không có tài sản
đảm bảo.
Ở Nhật, định mức tín nhiệm cũng còn được sử dụng để quản lý các tiêu chuẩn cẩn
trọng như yêu cầu vốn của các công ty chứng khoán. Sự vắng mặt của yêu cầu định
mức tín nhiệm bắt buộc, không có khả năng cho các tổ chức định mức tín nhiệm có
thể tồn tại về mặt kinh tế trong môi trường các thị trường đang nổi. Ở cả châu Mỹ La
tinh và Châu Á, sự bắt đầu của các tổ chức định mức tín nhiệm được kích thích bởi
yêu cầu định mức tín nhiệm bắt buộc liên quan đến phát hành các công cụ nợ bán ra
thị trường.
Lợi ích đối với thị trường vốn. Định mức tín nhiệm các công cụ tài chính cung cấp
cho nền kinh tế bằng cách gia tăng hiệu quả hoạt động của cả thị trường tiền tệ lẫn
thị trường tài chính. Trong khi việc định mức tín nhiệm các công cụ tài chính ngắn
hạn quan trọng đối với toàn bộ hiệu quả của các thị trường tài chính, định mức tín
nhiệm các công cụ tài chính dài hạn hơn (như tín phiếu và trái phiếu) là tối quan
trọng cho sự phát triển của thị trường trái phiếu. Về mặt bản chất các công cụ thị
trường vốn, rủi ro của một sự thay đổi trong độ tin cậy tín dụng của một người phát
hành lớn hơn nhiều so với trường hợp của các công cụ tài chính ngắn hạn. Ngoài ra,
khó khăn hơn cho nhà đầu tư để cân đo các rủi ro này trong thời hạn dài hơn mà
không có sự phân tích chuyên gia định mức tín nhiệm.
Trong một thị trường chứng khoán đang nổi, một tổ chức dịnh mức tín nhiệm có thể
mở rộng thị trường cho các công cụ nợ bằng cách mang đến cho thị trường những
nhà đầu tư mới chưa được khai thác, bao gồm các nhà đầu tư tổ chức trong và
ngoài nước mà có lẽ không thể mua một công cụ thị trường tiền tệ, hoặc trái phiếu
trong sự thiếu vắng định mức tín nhiệm của công cụ đó. Cũng còn có thể kỳ vọng chi
phí phát hành giảm bằng cách cung cấp lợi thế về quy mô trong việc thực hiện các
chức năng điển hình gắn liền với một tổ chức định mức tín nhiệm – tìm kiếm thông
tin, phân tích, công bố và theo dõi. Bởi vì sự gần gũi của chúng và thị trường, các tổ
chức định mức tín nhiệm có thể thúc đẩy việc đối thoại chính sách với các cơ quan
quản lý pháp luật thích hợp liên quan đến phát triển, hoạt động, và quản lý thị trường
tiền tệ và trái phiếu. Một định mức tín nhiệm còn có thể giảm chi phí vốn bằng cách
hỗ trợ công bố thông tin về người phát hành ra thị trường và trong việc thúc đẩy các