BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------
MÈ THỊ HÀ
KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------
MÈ THỊ HÀ
KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số
: 8380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hải An
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
rang, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn
Mè Thị Hà
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
HNGĐ
: Hôn nhân và gia đình
KDTM
: Kinh doanh thương mại
NLHV
: Năng lực hành vi
NLHVTTDS
: Năng lực hành vi tố tụng dân sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TGPL
: Trợ giúp pháp lý
TTDS
: Tố tụng dân sự
VADS
: Vụ án dân sự
VKS
: Viện kiểm sát
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ
VỤ ÁN DÂN SỰ .............................................................................................. 7
1.1. Khái quát về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. .......................................... 7
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự ...................................... 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự ......................... 15
1.2. Một số quy định pháp luật hiện hành về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự .... 19
1.2.1. Các quy định của pháp luật về khởi kiện .............................................. 19
1.2.2.Các quy định của pháp luật về thụ lý vụ án ........................................... 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 45
CHƢƠNG 2.THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHỞI
KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA – KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ......................................................... 46
2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. ............................................ 46
2.1.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La ... 46
2.1.2. Những khó khăn, hạn chế khi thực hiện các quy định pháp luật về khởi kiện
và thụ lý vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La .......... 49
2.1.3. Nguyên nhân của các hạn chế, vướng mắc trong khởi kiện, thụ lý vụ án
dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La ............................ 63
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. .......... 66
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự ... 66
2.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền
khởi kiện vụ án dân sự .................................................................................... 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 74
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân đang là một nhiệm vụ chính trị quan trọng đặt ra cho Đảng,
Nhà nước và được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nhấn mạnh nhiệm
vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử thực hiện
quyền tư pháp có có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Sau khi thống nhất đất nước, trước
đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống Nhà nước ta đã ban hành ba Pháp lệnh về thủ
tục tố tụng: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VADS ban hành ngày
29/11/1989 có hiệu lực ngày 01/01/1990; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế ban hành ngày 06/03/1994; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động ban hành ngày 11/04/1996 cùng các văn bản hướng dẫn về
TTDS, kinh tế, lao động. Đây là những tiền đề pháp lý quan trọng trong việc
thực hiện thủ tục tố tụng tuy nhiên, các quy định về khởi kiện và thụ lý VADS
còn tản mạn, chưa rõ ràng, thống nhất. Đến BLTTDS năm 2004 có hiệu lực
thì về cơ bản các quy định về khởi kiện thụ lý vụ án đã được xây dựng một
cách thống nhất. Có thể nói, đây là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp
của Việt Nam bởi lần đầu tiên các quy định về giải quyết các vụ việc dân sự
được quy tụ trong một văn bản pháp luật giúp cho việc giải quyết diễn ra
thống nhất, một mặt bảo đảm quyền và lợi ích cho các đương sự, mặt khác
giúp Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ chế hợp lý trong việc giải
quyết VADS. Đến năm 2011, BLTT năm 2004 được sửa đổi, bổ sung cùng
với hàng loạt sự thay đổi của các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
TANDTC và các văn bản pháp luật khác. Mặc dù đã có nhiều quy định được
sửa đổi, bổ sung nhưng trong quá trình áp dụng BLTTDS sửa đổi năm 2011
vẫn bộc lộ nhiều hạn chế bất cập ảnh hưởng đến chất lượng khởi kiện và thụ
lý vụ án. Trước tình hình đó, BLTTDS năm 2015 ban hành đã có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng để khắc phục kịp thời những quy định về khởi kiện và
2
thụ lý VADS tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia tố tụng thuận lợi và hiệu
quả nhất. Khởi kiện và thụ lý VADS là những vấn đề cơ bản nhất trong pháp
luật tố tụng dân sự, là cơ sở để khởi động quá trình giải quyết VADS tại Tòa
án. Trên thực tế việc khởi kiện và thụ lý vụ án ở mỗi địa phương lại có những
đặc thù khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như tình hình kinh
tế xã hội, vị trí địa lý,…Bởi vậy, việc nghiên cứu các quy định về khởi kiện
và thụ lý vụ án theo BLTTDS năm 2015 đồng thời nghiên cứu tình hình thực
hiện các quy định đó tại một địa phương cụ thể là một yêu cầu cấp thiết nhằm
đánh giá tính phù hợp của quy định pháp luật trong thực tiễn thi hành. Trên cơ
sở đó, có thể đề xuất các giải pháp hoàn thiện để thực thi các quy định về khởi
kiện và thụ lý vụ án trong BLTTDS năm 2015 đạt hiệu quả cao trên thực tế.
Với những lý do trên, việc lựa chọn đề tài: “Khởi kiện, thụ lý vụ án
dân sự và thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La” để
nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn cao học luật chuyên ngành Luật dân sự
và tố tụng dân sự là cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khởi kiện và thụ lý VADS là những vấn đề cơ bản trong pháp luật tố
tụng dân sự được đề cập trực tiếp cũng như gián tiếp trong nhiều công trình
nghiên cứu khoa học khác nhau như Luận án Tiến sĩ Luật học; Luận văn Thạc
sỹ luật học, các sách chuyên khảo, các bài báo, tạp chí chuyên ngành. Các
công trình nghiên cứu về vấn đề này dưới các góc độ khác nhau vào thời điểm
trước và sau khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực như luận văn thạc sĩ luật học
“Thụ lý VADS - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2009 của tác giả
Liễu Thị Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học “Quyền khởi kiện và bảo đảm
quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự” năm 2011 của tác giả Trần Đức Thành;
luận văn thạc sĩ Luật học “Thụ lý VADS và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện
Biên” của tác giả Lê Hữu Khang, Luận văn thạc sĩ “Khởi kiện, thụ lý VADS
và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân quận Đống Đa” của tác giả Hồ
Thanh Tuyền; Luận văn Thạc sĩ luật học “Quyền khởi kiện với vấn đề xác
định tư cách đương sự trong tố tụng dân sự” của học viên Lê Nguyễn Hồng
Phúc bảo vệ năm 2011; Luận văn Thạc sĩ luật học của học viên Nguyễn Thị
3
Hương bảo vệ năm 2012 tại Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội với để tài
“Khởi kiện VADS theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004”; Luận
văn Thạc sĩ luật học của học viên Trần Thị Lượt bảo vệ năm 2014 với để tài
“Khởi kiện VADS”, Luận văn Thạc sĩ luật học của học viên Bùi Thị Quế Anh
bảo vệ năm 2016 với đề tài “ Khởi kiện VADS và thực tiễn thực hiện tại tỉnh
Điện Biên”.
- Về sách chuyên khảo: có một số công trình như Giáo trình Luật tố
tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội - NXB Công an nhân
dân năm 2017; Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học viện Tư pháp - NXB
Công an nhân dân năm 2007 cũng đã đề cập đến vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ
án nhưng chỉ dừng lại ở mức độ đại cương. Cuốn sách tham khảo “Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011” của
tác giả Nguyễn Đức Mai – NXB Chính trị Quốc gia năm 2012; Cuốn “Bình
luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của tác giả
Nguyễn Thị Hoài Phương – NXB Hông Đức - Hội Luật Gia năm 2016; “Bình
luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Huyền
– NXB Lao động năm 2016, “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” của tác giả Trần Anh
Tuấn – NXB Tư pháp năm 2017 đã đưa ra những nghiên cứu các điểm mới
liên quan đến quyền khởi kiện theo BLTTDS năm 2015 thông qua việc bình
luận các quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong các công trình này vấn đề
quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện vẫn còn tản mạn, chưa được tập
trung nghiên cứu toàn diện.
- Về các bài đăng trên các tạp chí: đã có những bài nghiên cứu có liên
quan đến vấn đề quyền khởi kiện như: bài viết “Vấn đề khởi kiện và thụ lý
VADS” của ThS. Lê Thị Bích Lan đăng tải trên Tạp chí Luật học của Trường
Đại học Luật Hà Nội (Số Đặc san về Bộ luật TTDS, năm 2005); “Về việc rút
đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự” của ThS Nguyễn Triều
Dương (Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 11/2009); "Quyền khởi kiện và việc
xác định tư cách tham gia tố tụng” của tác giả Trần Anh Tuấn (Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 23/2008), “Những vấn đề cơ bản lưu ý khi thụ lý đơn khởi
4
kiện, khởi tố, đơn yêu cầu trong giải quyết VADS” của tác giả Duy Kiên đăng
trên Tạp chí Kiểm sát số 07/2012; bài viết: “Một số ý kiến về thời hiệu khởi
kiện theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự 2004”
của tác giả Lê Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2012; “Những
quy định mới về khởi kiện và thụ lý VADS theo Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hương đăng trên
tạp chí Tòa án số 19/2011, “Về quyền khởi kiện của cá nhân không phải vợ,
chồng trong vụ án hôn nhân gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015” của tác giả Đào Thị Ngọc Thuận tại Tạp chí Kiểm sát số
4/2017.v.v...
Như vậy, qua các công trình đã công bố ở trên, có thể nhận thấy đề tài "
Khởi kiện, thụ lý VADS và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Yên
Châu, tỉnh Sơn La " là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về thực tiễn
thực hiện các quy định pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS tại TAND
huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, qua đó có thể đưa ra các đề xuất, kiến nghị
hoàn thiện để các quy định pháp luật và việc thực hiện pháp luật về khởi kiện
và thụ lý vụ án phù hợp với tình hình kinh tế xã hội tại các tỉnh miền núi nói
chung và huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La nói riêng nhằm đem lại hiệu quả tốt
nhất trong thực tế cuộc sống.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, một số quy định của
pháp luật Việt Nam khởi kiện và thụ lý vụ án; thực tiễn thi hành các quy định
của BLTTDS năm 2015 về khởi kiện và thụ lý VADS trong những năm gần
đây tại địa bàn huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
• Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu một số quy
định của BLTTDS năm 2015 về vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án. Bên cạnh
đó, việc nghiên cứu thực tiễn thi hành các quy định của BLTTDS năm 2015
về khởi kiện và thụ lý VADS tại TAND huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La trong
5
những năm gần đây, từ đó có thể đưa ra các giải pháp phù hợp hoàn thiện quy
định pháp luật cũng như bảo đảm hiệu quả thi hành trên thực tế.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
• Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích được một số quy định của
pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về khởi kiện và thụ lý VADS đồng thời
chỉ ra những điểm còn hạn chế hoặc chưa hợp lý trong các quy định đó khi
được đưa vào thực tiễn áp dụng tại địa bàn huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
Đồng thời trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tiễn xét xử tại TAND huyện
Yên Châu, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp
luật và việc thực hiện pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng trên thực tế, đặc biệt là các tỉnh miền núi của Việt Nam
• Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn phải hoàn thành
một số nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận khởi kiện và thụ lý vụ án trong
TTDS.
- Nghiên cứu một số quy định của BLTTDS năm 2015 về khởi kiện và
thụ lý vụ án VADS trên cơ sở so sánh, đánh giá những điểm mới, ưu điểm,
hạn chế so với BLTTDS sửa đổi năm 2011.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án
của BLTTDS năm 2015 thông qua công tác xét xử tại TAND huyện Yên
Châu
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về
khởi kiện và thụ lý VADS nhằm bảo đảm việc thực thi có hiệu quả trên thực
tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan
điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, nhà nước và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn
6
đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp phân tích hệ
thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống
kê.v.v…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu cụ thể việc thực hiện khởi
kiện và thụ lý vụ án tại TAND huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Những đóng
góp của luận văn được thể hiện trên một số phương diện sau đây:
- Lần đầu tiên khởi kiện và thụ lý vụ án được nghiên cứu cụ thể tại một
huyện miền núi phía bắc điển hình từ đó chỉ ra các hạn chế trong quy định
pháp luật khi thực thi việc khởi kiện và thụ lý vụ án trong thực tế, từ đó đưa ra
được giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi trong cuộc sống,
đặc biệt là đối với các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số ít người
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho giảng viên, sinh viên
chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan đến việc khởi
kiện và thụ lý VADS. Ngoài ra, luận văn sẽ có những gợi mở cho các cơ quan
lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện pháp luật về khởi kiện và thụ lý VADS
trong BLTTDS năm 2015.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 02 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự.
Chương 2. Thực tiễn thực hiện các quy định về khởi kiện và thụ lý vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La - Kiến nghị một
số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI KIỆN
VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự.
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt: “Vụ là việc, sự việc không hay, rắc rối cần
phải giải quyết”1; “Dân sự việc của công dân nói chung, khác với quân sự và
tôn giáo, liên quan đến tư nhân”2. Theo Đại từ điển Tiếng Việt “Án là vụ việc
phải đưa ra xét xử tại Tòa”3; “vụ án là việc xử tại Tòa”4. Theo nhà nghiên
cứu Vũ Văn Mẫu: “Dân luật (luật dân sự) là những nguyên tắc cai quản sự
giao thiệp giữa tư nhân”5 – ý chỉ các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
mang tính chất “riêng tư” của các chủ thể. Trong cuộc sống thực tế, những
việc liên quan đến dân sự bao gồm những việc liên quan đến tài sản, nhân
thân, hôn nhân gia đình, KDTM, lao động. Khái niệm VADS cũng thay đổi
qua từng thời kỳ lịch sử lập pháp. Trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời, thủ
tục giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình (HNGĐ), KDTM, lao
động được giải quyết theo ba loại văn bản quy phạm pháp luật: Pháp lệnh thủ
tục giải quyết VADS năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế
năm 1994 Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996. Theo
quy định này, các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự được thể hiện thông qua 3
khái niệm tách biệt đó là VADS, vụ án kinh tế, tranh chấp lao động. Theo đó,
vụ án dân sự (VADS) bao gồm những tranh chấp và những việc không có
tranh chấp về dân sự và HNGĐ như: tranh chấp về quyền sở hữu, hợp đồng,
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hôn nhân và gia đình6…Vụ án kinh tế
bao gồm các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
1
Từ điển tiếng Việt thông dụng (1996), NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 1279.
Nguyễn Lân (chủ biên, 2000), Từ điển Từ & ngữ Việt Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh, trang 491
3
Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, trang 34.
4
Nguyễn Lân (chủ biên, 2000), tlđd chú thích (2), trang 2047
5 Vũ Văn Mẫu (1961), Dân luật khái luận, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, trang 161.
6
Xem Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VADS năm 1989
2
8
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh; các tranh chấp giữa công
ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; tranh chấp liên quan
đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các tranh chấp kinh tế khác theo quy
định của pháp luật7. Vụ án lao động bao gồm các tranh chấp lao động giữa cá
nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên
quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác; về
thực hiện hợp đồng lao động và trong quá trình học nghề; tranh chấp lao động
tập thể giữa tập thể người lao động và người sử dụng lao động về thực hiện
thỏa ước lao động tập thể; về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công
đoàn8. Như vậy, tại thời điểm ba Pháp lệnh này có hiệu lực khái niệm VADS
được hiểu trong phạm vi hẹp hơn bao gồm các tranh chấp và những việc
không tranh chấp về dân sự và HNGĐ, không bao gồm các tranh chấp về kinh
tế, lao động. BLTTDS năm 2004 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn khi
khái niệm VADS đã được mở rộng, cụ thể theo quy định tại Điều 1 BLTTDS
năm 2004 quy định “Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các
vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động (sau đây gọi chung là VADS)”, quy định này tiếp tục được kế thừa
tại BLTTDS năm 2015. Theo quy định này, VADS bao gồm các tranh chấp
về dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động và không bao gồm những việc dân sự
không có tranh chấp, Bộ luật này đã phân định rõ ràng giữa VADS và việc
dân sự, theo đó thủ tục giải quyết VADS trước đây được tách thành hai thủ
tục riêng biệt đó là thủ tục giải quyết VADS. Như vậy, dưới góc độ pháp lý,
có thể khẳng định: “VADS bao gồm các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
pháp luật dân sự, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động giữa các cá
nhân, cơ quan, tổ chức và được khởi kiện đến Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự”.
7
8
Xem Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994
Xem Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996
9
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân luôn được Nhà nước bảo vệ và được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật và được bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế của Nhà nước. Ở
Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật”9. Theo đó, mọi công dân đều được quyền lựa chọn
cách xử sự hoặc yêu cầu người khác xử sự theo một cách nhất định trong
phạm vi pháp luật không cấm để thỏa mãn lợi ích của mình. Trong pháp luật
dân sự, mối quan hệ của các chủ thể được coi là mối quan hệ theo chiều
ngang – luôn có sự ngang bằng về địa vị pháp lý và được hình thành từ sự
thỏa thuận, tự nguyện của các bên trong quan hệ. Điểm cốt lõi của quan hệ
pháp luật dân sự chính là “việc dân sự cốt ở đôi bên”, khi các chủ thể tham
gia vào quan hệ dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động…đều hướng đến mục đích
đạt được những quyền và lợi ích theo thỏa thuận. Tuy nhiên, để đảm bảo cho
các quyền, và lợi ích của các chủ thể này được thực hiện có hiệu quả trên thực
tế, đem lại tối đa lợi ích cho các bên trong quan hệ thì Nhà nước cần phải trao
cho họ một phương tiện pháp lý để họ có thể chủ động sử dụng khi có dấu
hiệu của sự tranh chấp, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. dẫn đến
việc tiến hành thủ tục TTDS tại Tòa án chỉ có thể khởi động bằng chính hành
vi khởi kiện của đương sự thông qua việc làm cụ thể là gửi đơn khởi kiện và
mục đích chính là giúp các chủ thể có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích bị
xâm phạm của mình, ngăn chặn và chấm dứt các hành vi trái pháp luật trong
quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, KDTM, lao động. Vì vậy, khi
một chủ thể xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của chủ thể khác thì chủ thể bị
xâm phạm phải được trao các quyền năng để bảo vệ quyền lợi của mình –
quyền năng này đã có sẵn khi chủ thể được sinh ra (cá nhân) hoặc được thành
lập (pháp nhân). Tuy nhiên, chỉ khi chủ thể bị xâm phạm quyết định khởi kiện
thì Tòa án mới có cơ sở để suy đoán họ là nguyên đơn trong VADS. Và kể từ
thời điểm này VADS mới có khả năng được phát sinh khi đáp ứng các điều
9
Xem khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013
10
kiện của pháp luật. Theo đó, quá trình TTDS sẽ phát sinh từ khi người khởi
kiện nộp đơn khởi kiện và kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Có quan điểm cho rằng: “Khởi kiện VADS là việc cá nhân,
cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hay của người khác”10. Từ khái niệm này ta nhận thấy, khởi kiện là
hành vi đầu tiên của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia vào quan hệ pháp
luật TTDS, hay nói một cách khác không có việc khởi kiện VADS sẽ không
thể có các giai đoạn tiếp theo của quá trình TTDS, Tòa án chỉ giải quyết
VADS khi có đơn khởi kiện của đương sự. Đây cũng chính là một trong
những điểm khác biệt giữa tố tụng hình sự và TTDS. Để đảm bảo cho các
quyền, và lợi ích của các chủ thể này được thực hiện có hiệu quả trên thực tế,
đem lại tối đa lợi ích cho các bên trong quan hệ thì Nhà nước cần phải trao
cho họ một phương tiện pháp lý để họ có thể chủ động sử dụng khi có dấu
hiệu của sự tranh chấp, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Chủ thể
có thể sử dụng phương tiện pháp lý này để bảo vệ quyền lợi của mình, mặt
khác nhằm tạo một cơ chế an toàn ràng buộc các bên khi tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động. Đương sự toàn quyền lựa
chọn biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người
khác trong phạm vi thẩm quyền của mình được Nhà nước trao quyền. Theo
nghĩa hẹp thì khởi kiện VADS được hiểu là việc của các chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động hoặc các chủ thể được pháp luật
trao quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình hoặc của người khác
khi có tranh chấp hoặc vi phạm. Nói cách khác, Khởi kiện của các chủ thể
trên được hiểu đơn giản là việc một chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của chủ thể khác thông qua hành vi đầu tiên
là nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để khởi động cho quá trình tố tụng tại Tòa án.
Như vậy, khởi kiện theo nghĩa hẹp chính là cơ sở pháp lý quan trọng làm phát
sinh VADS và có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tư cách của các
đương sự trong VADS đã được người khởi kiện thực hiện việc khởi kiện tại
10
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội, trang 241.
11
Tòa án. Theo nghĩa rộng thì Khởi kiện VADS được hiểu không những là việc
của các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động hoặc
các chủ thể được pháp luật trao quyền trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền lợi khi có tranh chấp hoặc xâm phạm, mà còn bao gồm cả quyền đưa ra
yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sau khi Tòa án thụ lý vụ án. Nghĩa rộng của
khởi kiện được hiểu theo nghĩa rộng xuất phát từ việc quyền bình đẳng giữa
các đương sự tham gia TTDS. Xuất phát từ địa vị pháp lý của các chủ thể
trong pháp luật nội dung, pháp luật TTDS đã xây dựng nguyên tắc bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ trong TTDS, theo đó mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều
bình đẳng thực hiện quyền tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Luận văn sẽ nghiên cứu khởi kiện vụ án theo nghĩa hẹp.
Theo đó: “Khởi kiện VADS là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức nộp đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình hoặc của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước khi xảy ra
xâm phạm hoặc tranh chấp”.
1.1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
Thứ nhất, khởi kiện VADS là hành vi đầu tiên của cá nhân, cơ quan, tổ
chức khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS yêu cầu Tòa án bảo vệ các
quyền và lợi ích dân sự của mình hoặc của người khi xảy ra xâm phạm hoặc
tranh chấp. Khởi kiện chính là một cơ chế đảm bảo được Nhà nước xây dựng
dựa trên mối quan hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng. Tất cả các quan về hệ
tài sản hoặc nhân thân là đối tượng được luật dân sự bảo vệ, khi bị xâm phạm,
thì các chủ thể trong quan hệ tranh chấp đều có quyền khởi kiện đến Tòa án
để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ dân sự là động lực để các
chủ thể thực hiện khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết khi xảy ra tranh chấp
hoặc xâm phạm.
Thứ hai, khởi kiện VADS thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể, ý chí
này được thể hiện trong nhận thức và hành động, không bị ai ép buộc, các
đương sự có quyền tự do định đoạt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
12
pháp của mình. Trong suốt quá trình tố tụng giải quyết VADS, quyền tự định
đoạt của đương sự luôn được bảo đảm thực hiện và được đặt trong mối quan
hệ tương quan với pháp luật nội dung. Pháp luật tố tụng dân sự được xây
dựng dựa trên những bản chất cốt lõi nhất của pháp luật dân sự. Bởi vậy, việc
tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, bình đẳng khi các bên tham gia quan hệ
pháp luật dân sự cũng là mục tiêu hướng đến của pháp luật dân sự. Theo đó,
khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì một trong các bên
tranh chấp được quyền định đoạt lựa chọn những phương thức khác nhau để
giải quyết tranh chấp và khởi kiện là một trong những phương thức giải quyết
tranh chấp đó. Việc các bên tranh chấp lựa chọn khởi kiện đến Tòa án hoàn
toàn xuất phát từ ý chí chủ quan của họ mà không ai có quyền quyết định hay
hạn chế một cách tùy tiện kể cả nhà nước. Trong giao lưu dân sự, khi quyền
và lợi ích bị coi là xâm phạm hoặc có tranh chấp các chủ thể có quyền khởi
kiện mà không bị bất kỳ một cá nhân, tổ chức hay cơ quan nhà nước nào được
phép cản trở, chi phối hoặc hạn chế một cách tùy tiện. Việc khởi động, thay
đổi, chấm dứt quá trình tố tụng dân sự tại Tòa án hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí của các bên trong quan hệ tranh chấp. Đây cũng là một đặc điểm giúp
phân biệt tố tụng dân sự với tố tụng hình sự.
Thứ ba, chủ thể thực hiện khởi kiện VADS yêu cầu Tòa án giải quyết là
những chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm hoặc được pháp luật trao quyền thực
hiện. Xuất phát từ nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng của các chủ thể khi tham
gia quan hệ pháp dân sự nên khi một trong các bên của quan hệ xâm phạm
đến quyền lợi ích của chủ thể khác thì pháp luật trao cho họ các quyền năng
để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Theo đó, chủ thể khởi kiện cần phải có năng
lực pháp luật tố tụng dân sự (NLPLTTDS) và năng lực hành vi tố tụng dân sự
(NLHVTTDS). Đối với người khởi kiện là cá nhân thì NLHVTTDS của họ
được xác định trên cơ sở khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi
của mình trong việc tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, đối với những đương sự có đủ NLHVTTDS để thực hiện quyền khởi
kiện nếu vì những lý do khác nhau mà họ không thể thực hiện được quyền
khởi kiện thì pháp luật cũng có thể bảo đảm điều kiện thuận lợi cho họ thực
13
hiện quyền này thông qua cơ chế uỷ quyền cho người khác đại diện thay mặt
mình khởi kiện trước Toà án. Việc cho phép đương sự thực hiện quyền khởi
kiện thông qua đại diện theo ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo
điều kiện cho đương sự bằng nhiều hình thức khác nhau có thể thực hiện
quyền khởi kiện một cách thuận lợi nhất để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình. Bên cạnh việc pháp luật quy định những chủ thể có quyền khởi
kiện để bảo vệ quyền, lợi ích trực tiếp của mình thì còn có những chủ thể
được Nhà nước trao quyền để bảo vệ quyền và lợi ích dân sự của các chủ thể
khác, lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Như vậy, chủ thể thực hiện khởi
kiện vụ án có thể một trong các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự hoặc
các chủ thể khác có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, việc khởi kiện phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện và
không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự, quyền và lợi ích của chủ thể được đặt
trong mối quan hệ với quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, KDTM, lao động và các chủ thể khác
trong xã hội. Bởi vậy, khi thực hiện hành vi khởi kiện của mình chủ thể được
tự do thực hiện khởi kiện VADS khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm hoặc xảy ra tranh chấp nhưng khởi kiện cần phải tuân thủ các điều
kiện khởi kiện theo luật định, xem xét đến các chuẩn mực xử sự đạo đức và
lợi ích công công, lợi ích của Nhà nước, giảm thiểu sự lãng phí về công sức,
tiền bạc, nhân lực của Tòa án cũng như của những người có liên quan đến
việc khởi kiện vụ án. Khởi kiện VADS tại Tòa án chỉ thực sự có giá trị pháp
lý khi các đương sự thực hiện đúng các yêu cầu về điều kiện khởi kiện theo
quy định của pháp luật hiện hành.
1.1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện vụ án dân sự
Hiến pháp năm 2013 khẳng định pháp luật Việt Nam luôn công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội11. Bởi vậy, việc ghi nhận khởi kiện là một
11
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
14
trong những phương thức bảo vệ quyền, lợi ích dân sự trên cơ sở quyền tự
định đoạt của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự, HNGĐ, KDTM,
lao động là một đảm bảo của Nhà nước trong việc thực thi quyền công dân,
quyền con người, đáp ứng các đòi hỏi của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền việc thực thi pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khởi kiện VADS là tiền đề
pháp lý để đương sự có thể yêu cầu Tòa án khởi động quá trình tố tụng để
khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong thực tiễn đời sống
xã hội, tranh chấp dân sự là một yếu tố khách quan mang tính quy luật, bởi
vậy Nhà nước cần có những cơ chế giải quyết các tranh chấp dân sự khi xảy
ra trên thực tế. Bởi vậy, thông qua các quy định về khởi kiện VADS sẽ giúp
cho các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có thêm lựa chọn để tìm ra phương
thức giải quyết tranh chấp phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của
mình, đồng thời còn tạo cơ chế chủ động tự bảo vệ của đương sự khi quyền và
lợi ích của mình có nguy cơ bị xâm phạm nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của các
bên trong quan hệ dân sự.
Khởi kiện VADS góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật
dân sự, củng cố an ninh trật tự xã hội. Thông qua quy định khởi kiện VADS
yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động
còn hạn chế các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham
gia quan hệ pháp luật dân sự. Một mặt, khởi kiện vụ án góp phần nâng cao ý
thức của người dân trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
mặt khác các quy định này cũng giúp công dân tôn trọng quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác, từ đó họ có thể điều chỉnh các hành vi, xử sự của mình
sao cho phù hợp để tránh những mâu thuẫn, tranh chấp giữa các chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự. Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận khởi
kiện còn góp phần bảo đảm sự công bằng, bình đẳng đối với các đương sự khi
tham gia quan hệ pháp luật dân sự, thể hiện được tính giáo dục, phòng ngừa
và ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo đó, bất cứ hành vi xâm phạm quyền đều có khả năng bị chủ thể khác
15
khởi kiện tại Tòa án và có thể phải chịu những hậu quả pháp lý theo phán
quyết của Tòa án.
Khởi kiện VADS còn cơ sở để Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng tiếp
theo nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân gia đình, KDTM, lao động, từ đó kịp thời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ngoài ra, thông qua hành vi khởi kiện
VADS của đương sự, Tòa án thực thi được quyền bảo vệ công lý, bảo vệ sự
ổn định của các quan hệ xã hội theo đúng tinh thần của Hiến pháp và Luật Tổ
chức TAND, đem đến sự tin tưởng của người dân đối với pháp luật, coi pháp
luật là công cụ hữu hiệu để điều tiết xã hội, là phương thức tối ưu nhất để bảo
vệ được quyền và lợi ích của mình, răn đe các hành vi xâm phạm, củng cố và
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự
1.1.2.1. Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
Tại khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức,
cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện VADS, yêu cầu giải quyết
việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Tòa án là nơi biểu hiện tập
trung nhất của quyền tư pháp – nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, công
tố, bào chữa được kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố
tụng theo luật định, để đưa ra những phán quyết cuối cùng có tính chất quyền
lực Nhà nước, nơi phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền công
lý12. Thông qua hoạt động xét xử nhân danh quyền lực Nhà nước, Tòa án sẽ
xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của các
quan hệ pháp luật. Thụ lý VADS là hoạt động đầu tiên của Tòa án để khởi
động quá trình giải quyết VADS tại Tòa án. Theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự, thụ lý VADS không phải là một quyền của các chủ thể pháp luật
mà là một chuỗi các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
12
Phạm Hưng (1997), Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân, Tạp chí Tòa án
nhân dân số 3/1997, trang 1.
16
giải quyết VADS. Nói một cách khác, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền thực
hiện các hoạt động thụ lý đơn khởi kiện VADS. Xét dưới góc độ ngôn ngữ
học, Từ điển Tiếng Việt thì “thụ lý là tiếp nhận giải quyết vụ kiện”13. Theo
Từ điển Luật học, “Thụ lý vụ án là bắt đầu tiếp nhận một việc để xem xét và
giải quyết”14. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam không đưa ra khái niệm cụ
thể về thụ lý VADS, mà chỉ quy định các hoạt động liên quan đến thụ lý vụ
án, cụ thể: “Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu
xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải
thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp
tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm
phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm
ứng án phí. Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền
tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo”15. Dưới góc độ hành vi pháp lý: “Thụ lý vụ án
là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện và vào sổ thụ lý VADS
để giải quyết”16. Theo như khái niệm này, thụ lý vụ án là hành vi tố tụng của
Tòa án có thẩm quyền chấp nhận đơn khởi kiện để giải quyết VADS, được
xác định bằng hành vi ghi vào sổ thụ lý vụ án. Có thể nói đây là công việc đầu
tiên của Tòa án trong quá trình tố tụng, là tiền đề, cơ sở để Tòa án thực hiện
các thủ tục tố tụng dân sự tiếp theo để giải quyết VADS. Theo tinh thần pháp
luật, thụ lý vụ án tại Tòa án có thẩm quyền cần phải có các bước cơ bản đó là
nhận đơn khởi kiện, xem xét đơn khởi kiện, vào sổ thụ lý để giải quyết các
tranh chấp dân sự. Từ những phân tích trên có thể kết luận “Thụ lý VADS là
hoạt động tố tụng của Tòa án có thẩm quyền trong việc nhận, xem xét đơn
khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án để giải quyết các tranh chấp dân sự, HNGĐ,
KDTM, lao động”.
1.1.2.2. Đặc điểm của thụ lý vụ án dân sự
13
Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, trang 961
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Bách khoa Tư pháp, Hà Nội, trang
732
15
Khoản 1,3,4 Điều 195 BLTTDS năm 2015
16
Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd chú thích (1), trang 250
14
17
Thứ nhất, thụ lý VADS là hoạt động của Tòa án có thẩm quyền tiếp
nhận giải quyết VADS theo yêu cầu của người khởi kiện. Thụ lý vụ án tức là
việc Tòa án đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện sau khi đã
xem xét tính hợp lý của các điều kiện khởi kiện. Như vậy, chỉ có Tòa án mới
có thẩm quyền thụ lý vụ án sau khi người khởi kiện gửi đơn khởi kiện đến
Tòa án. Tòa án thụ lý vụ án thông quan một chuỗi các hoạt động tố tụng được
diễn ra theo trình tự và có mối liên hệ với nhau bao gồm: Nhận và xem xét
đơn khởi kiện, kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án, vào sổ thụ lý. Hoạt động thụ
lý của Tòa án là bước khởi đầu để thực hiện các thủ tục tố tụng khác, là bảo
đảm trách nhiệm của Tòa án đứng ra chịu trách nhiệm giải quyết các tranh
chấp dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động. Thông qua thụ lý vụ án, Tòa án chính
thức xác nhận thẩm quyền cũng như trách nhiệm đối với kết quả giải quyết
tranh chấp, kịp thời bảo vệ quyền vào lợi ích hợp pháp của các đương sự
trong vụ án
Thứ hai, thụ lý vụ án được tiến hành thông qua hoạt động của Thẩm
phán được phân công thụ lý đơn khởi kiện. Do việc quyết định thụ lý hay
không thụ lý vụ án đều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên tham gia
quan hệ pháp luật dân sự, HNGĐ, KDTM, lao động, chính bởi vậy hoạt động
thụ lý VADS cần phải được tiền hành bởi các chủ thể theo luật định có đầy đủ
năng lực chuyên môn. Theo quy định của pháp luật TTDS, khi tiếp nhận đơn
khởi kiện của người khởi kiện, một Thẩm phán sẽ được phân công thực hiện
các hoạt động như xem xét, đánh giá đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo
để ra một trong những quyết định sau: trả lại đơn khởi kiện, thụ lý VADS
hoặc chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền.
Thứ ba, căn cứ và trình tự thủ tục tiến hành thụ lý vụ án cần tuân thủ
chặt chẽ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc Tòa án thụ lý vụ án đồng
nghĩa với việc quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự trong VADS được
hình thành kể từ thời điểm đó. Bởi vậy, việc thụ lý vụ án không được tiến
hành một cách tùy tiện, theo cảm tính của Thẩm phán thụ lý đơn mà phải dựa
trên căn cứ pháp lý luật định để tránh gây ra sự thiếu công bằng, thống nhất,
tránh khó khăn, phiền hà, nhiễu sách cho công dân khi thực hiện quyền khởi
18
kiện. Các căn cứ đó bao gồm: các điều kiện thụ lý vụ án như chủ thể khởi
kiện, thẩm quyền giải quyết của Tòa án, vụ án chưa được giải quyết bởi cơ
quan nhà nước khác, nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của người khởi kiện.
Việc căn cứ vào các quy định pháp luật để thụ lý vụ án sẽ giúp Tòa án thụ lý
vụ án một cách chính xác, nhanh chóng, công bằng với các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật dân sự, làm nền tảng giải quyết triệt để các tranh chấp dân
sự.
1.1.2.3. Ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự
Là hoạt động tố tụng đầu tiên của Tòa án sau khi tiếp nhận đơn khởi
kiện nên thụ lý VADS có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng trong việc xác
định việc Tòa án có thẩm quyền đã nhận trách nhiệm giải quyết vụ án, là cơ
sở pháp lý để Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo để giải quyết
vụ án. Thụ lý VADS còn là bước khởi đầu quan trọng để Tòa án tiến hành các
thủ tục tố tụng khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, là cơ
sở cho Tòa án thực thi được quyền bảo vệ công lý, bảo vệ sự ổn định của các
quan hệ xã hội theo đúng tinh thần của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án
nhân, đồng thời còn tạo cơ chế chủ động tự bảo vệ của đương sự khi quyền và
lợi ích của mình có nguy cơ bị xâm phạm. Mặt khác, thời điểm Tòa án vào sổ
thụ lý vụ án cũng chính là cơ sở để Tòa án tính các thời hạn tố tụng giải quyết
vụ án theo luật định, Kể từ thời điểm thụ lý vụ án là đánh dấu khởi điểm đầu
tiên của quy trình tố tụng, các hoạt động tiếp theo của Tòa án được thực hiện
theo đúng quy trình tố tụng.
Bên cạnh đó, thụ lý VADS có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động
tố tụng khác trong việc giải quyết VADS. Tòa án có thẩm quyền chỉ tiến hành
được các hoạt động tố tụng khác như các hoạt động chuẩn bị xét xử, đưa vụ
án ra xét xử, các thủ tục phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm khi Tòa án vào
sổ thụ lý và ra thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự trong vụ án. Bản chất
của thụ lý vụ án là việc Tòa án chấp nhận các yêu cầu khởi kiện được trình
bày trong đơn khởi kiện, qua đó làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý
VADS, về phía cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án phải giải quyết đúng thời
19
hạn và chính xác VADS, Viện Kiểm sát phải thực hiện tốt việc kiểm sát quá
trình tố tụng dân sự tại Tòa án nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự. Mặt khác, sau khi có thông báo thụ lý vụ án của Tòa án,
các đương sự, các chủ thể liên quan đến việc giải quyết vụ án cũng phải
nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo đúng quy định của
pháp luật để vụ án được nhanh chóng giải quyết theo đúng thời hạn, kịp thời
bảo vệ triệt để quyền và lợi ích của các đương sự.
Thụ lý VADS góp phần bảo vệ kịp thời các lợi ích hợp pháp trong quan
hệ pháp luật dân sự và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua việc
thụ lý, các cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn
và chấm dứt hành vi trái pháp luật và sớm khôi phục lại mối quan hệ thiện
chí, cởi mở, giao hòa giữa các bên trong đời sống dân sự.
1.2. Một số quy định pháp luật hiện hành về khởi kiện và thụ lý vụ
án dân sự
1.2.1. Các quy định của pháp luật về khởi kiện
1.2.1.1. Điều kiện khởi kiện, quyền khởi kiện
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định quyền
khởi kiện và điều kiện khởi kiện vụ án dân sự được quy định tại Điều 186 và
điều 187 BLTTDS năm 2015, điều 186 BLTTDS năm 2015 quy định “Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại tòa án có
thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”; theo đó
các chủ thể khởi kiện phải đáp ứng các điều kiện khi thực hiện quyền khởi
kiện vụ án dân sự cụ thể:
* Về chủ thể khởi kiện Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự là các chủ thể
theo quy định của pháp luật được tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân
sự. Các chủ thể này bao gồm cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng được
những điều kiện do pháp luật quy định. Đối với người khởi kiện là cá nhân thì
20
phải là con người cụ thể, ngoài việc có năng lực hành vi dân sự và năng lực
hành vi tố tụng dân sự thì họ phải có quyền, lợi ích bị xâm phạm. Khi họ có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì họ có thể tự mình thực hiện quyền khởi
kiện. Trong trường hợp cá nhân là người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn về nhận thức và làm chủ hành vi dân sự thì người thực hiện
quyền khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp của họ. Pháp luật cũng
đòi hỏi cá nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải là người có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp ( Điều 186 BLTTDS năm 201517).
Đối với cơ quan, tổ chức muốn thực hiện quyền khởi kiện thì trước hết
cơ quan, tổ chức đó phải có tư cách pháp nhân; theo quy định tại điều 74
BLDS năm 201518, ngoài các chủ thể được quy định trên đây thì hộ gia đình,
tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân cũng có quyền khởi kiện
vụ án dân sự. Theo điều 101 Bộ luật dân sự năm 2015.19
Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của mình trong trường hợp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Ngoài ra
các cơ quan tổ chức các cơ quan, tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của pháp luật.
theo quy định tại điều 187 BLTTDS năm 201520. Theo quy định tại điều luật
này thì đây là nhóm chủ thể thực hiện việc khởi kiện để bảo vệ quyền hay lợi
ích hợp pháp của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách gồm: Cơ quan quy định tại khoản 1 điều
187 BLTTDS năm 2015 là các cơ quan nhà nước như: Ủy ban nhân dân các
cấp, các bộ, ngành ở trung ương, các sở, ngành ở địa phương, các cơ quan
chuyên môn khác ở từng lĩnh vực như cơ quan thuế, thị trường, dân số, môi
trường, các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp.v.v có tư cách pháp nhân. Các
bộ phận đơn vị văn phòng đại diện của các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm
17
Xem Điều 186 BLTTDS năm 2015
Xem Điều 74 BLDS năm 2015
19
Xem Điều 101 BLDS năm 2015
20
Xem Điều 187 BLTTDS năm 2015
18