Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Đặc điểm thơ thiếu nhi trần đăng khoa và tình hình học thơ trần đăng khoa ở trường tiểu học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.88 KB, 120 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Phần một

DẪN NHẬP

Trang 1


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Ngay từ khi còn nhỏ tôi đã đặc biệt yêu thích thơ Trần Đăng Khoa.
Đọc thơ anh tôi thấy gần gũi đến lạ, tưởng như Trần Đăng Khoa viết cho
chính cuộc sống, chính tuổi thơ của tôi vậy. Và tôi biết những người bạn
của tôi, những người đã được sinh ra ở vùng đồng bằng chiêm trũng cũng
có cảm giác như tôi.
Sau này tôi có dòp tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời cũng như sự nghiệp
sáng tác của Trần Đăng Khoa, tôi mới biết anh chính là nhà thơ thiếu nhi
nổi tiếng ở Việt Nam từ trước và cho đến tận hôm nay. Thơ anh không
những nổi tiếng ở trong nước mà còn được dòch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới. Tôi cũng biết thêm một điều nữa là những bài thơ mà lần đầu tiên tôi
được tiếp xúc, được đọc của Trần Đăng Khoa cũng là những bài thơ anh
sáng tác khi còn rấùt nhỏ. Thơ anh đã có những tiếng vang lớn và nhiều bài
thơ được đưa vào chương trình dạy cho học sinh tiểu học trong môn Tiếng
Việt. Những bài thơ đó đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tình cảm của
học sinh tiểu học.
2. Bắt đầu từ năm học 2002 - 2003, chương trình Tiểu học 2000 được áp
dụng trên toàn quốc và đã chú ý điều chỉnh thêm về việc giáo dục nghệ
thuật, tính nhân văn cho học sinh tiểu học. Có một khoảng thời gian chúng
ta chú ý đến dạy kiến thức cho học sinh hơn và xao nhãng việc dạy các


môn nghệ thuật - lónh vực có tác động lớn đến việc giáo dục tình cảm cho
học sinh. Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, xu hướng đầu
tư cho giảng dạy các môn nghệ thuật trong nhà trường được đề cao và chú
trọng. Thơ Trần Đăng Khoa cũng là một loại hình nghệ thuật. Bởi vậy nó
giữ một vò trí quan trọng trong giáo dục nghệ thuật cho học sinh.
3. Thơ nói lên tiếng nói của tâm hồn. Đằng sau những tiếng thơ ẩn chứa
biết bao tâm tư, tình cảm, bao ước vọng của tác giả gửi gắm ở mỗi bài thơ.
Người giáo viên không những dạy các em học sinh cách đọc thơ mà còn
phải dạy các em hiểu, cảm thông với tâm sự của tác giả. Từ đó có thể cảm
nhận được vẻ đẹp toát ra từ nội dung, hình thức bài thơ, giúp các em tiếp
nhận được cái hay, cái đẹp của cuộc sống hiện tại, của những điều đã qua
và cả sau này. Người giáo viên muốn học sinh của mình đạt được điều này
thì trong quá trình giảng dạy bài thơ phải tìm hiểu kỹ lưỡng về khả năng
tiếp nhận và cảm thụ thơ của các em. Hiểu được học sinh, hiểu được quá
trình diễn biến phức tạp trong tâm hồn các em thì người thầy mới có sự tiếp
Trang 2


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

cận gần gũi nhất, mới đưa ra được phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm
đạt được hiệu quả cao nhất cho mục tiêu đề ra.
4. Tìm hiểu tình hình học thơ Trần Đăng Khoa nói riêng hay chính là tìm
hiểu tâm hồn của các em cảm nhận về thơ của một tác giả, sẽ là chiếc cầu
nối tình cảm giữa giáo viên và học sinh. Để làm được điều này thì không
phải là đơn giản bởi quá trình cảm thụ thơ của học sinh tiểu học có lúc rất
đơn giản, song có lúc lại vô cùng phức tạp. Những điều này đôi khi xảy ra
sâu kín trong tâm hồn của các em, rất riêng và khó nhận biết.
5. Thơ Trần Đăng Khoa có những khía cạnh được nghiên cứu rất kỹ
trước đây. Nhưng với sự đam mê và thích thú, tôi muốn tìm hiểu sâu hơn và

đưa ra quan điểm của mình về thơ Trần Đăng Khoa mà tôi đã thực sự yêu
thích. Ý đònh này đã được tôi ấp ủ từ rất lâu.
Với những lý do trên, tôi quyết đònh chọn đề tài : “TÌM HIỂU ĐẶC
ĐIỂM THƠ THIẾU NHI TRẦN ĐĂNG KHOA VÀ TÌNH HÌNH HỌC THƠ
TRẦN ĐĂNG KHOA Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆN NAY”

II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Trong đời sống con người, văn học từ lâu đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu. Dường như ở đâu có cuộc sống, ở đó có thi ca. trong hoàn
cảnh sống khó khăn, eo hẹp, khác biệt với nền văn hoá chữ viết, nhân dân
lao động nhiều thế hệ qua vẫn nối tiếp nhau thầm lặng sáng tạo nền văn hoá
của riêng mình – một nền văn hoá chỉ tồn tại trong trí nhớ. Mỗi dân tộc có
thể tính được số nhà thơ của mình nhưng không thể nào biết được số những
người cầm bút viết văn – những người tự nguyện đem hết nhiệt tình cho một
công việc lao tâm khổ tứ, không có gì hẹn trước sự thành công, kể cả sự an
toàn trong cuộc sống. Và gần như bất kỳ nền văn học dân tộc nào cũng có
những bài thơ tuyệt mệnh. Niềm vui, nỗi buồn đều có thể đưa con người đến
với thi ca. Văn học và nghệ thuật nói chung không thể chỉ tồn tại vì bản thân
nó và nghệ thuật không đơn giản là trò chơi vô tư nhằm thoả mãn một nhu
cầu đơn giản nào. M.Gorki đã viết: “Một người viết văn không thể không
băn khoăn với những câu hỏi: Văn học là gì? Nó nhằm phục vụ cái gì? Nó có
tự thân tồn tại không? Dù sao thì tôi cũng nhận thấy rằng trên đời này không
có cái gì tồn tại tự nó và cho nó, rằng mọi thứ đều tồn tại nhằm mục đích nào
đó và bằng cách này, cách khác đều lệ thuộc, gắn liền, pha lẫn vào một cái
gì khác”. [5]
Đúng như M.Gorki đã khẳng đònh, văn học từ ngàn đời trước đã không
đơn giản là thoả mãn nhu cầu giải trí. Cái lẽ tồn tại của nó bắt rễ sâu xa
trong chính sự tồn tại của con người. Mỗi tác phẩm văn học đều ít nhiều làm
Trang 3



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

phong phú hơn sự hiểu biết của con người. Và những thu lượm đầu tiên rất
quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến những gì diễn ra sau đó. Cũng giống như
bậc học Mẫu giáo, Mầm non là những viên gạch đầu tiên giúp trẻ làm quen
với cuộc sống và hoà hợp với cộng đồng xã hội, thì bậc Tiểu học đóng vai
trò rất quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức khoa học, xã hội, đạo
đức, làm nền tảng cho những cấp học cao hơn và cho cả cuộc đời sau này của
các em.
Văn học, với những ưu thế tuyệt vời đã được sử dụng rất sớm như một
phương tiện phục vụ cho mục tiêu trên. Thơ cũng là một bộ phận không thể
thiếu của văn học. Thơ có đầy đủ những chức năng, những giá trò cũng như
những ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình nhận thức và tâm hồn của con
người nói chung và của trẻ em nói riêng.
Tìm hiểu đặc điểm thơ của một tác giả, tìm hiểu được ngôn ngữ đặc
trưng mà tác giả đó gửi gắm trong tác phẩm của mình cũng là một vấn đề rất
được quan tâm từ trước tới nay trong lónh vực nghiên cứu, phê bình văn học.
Làm được điều đó giúp cho sự tiếp nhận tác phẩm văn học của độc giả mới
diễn ra thực sự dễ dàng và tạo sự hứng thú khi tiếp xúc với tác phẩm.
Về thơ Trần Đăng Khoa, từ trước đến nay đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó trong các
cuốn giáo trình văn học thiếu nhi nhằm đào tạo cho giáo viên tiểu học của
các tác giả như Dương Thu Hương, Đỗ Thò Thanh Hương, Nguyễn Mạnh
Hiếu,……; trong cuốn “ Văn học và phương pháp giúp trẻ làm quen với tác
phẩm văn học của tiến só Cao Đức Tiến (chủ biên); “ Văn học và phương
pháp giúp trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học” của nhiều tác giả;…… trong
các nghiên cứu của Vân Thanh, Vũ Nho, Hồng Diệu,…… Trong các công
trình nghiên cứu trên, nói chung đặc điểm thơ Trần Đăng Khoa đã được nhìn
nhận một cách khá tổng quát.

Về tình hình học thơ Trần Đăng Khoa ở trường tiểu học, cho đến bây
giờ vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chính thức nào nói về vấn đề này.
Từ việc hiểu được đặc điểm thơ của một tác giả, hiểu được tình hình
cuộc sống hiện tại và hiểu được đặc điểm nhận thức của một lứa tuổi sẽ tìm
ra phương hướng mới cho việc giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong dạy
– học thơ của một tác giả được đưa vào chương trình phổ thông là vấn đề cần
quan tâm của đề tài.

III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Trang 4


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi mong muốn có thể tìm
hiểu được đặc điểm thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa, tìm hiểu thơ Trần
Đăng Khoa được đưa vào giảng dạy trong chương trình Tiểu học (cả chương
trình Cải Cách Giáo Dục 165 tuần và chương trình Tiểu học 2000 ), biết được
học sinh tiểu học cảm nhận được những tác phẩm đó ở mức độ nào. Với việc
làm này, người làm luận văn với tư cách là giáo viên tương lai, hi vọng bước
đầu hiểu được học sinh và giúp ích cho việc giảng dạy sau này.

IV. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU:
Đặc điểm thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa và tình hình học thơ Trần Đăng
Khoa ở trường tiểu học hiện nay.

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Luận văn sử dụng các phương pháp:
• Nghiên cứu tài liệu, giáo trình, sách giáo khoa tiểu học.
• Viết phiếu phỏng vấn học sinh tiểu học.

• Thống kê, xử lý số liệu và viết báo cáo tổng hợp, báo cáo tóm tắt.

VI. BỐ CỤC LUẬN VĂN:
Phần I: Dẫn nhập
I. Lý do chọn đề tài
II. Lòch sử vấn đề
III. Phạm vi vấn đề
IV. Đối tượng nghiên cứu
V. Phương pháp nghiên cứu
VI. Bố cục luận văn

Phần II: Nội dung
Chương I: Đặc điểm thơ thiếu nhi và đặc điểm cảm thụ thơ của học sinh
tiểu học
Trang 5


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

I. Đặc điểm văn học thiếu nhi và thơ thiếu nhi:
I.1 Đặc điểm văn học thiếu nhi.
I.2 Đặc điểm thơ thiếu nhi.
II. Đặc điểm cảm thụ thơ của học sinh tiểu học:
II.1 Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học.
II.2 Đặc điểm cảm thụ thơ của học sinh tiểu học.
Chương II: Đặc điểm thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa
I. Tổng quan về việc nghiên cứu thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa
I.1 Những nhận đònh chung của một số tác giả nghiên cứu về thơ
Trần Đăng Khoa
I.2 Các ý kiến về nội dung thơ Trần Đăng Khoa

I.3 Các ý kiến về nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa
II. Đặc điểm thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa
II.1 Đặc điểm về nội dung thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa
1.1 Từ tình yêu thiên nhiên, cảnh vật đến tình yêu quê hương,
đất nước.
1.2 Từ tình yêu cha mẹ và những người thân thiết đến tình yêu
lãnh tụ và bạn bè quốc tế.
II.2 Đặc điểm về nghệ thuật thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa
2.1 Khả năng quan sát tinh tế.
2.2 Trí liên tưởng, tưởng tượng mạnh mẽ.
2.3 Cách dùng từ độc đáo, đặc sắc, bất ngờ và chính xác.
2.4 Cách chọn thể loại thơ rất thích hợp cho các bài thơ.
Chương III: Tình hình học thơ Trần Đăng Khoa ở trường tiểu học hiện
nay
I. Một số nhận xét về chương trình dạy thơ Trần Đăng Khoa ở trường
tiểu học hiện nay
I.1 Chương trình trước bậc Tiểu học
I.2 Chương trình Tiểu học
2.1 Chương trình Cải Cách Giáo Dục
Trang 6


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

2.2 Chương trình Tiểu học 2000
II. Những nhận xét về một số tiết học thơ Trần Đăng Khoa ở trường
tiểu học hiện nay

Phần III: Kết luận và kiến nghò
I. Kết luận:

II. Kiến nghò:

Trang 7


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Phần hai

NỘI DUNG

Trang 8


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CHƯƠNG I
ĐẶC ĐIỂM THƠ THIẾU NHI VÀ ĐẶC ĐIỂM CẢM THỤ
THƠ CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

I. ĐẶC ĐIỂM VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ THƠ THIẾU NHI
I.1 ĐẶC ĐIỂM VĂN HỌC THIẾU NHI
Nhấn mạnh tầm quan trọng của tuổi ấu thơ và ý nghóa của việc giáo dục
trẻ thơ, PI – E GA – MA – RA (Pháp) có nói: “ Hiện nay chúng ta đã hiểu và
ngày càng rõ hơn tầm quan trọng của những thu hoạch đầu tiên. Những nhà
giáo dục học, tâm lý giáo dục học và các thầy thuốc bảo ta điều đó. Điều mà
trẻ thơ nhận được trong những năm đầu tiên của cuộc sống bằng tất cả những
gì em sẽ thu lượm được trong những quãng đời còn lại. Những từ ngữ, những
ước mơ, những ý tưởng mà con người măng trẻ khám phá được trong những
câu chuyện đầu tiên được nghe, trong những bài thơ đầu tiên trầm bổng bên

tai, trong những lần đọc sách đầu tiên, sẽ đi theo em lâu dài và chắc là mãi
mãi. Cảm xúc của em ngày thêm giàu có hoặc bò tổn thương. Ngưỡng cửa vào
đời của các em sẽ rộng thêm hay co lại. Ngôn ngữ của các em sẽ được nuôi
dưỡng hay còm cõi. Chúng ta hiểu điều đó từ lâu, trong kinh nghiệm bản thân
và ngôn ngữ thường ngày còn in dấu điều đó: trẻ em là những sáp mềm; ta uốn
cong cây non chứ không uốn cây lớn. Những năm tháng sau này của đời ta có
thể mờ nhạt, rơi vào quên lãng song những năm son trẻ, với những thu hoạch
và tổn thương của chúng, thường vẫn còn nguyên vẹn trong kí ức ta, trong
phẩm cách ta sau này. Điều mà chúng ta còn chưa hiểu rõ lắm, có thể là
những ưu thế của những thu nhận của tuổi thơ so với kinh nghiệm còn lại của
một đời người. Về một mặt nào đó, trẻ em quả là người cha của con người.
Chính vì thế văn học thiếu nhi không chỉ có tầm quan trọng về số lượng mà
còn quan trọng về chất lượng” . {47}
Vậy văn học thiếu nhi là gì? Nó có những đặc điểm gì mà có tầm quan
trọng như vậy?
Theo Nguyễn Mạnh Hiếu: “ Việc xác đònh khái niệm văn học thiếu
nhi cho đến nay vẫn còn nhiều bàn cãi. Bởi vì, ngay từ việc xác đònh khái
niệm văn học và khái niệm thiếu nhi đã nảy sinh nhiều vấn đề. Thế nào là
một tác phẩm văn học? Câu trả lời không đơn giản! Thiếu nhi là gì? Thiếu nhi
khác với người lớn ra sao? Cũng là những câu hỏi không dễ trả lời”.{7}
Trang 9


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

“Văn học thiếu nhi” là một khái niệm, một thuật ngữ đã được quen
dùng, nhưng đònh nghóa về nó ra sao cho gọn và rõ, lại có tính phổ quát, thuyết
phục thì phải chờ có thêm thời gian. Thực hiện luận văn này, chúng tôi tìm
thấy một đònh nghóa tương đối đầy đủ về văn học thiếu nhi trong “ Bách khoa
thư văn học thiếu nhi Việt Nam” : “Văn học thiếu nhi bao gồm: Những tác

phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm
hồn , tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi, và nhiều
khi cũng là người lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật, hay một đồ vật, một
cái cây,…… Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các em, mà
cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi, văn học thiếu nhi còn bao gồm những
tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy ở trong
đó cách nghó, cách cảm cùng những hành động của chính các em. Hơn thế, các
em còn tìm được ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn đe với những nguồn
động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhò, bổ ích trong quá trình hoàn thiện
tính cách của mình. Như thế , văn học thiếu nhi là người bạn thông minh và
mẫn cảm của thiếu nhi”. {33}
Quan niệm trên đã bao quát được tất cả đối tượng, nhiệm vụ, chức năng
mà mỗi tác phẩm được coi là tác phẩm văn học thiếu nhi đã đề cập đến, đã
thực hiện và có nghóa vụ thực hiện tất cả những điều đó.
Ca dao Việt Nam có câu: “ Dạy con từ thû trong nôi”. Câu ca dao ấy
đúng với cả ngày xưa và đúng với cả bây giờ. Chúng ta lớn lên bằng những
tiếng ru dòu ngọt của ông bà, cha mẹ, anh chò. Ngay từ lúc mới lọt lòng, những
tiếng ru êm ái: “Con ơi muốn nên thân người ……” hoặc “ Cháu ơi cháu lớn
với bà”…… đã thấm vào hồn ta, cùng ta lớn dậy. Chúng ta lớn lên bằng những
tiếng ru ấy, và cũng lớn lên bằng những câu chuyện thần thoại, những kho
truyện cổ tích của ông bà, cha mẹ, hay anh chò đã kể cho nghe. Ta lớn lên về
thể xác và cũng rộng mở dần đôi cánh của tâm hồn và tình cảm,… Ngày nay,
hẳn không ai không nhớ một vài câu ca dao hay tục ngữ, một vài truyện cổ,
mà ngày xưa trong những đêm trăng mài mòn guốc võng, mẹ hay bà đã kể cho
nghe,… Văn chương quả là một phương tiện rất đắc dụng để bồi bổ tâm hồn
trẻ thơ, khó có thể thay thế được. Thật là ngây thơ nếu nghó rằng chúng ta có
thể bằng tác phẩm của mình giải quyết hết mọi vấn đề xã hội, kinh tế, chính
trò và đạo lý rất phức tạp đang đặt ra trước nhân loại. Tuy nhiên mỗi một
chúng ta do kinh nghiệm bản thân, đều thấy rõ sức mạnh to lớn của một tiếng
nói văn học tốt lành, thông minh, sáng sủa, đặc biệt khi tiếng nói ấy được gieo

lên miếng đất phì nhiêu là tâm hồn con trẻ.
Văn học thiếu nhi đã có từ thời xa xưa, đó là những áng văn chương
truyền miệng. Trải qua bao thăng trầm và tiến triển của lòch sử, văn học thiếu
nhi đã không ngừng phát triển theo hướng ngày càng phong phú, sâu sắc, ngày
Trang 10


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

càng xứng đáng là một người bạn vừa gần gũi hiền hoà lại vừa thông tuệ mẫn
cảm đối với trẻ em.
Văn học thiếu nhi trong tiến trình phát triển, nó luôn mang những đặc
điểm đặc trưng cho thể loại để phân biệt với các thể loại văn học khác, với các
loại hình nghệ thuật khác. Nhưng để tìm đâu là đặc điểm nổi bật của văn học
thiếu nhi thì đã có rất nhiều ý kiến đưa ra, có ý kiến tương đồng, có ý kiến
không tương đồng.
Như ta đã biết, tác phẩm văn học thiếu nhi trước hết phải là tác phẩm
văn học, nó bình đẳng với tác phẩm dành cho người lớn về phương diện chất
lượng, đồng thời nó phải đảm bảo những đặc trưng thuộc về tâm lý lứa tuổi
thiếu nhi. Các yếu tố, các tính chất, các đặc trưng bộc lộ đồng thời, cùng tồn
tại và nhuần nhò, chuyển hoá cho nhau. Từ đó ta có thể xét đến những đặc
điểm nổi bật của văn học thiếu nhi như sau:

1.1 Tính đối tượng:
Đây chính là đặc điểm bao trùm của văn học thiếu nhi và cũng là đặc
điểm được nhiều nhà nghiên cứu về văn học thiếu nhi thống nhất đưa ra.
Khi sáng tác cũng như khi tiếp cận, bình giá, phân tích văn học thiếu
nhi, đối với người lớn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Một là người lớn phải nắm
được đặc trưng đời sống tâm lý ở lứa tuổi thiếu nhi. Hai là phải hướng dẫn
được thiếu nhi đi theo con đường mà người lớn vạch ra. Điều hiển nhiên và dễ

dàng nhận thấy đó là thiếu nhi chỉ thực sự xúc động và làm theo những gì mà
chúng cảm nhận được, gắn bó với chúng. Do đó người lớn phải thực sự sống
với đời sống của lứa tuổi thiếu nhi. Muốn vậy, người lớn phải vượt qua hai cửa
ải: một mặt phải hồi tưởng lại, làm sống lại những năm tháng ấu thơ của mình;
một mặt phải xoá được cái khoảng cách giữa tuổi thơ hôm nay với tuổi thơ
hôm qua. Cho nên nếu chỉ căn cứ vào tuổi thơ của mình mà suy ra, mà không
chú ý đến khoảng cách, thì độ sai lệch sẽ rất lớn. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến
hiện tượng học sinh sợ văn, chán ngán với tác phẩm văn chương, phải chăng là
ở chỗ này. Tác phẩm văn học được lựa chọn để dạy và học phải phù hợp với
lứa tuổi thiếu nhi hôm nay, và đương nhiên phải được học sinh thích thú.
Nhưng làm thế nào để lựa chọn được những tác phẩm như thế, điều này buộc
chúng ta phải giải quyết luận điểm nói trên. Hơn nữa “thiếu nhi hôm nay là
thế giới ngày mai”, chúng ta phải dẫn dắt các em bước vào một thế giới mới,
vào con đường mà người lớn đã vạch ra. Hiện tượng trên đây đặt ra cho văn
học thiếu nhi một việc cần chú ý: đó là đối tượng lứa tuổi.
Nhà văn Võ Quảng đã từng viết: “Nội dung văn học cho thiếu nhi cũng
là các vấn đề về chủ đề, đề tài, về phương pháp thể hiện, cũng là các vấn đề
Trang 11


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

về thể loại, về phong cách, về ngôn ngữ… Nhưng ở đây, tất cả những cái đó
phải được thể hiện như thế nào cho phù hợp với “đôi mắt” và “con tim” của
mỗi lứa tuổi, làm cho mỗi lứa tuổi có thể hiểu được, rung động được, có thể
đánh thức được trong lòng các em những tình cảm tốt đẹp, đạt được một hiệu
quả giáo dục tốt. Cũng vì lẽ đó văn học thiếu nhi đòi hỏi một tính cách đa
dạng. Đa dạng không chỉ trong chủ đề và đề tài, trong thể loại, mà còn trong
phong cách, trong xây dựng hình tượng, sử dụng ngôn ngữ. Vì nếu ta không
thấy trình độ nhận thức và “khẩu vò” của mỗi lứa tuổi thì rất có thể các em sẽ

không tiếp thu được. Văn học đến với các em chẳng khác “nước đổ đầu
vòt”.[35]
Quan tâm đến tính đối tượng, cũng có nghóa văn học thiếu nhi phải có
cách thể hiện phù hợp với cặp mắt và con tim của mỗi lứa tuổi, nhưng không
phải vì vậy mà “bắt chước”, “nhại lại” cách nói của thiếu nhi. Cũng không chỉ
nói những việc riêng tư đã xảy ra với các em. Văn học thiếu nhi có thể nói tất
cả những vấn đề nhỏ, lớn, có thể đề cập đến cả những vấn đề có tầm vóc thời
đại, có thể mô tả những loại vật, cỏ cây cho đến những hình ảnh xa xôi trong
dó vãng. Nhưng ở đây, người viết phải nói cái đó như thế nào để cho các em có
thể hiểu được, rung cảm được, đem lại một lợi ích về tâm hồn, tư tưởng.
Cùng với tính đối tượng, văn học thiếu nhi còn thể hiện một đặc tính rất
quan trọng. Với đặc tính này cũng đã làm nổi bật được đặc điểm của văn học
thiếu nhi. Đó là tính giáo dục.

1.2 Tính giáo dục:
Hai vấn đề tính đối tượng và tính giáo dục (chức năng giáo dục) có liên
quan mật thiết với nhau.
Thiếu nhi là lứa tuổi đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, các em cần
được gia đình, nhà trường và xã hội cùng chăm sóc và giáo dục. Văn chương là
một phương tiện giáo dục có khả năng đặc biệt trong việc trau dồi tình cảm
của các em mỗi ngày một thêm trong sáng. Vì vậy chức năng giáo dục của văn
học trong văn học thiếu nhi thường giữ vò trí hàng đầu.
Đề cập vấn đề này, tác giả Nguyễn Mạnh Hiếu có viết: “Chức năng
giáo dục là chức năng cơ bản và bao quát của văn học thiếu nhi. Thiếu chức
năng này văn học thiếu nhi không còn lí do tồn tại trong nhà trường của chúng
ta”. [7]
Các nhà giáo dục đã nhiều lần nhấn mạnh rằng: nguyên tắc đảm bảo
cho học sinh phát triển tự do và toàn diện đúng với quy luật của sự phát triển
tự nhiên, không có nghóa là “thả nổi”, “buông lỏng” hoặc “theo đuổi” trẻ em.
Trái lại, người lớn, những phụ huynh, những nhà giáo dục, một mặt phải thoả

Trang 12


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

mãn nhu cầu của thiếu nhi, một mặt phải “bắt buộc” thiếu nhi thoả mãn nhu
cầu của người lớn. Vấn đề người lớn giáo dục các em như thế nào, dẫn dắt các
em đi tới đâu? Các môn học trong nhà trường, trong đó có văn học thiếu nhi,
không thể thoái thác nhiệm vụ sinh tử này.
Chúng ta đều biết mỗi người lớn lên đều hình thành một số vốn về kiến
thức và một số vốn về tình cảm. Phần kiến thức gồm những hiểu biết về thiên
nhiên và xã hội thuộc phạm vi lí trí. Phần tình cảm gồm những thói quen về
rung cảm thuộc cá tính tâm hồn. Những sáng tác văn nghệ là công cụ để rèn
luyện cá tính tâm hồn.
Nói chức năng giáo dục của sáng tác văn nghệ cũng là nói việc rèn
luyện những cá tính tâm hồn, đào tạo những con người có tâm hồn cao thượng,
yêu lao động, làm chủ cuộc sống, yêu nước, có tình thương yêu sâu sắc. Văn
học thiếu nhi có nhiệm vụ đánh thức những những tình cảm cao đẹp đó. Nó
phải là những đốm lửa thắp sáng những khía cạnh nhân đạo của con người. Nó
phải làm cho các em biết sung sướng, xót xa, yêu thương, căm hận, ghét mọi
biểu hiện ích kỷ, xấu xa, yêu mọi biểu hiện vò tha, trung thực. Chủ đề tư tưởng
có phát huy được cũng do phần lớn ở đó. Vì tư tưởng chủ đề không phải là cái
gì nguội lạnh mà chính là cái “chất men” đã khuấy lên những tình cảm tốt đẹp
đó. Rất khó có chủ đề trong sáng khi cách thể hiện lại nguội lạnh, lại không
khuấy lên trong lòng các em một tình cảm cao đẹp. Ở đây đòi hỏi tác giả phải
có những rung cảm thực sự. Những rung cảm đó được biểu hiện bằng những
trang sách, bằng lới văn. Trong những lời đó sẽ làm nảy sinh những dây tơ,
nhen lên những đốm lửa trong lòng các độc giả nhỏ tuổi, khuấy lên “chất men”
của những tình cảm cao quý.
Nói chức năng giáo dục của văn học thiếu nhi là chức năng hàng đầu

cũng có nghóa là trước tiên, và cũng bằng mọi cách phải làm cho đốm lửa đó
càng ngày càng bền vững, trở thành một thói quen, biến thành những cá tính,
đào tạo thành những con người có bản chất tốt đẹp, cao thượng.
Chức năng giáo dục và đối tượng lứa tuổi là hai vấn đề có liên quan
chặt chẽ với nhau. Vì như trên đã nói: mọi cách khai thác đề tài và xây dựng
chủ đề có liên quan đến trình độ nhận thức của mỗi lứa tuổi. Có ý thức rõ ràng
về sự nhận thức của mỗi lứa tuổi sẽ giúp chúng ta nhắm đúng đối tượng. Nhắm
càng đúng đối tượng càng phát huy được tốt các chức năng giáo dục.
Trong văn học thiếu nhi, vấn đề đối tượng và vấn đề chức năng giáo
dục là hai vấn đề chủ yếu. Nó hướng dẫn cho sáng tác, nó cũng giúp việc đánh
giá một sáng tác văn học cho thiếu nhi, giúp ta nhìn rõ hơn mỗi giai đoạn dài
của văn học thiếu nhi. Nhưng sẽ thực sự khô khan nếu một tác phẩm văn học
thiếu nhi lúc nào cũng nhắm đến việc giáo dục thiếu nhi bằng những khuôn
phép. Và cũng cần phải tính đến đặc điểm đối tượng là thiếu nhi, khi mà các
Trang 13


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

em luôn luôn sống trong tưởng tượng. Ở giai đoạn lứa tuổi này, trí tưởng tượng
rất phát triển. Bởi vậy, văn học thiếu nhi mang một đặc điểm nữa là tính giàu
ước mơ, tưởng tượng.

1.3 Tính giàu ước mơ, tưởng tượng:
Có lẽ không có trẻ em ở đâu lại không thích thú thế giới truyện cổ tích
của Anđecxen (Đan Mạch), của anh em Grim (Đức) và của văn học dân gian
các dân tộc. Những hình ảnh khác thường trong các truyện cổ tích đã làm say
mê bao trái tim trẻ thơ. Truyện cổ trong diện mạo hết sức đa dạng của mỗi dân
tộc, và khắp thế giới có thể xem là món quà quý sẵn dành cho trẻ em ở lứa
tuối thơ. Sức hút của truyện cổ phải chăng chính là chất ảo, chất tưởng tượng

của nó, không kể nó còn đậm chất vui, chất hài, chất ngộ nghónh, ly kỳ. Bằng
đấy thứ chất liệu, nó có khả năng đưa các em vào một thế giới khác với hiện
thực xung quanh, hiện thực hàng ngày, không tạo một cảm giác xa lạ mà vẫn
gợi nơi các em cái cảm tưởng tất cả những gì được kể đều là có thực, là có thể
xảy ra. Nói cách khác, nó kích thích ở các em khả năng đồng hoá thế giới của
tưởng tượng, của ước mơ vào thế giới thực. Phải nói khả năng đồng hoá, khả
năng kết hợp đó là rất kỳ diệu, nó chỉ có thể là sản phẩm riêng của tuổi thơ.
Con người đến lúc lớn khôn cái đó sẽ mất đi. Cùng với sự hiểu biết và vốn
kiến thức được bồi đắp thêm, ta lại dễ dàng đánh rơi hoặc làm mòn mỏi đi
năng lực của ước mơ, tưởng tượng. Bên cái được có cái mất, âu đó là luật bù
trừ. Và chỉ những ai có khả năng cưỡng lại sự mất mát này, giữ lại được sự bồi
đắp của tưởng tượng, mới là người kéo dài được cuộc đối thoại với tuổi thơ.
Có thể nói giàu ước mơ, tưởng tượng là đặc điểm có ý nghóa thuộc tính
của văn học thiếu nhi, phù hợp với bản chất lứa tuối. Văn chương cho thiếu nhi
cần dùng ước mơ, tưởng tượng để lónh hội hiểu biết, khám phá cuộc sống ,
đồng thời dẫn dắt các em đi thật sâu và vươn thật xa trong cuộc đời. Đúng như
tác giả Phong Lê đã viết: “Văn học thiếu nhi vốn cũng phải thực hiện các chức
năng của văn học nói chung. Nhưng tôi muốn lưu ý một chức năng mà thiếu
nó, hẳn văn học thiếu nhi sẽ không tồn tại trong một sự phân biệt rạch ròi với
văn học người lớn như ta thường nói, và vẫn thường bàn. Đó là yêu cầu kích
thích, khơi gợi, phát huy năng lực tưởng tượng, sáng tạo ở các em. Điều này rất
cần, cần cho tuổi thơ và cần ngay từ tuổi thơ”. [21]
Tưởng tượng là một phẩm chất vô cùng quý giá của trí tuệ loài người và
ta phải bồi dưỡng nó một cách trân trọng ngay từ thû nhỏ, y như bồi dưỡng tài
âm nhạc chứ không được giày xéo lên nó. Lê-nin đã nói về tưởng tượng như
sau: “Thật là sai lầm nếu nghó rằng chỉ có nhà thơ mới cần có tưởng tượng. Đó
là một đònh kiến ngu xuẩn! Tưởng tượng là một phẩm chất cực kỳ quý báu.
Thiếu óc tưởng tượng thì cả khoa Vật lý, cả ngành Hoá học cũng đều đình đốn
Trang 14



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

hoàn toàn, bởi vì xây dựng những giả thuyết mới, phát minh ra những dụng cụ
mới, những biện pháp nghiên cứu, thí nghiệm mới, tiên đoán những hợp chất
hoá học mới, tất thảy những cái đó đều là sản phẩm của óc tưởng tượng. Hiện
tại là thuộc về những người thổ cựu tinh táo và thận trọng, còn tương lai thuộc
về những ai tưởng tượng. Nếu không có sự tham gia của óc tưởng tượng thì tất
cả các kiến thức của chúng ta về tự nhiên sẽ chỉ hạn chế ở mỗi việc là phân
loại các sự kiện mà thôi. Mối quan hệ giữa các nguyên nhân và tác động của
chúng sẽ tan ra tro bụi và đồng thời chính bản thân khoa học, mà mục đích
chính là xác lập những mối liên hệ giữa các bộ phận khác nhau của tự nhiên,
cũng sẽ sụp đổ hoàn toàn, bởi vì óc tưởng tượng, sáng tạo chính là năng lực
nhanh chóng xác lập những mối liên hệ ngày càng mới mẻ”. [47]
Ở đây, cần nhận thức rằng nhân loại trên con đường tiến hoá của mình,
cũng như đời một con người, từ thơ ấu đến tuổi trưởng thành đều có một hướng
đi và một đích chung, vươn về cái đẹp, cái chân, cái thiện .
Vẫn với chức năng khơi gợi sức tưởng tượng ở các em, đồng thời với vô
vàn câu hỏi được nhân lên theo năm tháng, suốt từ lúc ấu thơ cho đến tuổi
trưởng thành, đem lại cho các em một nhận thức đúng và ngày càng sâu về thế
giới xung quanh, từ gần đến xa, từ tự nhiên đến con người, từ gia đình tới xã
hội …Đó là mục tiêu mà mọi người viết, mọi trang viết cần đạt được. Nhưng
đạt được bằng con đường nào lại là chỗ phân biệt sách cho người lớn nói chung
và sách cho thiếu nhi.
Qua những cuộc tìm hiểu, ta thấy các em thích những bài thơ nhiều chất
tưởng tượng. Đó là việc bình thường vì trẻ em vốn giàu tưởng tượng. Tưởng
tượng là giai đoạn chuẩn bò cho lí trí phát triển. Cũng không nên quan niệm
rằng trẻ em chỉ mải nhìn cái bề ngoài mà không hiểu nổi cái bản chất bên
trong sâu kín, dù chỉ là cảm tính đối với hình tượng. Quan niệm như vậy chỉ
làm nghèo đi những ước mơ, tưởng tượng q giá vốn có của các em và do văn

chương mang lại cho các em. Ước mơ, tưởng tượng cần phải cao đẹp, trong
sáng, hướng vào việc cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân mỗi con người
các em.
Một đặc điểm cũng mang ý nghóa thuộc tính nữa của văn học thiếu nhi
là hồn nhiên, vui tươi.

1.4 Tính hồn nhiên, vui tươi:
Đây là một nét tâm lý đặc thù của trẻ em. Các em suy nghó, hành động
tự nhiên, bộc trực, không thích sự lắt léo, mưu toan, không thích chìm đắm
trong sự suy tư trầm lắng mà thích sự rộn ràng, ngộ nghónh, vui tươi. Dù phải
nói tới sự khó nhọc, buồn phiền, mất mát nhưng văn học viết cho thiếu nhi vẫn
Trang 15


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

phải hướng tới sự trung thực, niềm lạc quan, tạo ra một không khí hồn nhiên,
vui tươi.
Bài “Con voi” nói lên sự thật một trăm phần trăm, ai cũng biết, thế
nhưng nhạc điệu tự do, thoải mái của từng câu thơ làm cho toàn bài thơ sinh
động, vui tươi. Mỗi câu thơ, như khi trỏ, khi gọi, khi như tả, như đùa… đã đi
vào tâm hồn trẻ nhỏ, mặc dù các em chưa hiểu hết ý nghóa khái quát của bài
thơ:
Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Còn cái đuôi đi sau rốt
Tôi xin kể nốt
Cái chuyện con voi…

< Đồng dao>
Một em bé mới lên 5 tuổi thấy ông đau chân, chống gậy đi khập khà
khập khiễng, bước lên thềm nhà , có vẻ đau đớn, bé lon ton chạy đến: “Ông
vòn vai cháu; Cháu đỡ ông lên”, và “phổ biến” cho ông cách làm thế nào để
quên đau:
Khi nào ông đau,
Ông nhớ lấy câu
Bố cháu vẫn dạy,
Nhắc đi nhắc lại
“ Không đau! Không đau!”
Dù đau đến đâu,
Khỏi ngay lập tức.
< Thương ông – Tú Mỡ>
Ông chiều ý làm theo và gật đầu nói cho cháu vui rằng cái mẹo chữa
đau của cháu hiệu nghiệm như thần:
Việt ta thích chí:
“Cháu đã bảo mà!”

Trang 16


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Và rút túi ra…
Biếu ông cái kẹo
< Thương ông – Tú Mỡ>
Cử chỉ thật đột nhiên, gây được nụ cười âu yếm. Ở đây sự hồn nhiên
xuất phát từ tình thương mến, rất cảm động.
Hay bài “Lượm” của Tố Hữu là một bài thơ mẫu mực về tính hồn
nhiên, vui tươi dành cho thiếu nhi:

Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường làng.
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo.
Đồng quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca nô chú bé
Nhấp nhô trên đồng.
< Lượm- Tố Hữu>
Chiến tranh, bom đạn của kẻ thù không làm mất đi sự hồn nhiên, trong
sáng của tuổi nhỏ. Ở đây không còn sự đau khổ, chết chóc mà bao trùm lên
toàn bộ bài thơ là nét ngộ nghónh, đáng yêu, sự vô tư của một chú bé giao liên
hay đó chính là hình ảnh của người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất.
Trang 17


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Như vậy, một tác phẩm văn học thiếu nhi được cho là tác phẩm hay khi
nó sát với nhu cầu và nhận thức của trẻ em. Trẻ em luôn mang theo những
hình ảnh, những ước mơ, những ấn tượng về trang sách mà chúng đã đọc được
vào tương lai. Sự tác động sâu xa bền vững ấy của tác phẩm văn học vào cuộc

đời trẻ, đòi hỏi những tác phẩm được coi là dành cho thiếu nhi, cho trẻ em phải
có trách nhiệm rất lớn lao.
Cũng xuất phát từ đối tượng phục vụ là thiếu nhi, các bạn đọc nhỏ tuổi,
nên có những đặc điểm được nhấn mạnh mang những đặc thù của lứa tuổi nhỏ.

1.5 Tính ngắn gọn, độc lập:
Theo Nguyễn Mạnh Hiếu: “Tính ngắn gọn, độc lập phải thể hiện trên
từng bộ phận cấu thành tác phẩm, đồng thời mỗi câu, mỗi đoạn phải gần như
một chỉnh thể độc lập”. [7]
Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện
trong cả câu thơ, phù hợp với đặc điểm sinh lí của thiếu nhi. Do cấu trúc và cơ
chế hoạt động của trẻ còn non, còn chưa hoàn chỉnh, trẻ em không thể kéo dài
suy nghó của mình về bất cứ vấn đề gì. Để nâng cao hiệu quả dùng văn tác
động đến quá trình phát triển của trẻ, không được làm cho tiến trình tư duy của
trẻ phải mệt mỏi và kéo dài, trước câu hỏi của trẻ, câu trả lời phải được đưa ra
ngay, tránh nói vòng vo. Sự quá tải đối với hoạt động của não bộ là điều cần
tránh trong mọi tình huống.
Tính ngắn gọn, độc lập yêu cầu câu chữ phải được chắt lọc, loại bỏ câu
chữ dư thừa. Tính ngắn gọn còn quy đònh nhòp điệu của câu văn, câu thơ, số
chữ ít, câu đọc trơn, dễ thuộc, dễ nhớ. Ở đây, truyện thường có kết cấu đối lập,
tương phản, giúp cho trẻ dễ nắm bắt cốt truyện, dễ hiểu nội dung, ý nghóa của
câu chuyện và có thể kể lại truyện một cách dễ dàng. Còn thơ thường gần với
lối thơ vần vè dân gian. Dạng phổ biến là thơ 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ hoặc
lục bát, ví dụ:
…Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe…
<Ò… ó…o…- Trần Đăng Khoa>


Trang 18


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Bài thơ này chủ yếu dùng câu thơ từ 2 đến 3 chữ. Hay câu thơ có 4 đến
5 chữ:
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai…
< Chú bò tìm bạn- Phạm Hổ>
Trên đây là 5 đặc điểm chúng tôi đưa ra với mong muốn có một cái
nhìn tổng quát nhất về văn học thiếu nhi. Dó nhiên văn học thiếu nhi còn có
một số đặc điểm nữa như tính hội hoạ, tính giàu hình ảnh; tính chất trữ tình,
tính chọn lọc trong từng câu chữ… nhưng chúng tôi chỉ nhấn mạnh ở 5 điểm
trên, trong đó đặc điểm bao trùm của văn học thiếu nhi là tính đối tượng. Có
thể xem tính đối tượng là tiêu chí của văn học thiếu nhi, nó chi phối tất cả các
đặc điểm còn lại. Vì vậy khi dạy văn học thiếu nhi , không thể tách rời tính đối
tượng. Bên cạnh đó, chức năng giáo dục luôn gắn bó chặt chẽ với đối tượng
lứa tuổi . Trong thực tiễn, vấn đề chức năng giáo dục – chức năng hàng đầu và
vấn đề đối tượng luôn luôn được chú trọng để làm cho văn học thiếu nhi có
tính đa dạng và mang nhiều vẻ đẹp đã góp phần đắc lực rèn luyện tình cảm
đạo đức từng lớp thiếu nhi . Và sẽ thật thiếu sót nếu tác phẩm văn học thiếu
nhi không mang lại cho các em sự tưởng tượng . Ai cũng biết yếu tố tưởng
tượng vô cùng cần thiết đối với văn học thiếu nhi . Một tác phẩm viết cho trẻ
em không chỉ để cho các em thực sự thích thú mà còn phải kích thích ở các em
những khát vọng và niềm tin. Vì thế, không chỉ là tưởng tượng thuần tuý, tưởng
tượng trong tư duy hiện thực, dựa vào sự chiêm nghiệm của các tác giả về

cuộc sống mà còn là tưởng tượng có tính chất dự cảm, dự báo về tương lai
Văn học viết cho trẻ em phải đánh thức được khả năng rung động sâu
sắc của tâm hồn trẻ thơ, hình thành ở các em niềm tin gắn với những giá trò
thẩm mó, để từ vấn đề này trẻ em có thể nâng lên tầm tư tưởng, có ý nghóa
nhân sinh, nhân loại. Cho dù nhà thơ, nhà văn có viết về những bất công và
hiện thực đen tối của xã hội, thì cuối cùng cũng phải đánh thức trong tâm hồn
tuổi thơ những giá trò nhân văn cao cả.
Nghiên cứu văn học thiếu nhi nói chung là một quá trình lâu dài, đòi hỏi
phải có nhiều thời gian, nhiều tâm sức và là công việc của nhiều người.
Truyện và thơ là hai mảng lớn của văn học thiếu nhi, đã được nhiều nhà
nghiên cứu để tâm đến. Ở đề tài này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến thể loại thơ
và cụ thể là đặc điểm thơ thiếu nhi.

Trang 19


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

I.2 ĐẶC ĐIỂM THƠ THIẾU NHI
Trong cuốn “150 thuật ngữ văn học”, tác giả cho rằng: “Thơ là hình thức
sáng tác văn học phản ánh cuộc sống qua những tâm trạng, những cảm xúc dạt
dào, những tưởng tượng mạnh mẽ, trong một ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhất
là có hình ảnh rõ ràng”. Hay có một tác giả khác quan niệm: “Thơ là một loại
sáng tác văn học nhằm phản ánh hiện thực khách quan, thể hiện những tâm
trạng, những cảm xúc sôi nổi, đằm thắm của từng cá nhân trước những đối
tượng xác đònh bằng những hình ảnh cụ thể, gợi cảm nhờ ngôn ngữ hàm súc và
giàu nhòp điệu”. [32]
Có rất nhiều cách hiểu, cách quan niệm về khái niệm thơ nhưng chung
quy lại ta có thể nói: Thơ là một kiểu lời nói đặc biệt. Gọi là “kiểu lời nói đặc
biệt” vì thơ có những nét đặc thù về tách dòng, ngắt nhòp, gieo vần, tách khổ,

sử dụng các biện pháp tu từ… mà các thể loại khác không có lợi thế để sử
dụng.
Nói đến thơ phải quan tâm đến chất thơ và tứ thơ. Thơ không phản ánh
cuộc sống bằng những chi tiết phức tạp như ở tiểu thuyết, bằng những mâu
thuẫn giằng xé như trong kòch mà chỉ ghi lại những tình cảm, sự việc, hiện
tượng gây xúc động lòng người, tác động mạnh tới trí tưởng tượng của con
người. Vì vậy trong một bài thơ thường ít chi tiết, tình cảm rất cô đọng, tập
trung, tạo nên sự gợi cảm và rung động đối với tâm hồn người đọc. Những cái
có sức gợi cảm và làm rung động hồn người ấy chính là chất thơ.
Chất thơ lại cần được cấu tứ một cách đặc biệt sao cho có sự ăn nhập
hài hoà giữa hình tượng và ý nghóa, thể hiện được nét đặc sắc trong cách nhìn,
cách cảm và cách tìm tòi, biểu đạt của nhà thơ. Chính những cái đó tạo nên tứ
cho bài thơ. Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Một tứ thơ phải là hình tượng có
tìm tòi sáng tạo, thể hiện ý trọn vẹn, gợi lên điều tốt đẹp xúc động lòng người,
tạo ra những mối liên tưởng rộng rãi, nghóa là có giá trò thẩm mó cao” {32].
Như vậy, tứ thơ là cái thần, cái hồn của mỗi bài thơ.
Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, âm thanh, nhòp điệu và có độ hàm súc lớn.
Đó là thứ ngôn ngữ được chọn lựa kó càng, giàu sự biến hoá, mang nhiều biện
pháp tu từ hơn hẳn các loại khác. Do đó thơ có khả năng diễn đạt những cảm
xúc tinh vi, có sức thâm nhập, tác động tới miền sâu thẳm nhất của tâm hồn
con người, đồng thời cũng có sức hấp dẫn, lôi cuốn thật mãnh liệt.
Thơ có nhiều điểm, nhiều nét nhưng nét nổi bật nhất là tính nhòp điệu.
Tính nhòp điệu của thơ được thể hiện ở việc ngắt nhòp trong nội bộ của một
dòng thơ, khổ thơ và đoạn thơ. Chính vần thơ cũng là một yếu tố tạo nên tính
nhòp điệu cho thơ. Thơ có thể thiếu vần nhưng không thể thiếu nhòp điệu. Nhòp
điệu quan trọng đến mức thiếu nó thì không thể có thơ. Tuỳ theo những sắc
Trang 20


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


thái khác nhau của rung động và cảm xúc, người làm thơ có thể chọn cho mình
những nhòp điệu thích hợp, những cách phối hợp bằng- trắc với giọng thật hài
hoà để tạo nên nhòp cho thơ.
Những điều nói trên đã cho thấy: Thơ là một kiểu lời nói đặc biệt. Kiểu
lời nói này đòi hỏi phải có chất thơ và tứ thơ, có hình ảnh, cảm xúc và được
diễn tả bằng ngôn ngữ có âm thanh, nhòp điệu nhất đònh nhằm bộc lộ được “cái
tôi trữ tình” của thơ.
Về thơ thiếu nhi, bao gồm bộ phận thơ do người lớn viết cho trẻ em và
bộ phần thơ do chính các em viết. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ xét
đến đặc điểm thơ thiếu nhi Việt Nam do chính các em viết.

2.1 Về nội dung
1.1 Cuộc đời qua những cặp mắt xanh non:
Đối với tuổi thơ, thiên nhiên, tạo vật luôn là những cái gần gũi nhất đối
với các em, là môi trường gắn bó sâu sắc của thế giới trẻ thơ. Các em yêu
thiên nhiên, tạo vật, gắn bó với thiên nhiên, thích sống hoà nhập với thiên
nhiên, thể hiện tâm hồn trong trẻo, tinh nguyên của mình.
Em bé Ngô Thò Bích Hiền, mới 5 tuổi, chưa biết viết, nhưng thuộc nhiều
bài thơ. Em đã làm thơ ứng khẩu và nhờ mẹ chép lại cho. Đây là những bài thơ
em viết về mưa:
Mưa mưa mưa
Rơi rơi rơi
Lộp bộp bộp
Trên mái nhà
Thành chùm hoa
Dưới hồ nước
Ướt ướt ướt
Trên cành cây
Lay lay lay

Cánh cửa sổ
Sạch đường phố
Mát đôi chân
Trang 21


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Trời tạnh dần,
Yêu mưa lắm
<Mưa- Ngô Thò Bích Hiền>
Và về trăng:
Ông giăng ơi
Cháu đi
Sao ông lại đi?
Cháu đứng
Sao ông lại đứng?
Ông đứng nhìn ai?
Mẹ cháu về nhà
Sao lại gặp ông?
Sao ông to thế
Mẹ ông tên gì?
Nói cho cháu biết
Để cháu lên chơi
<Ông Giăng- Ngô Thò Bích Hiền>
Đây là những vần thơ được hình thành từ một tâm hồn trẻ thơ, bằng con
mắt thơ về những sự vật vô cùng gần gũi với tuổi thơ: hạt mưa, ông giăng. Hạt
mưa làm cho khí trời mát mẻ, đường phố sạch sẽ, mát bàn chân em đi và cho
cỏ cây tốt tươi. Ông giăng là người bạn muôn đời của trẻ thơ và của thi nhân.
Ngắm trăng là thú vui của trẻ nhỏ và của cả thi nhân. Nhưng hỏi trăng: “Mẹ

ông tên gì? Nói cho cháu biết” thì thật là trẻ thơ; và “Để cháu lên chơi” thì lại
thành “mơ” rồi! Cái vui tươi, ngộ nghónh thật đáng yêu.
Em Hoàng Hiếu Nhân ở Quảng Bình lại rất mê quả đòa cầu của chú
tặng cho:
Chú cho em quả đòa cầu
Em nhìn bốn biển năm châu rành rành
Trục này em vặn quay nhanh,
Em đi mấy đợt vòng quanh đòa cầu.
Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc châu,
Trang 22


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Đất nào đẹp, nước nào giàu tìm xem.
Ở đâu bằng đất nước em,
Đã giàu đẹp lại mang tên anh hùng.
Chỉ một loáng mà đi được mấy đợt vòng quanh đòa cầu. Mới nghe tưởng
vô lý nhưng vẫn có lý mà lại hóm hỉnh nữa. Điều đáng chú ý ở đây là Hoàng
Hiếu Nhân đã mượn quả đòa cầu để nói lên lòng yêu quê hương, đất nước của
mình. Một em bé đã có ý thức như vậy, đã biết gửi gắm những tình cảm của
mình qua câu chữ, qua bài thơ, quả thực đây không còn là cuộc đời qua cặp
mắt “xanh non” nữa. Thơ của em đã đụng tới chiều sâu của tâm hồn. Suy nghó
cảm tính của lứa tuổi nhỏ dường đã như mất đi, thay thế vào đó là cái nhìn
“người lớn” nhưng cũng không phải làm giảm đi sự vô tư, hồn nhiên của tuổi
thơ.
Còn Trần Đăng Khoa lại có những vần thơ về thiên nhiên, tạo vật theo
một cách riêng. Nghe tiếng gà gáy mà em tưởng như tiếng gà ấy đang “gọi
ông mặt trời nhô lên rửa mặt” và “giục đàn sao trên trời chạy trốn”, rồi “giục
quả na mở mắt tròn xoe”… Một hiện tượng bình thường khác là kiến tha giun

về tổ làm mồi, nhưng dưới con mắt trẻ thơ của Trần Đăng Khoa thì đó là một
“đám ma” với đủ các thành phần, các ngôi bậc trong họ hàng nhà kiến đến
viếng thăm và tiễn đưa “bác giun” về nơi “yên ngủ cuối cùng”. Nghó và nhìn ra
được như thế chỉ có thể có ở đôi mắt trẻ thơ.
Thiên nhiên là một đề tài vô tận và luôn luôn mới mẻ trong văn học.
Thiên nhiên cũng là đề tài muôn thû của văn học thiếu nhi. Trần Đăng Khoa
cũng như biết bao bạn nhỏ khác được sống giữa thiên nhiên và chính thiên
nhiên ấy đã đem lại cho các em những cảm hứng thơ.
Nhìn chung, thơ của các em ở lứa tuổi nhỏ đều phản ánh những đề tài,
nội dung hết sức gần gũi với cuộc sống của các em. Cuộc đời qua con mắt của
các em hiện ra mang đầy chất trẻ thơ, mang cách lý giải của lứa tuổi nhỏ. Đọc
thơ của các em ta thấy sự vật như đang hiện ra trước mắt, thật gần gũi, thật
thân thương nhưng cũng không thiếu sự hấp dẫn.
Yêu thiên nhiên, tạo vật, nhìn cuộc đời qua những cặp mắt xanh non,
nhưng các em cũng biết dành tấm lòng nhân hậu, tình yêu của mình đối với
con người.

1.2 Lòng nhân hậu và tình yêu của trẻ thơ:
Đây cũng là đặc điểm nổi bật trong thơ do các em viết. Cuộc sống tình
cảm của các em xoay quanh các mối quan hệ gần gũi trong gia đình, nhà
trường và một phần trong các mối quan hệ xã hội. Chúng ta đọc được những

Trang 23


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

vần thơ xúc động nhất của các em khi nói về mẹ, bố, ông, bà, cô giáo, bạn
bè…
Bữa cơm vắng bố

Chiếu thừa chỗ ngồi
Mâm thừa một chỗ
Em càng thương bố…
<Bữa cơm vắng bố-Trần Thò Thuý Giang>
Hay về bà:
Thương đời bà vất vả
Đè nặng tấm lưng còng
Ôi dáng bà giống quá
Chiếc quạt mo cong cong…
<Chiếc quạt của bà-Trần Kim Dũng>
Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh thật xúc động. Tấm lưng của bà, tấm
lưng của một cuộc đời khổ nhọc, vất vả. Mưa nắng cuộc đời đè nặng lên lưng
bà, giờ đây đã tạo thành một dấu ấn là lưng bà đã còng xuống. Trần Kim
Dũng đã ví nó như “chiếc quạt mo cong cong”. Thật độc đáo nhưng cũng thật
xót xa.
Lê nh Dương cũng có một bài thơ rất xúc động viết về ông:
Gió nam ra phần phật
Dừng lại chút gió ơi
Ta gửi ông ngoài khơi
Một cần câu câu cá
Một mảnh vải và buồm
Một tấm áo nâu sồng
Đêm ông nằm biển lạnh
<Gửi ông-Lê Ánh Dương>
Tình cảm của các em phong phú nhiều vẻ. Những tình cảm đó thường là
động lực giúp các em đi đến những hành động, những việc làm tuy nhỏ nhưng
mang ý nghóa lớn. Như việc dắt bà qua đường trong bài thơ: “Cháu dắt tay bà
qua đường” của Mai Hương:
Trang 24



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Cháu học về giữa trưa
Nắng rất nhiều mà bà không thấy
Đường lắm xe bà dò theo chiếc gậy
Cái gậy tre run run…
Hoặc thể hiện bằng những hành động cụ thể khi mẹ vắng nhà:
Khi mẹ vắng nhà em luộc khoai
Khi mẹ vắng nhà em cùng chò giã gạo
Khi mẹ vắng nhà em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà em quét sân và quét cổng
Sớm mẹ về thấy khoai đã chín
Buổi mẹ về gạo đã trắng tinh
Trưa mẹ về cơm dẻo và ngon
Tối mẹ về cổng nhà sạch sẽ.
< Khi mẹ vắng nhà-Trần Đăng Khoa>
Bài thơ chưa thật thơ nhưng ít nhiều thể hiện được những việc làm cụ
thể và hết sức tốt đẹp của các em. Chưa thực sự thành công nhưng những câu
thơ như thế phản ánh tình cảm yêu thương của các em đối với ông bà, cha mẹ
và những người thân thích của mình.
Không chỉ là những tình cảm trong gia đình, gặp chú lái xe trên đường
ra hoả tuyến, em bé đã lo lắng vì lá ngụy trang khô, đã thương chú lái xe qua
nhiều đêm không ngủ:
Đôi bàn tay nho nhỏ
Chặt cành là ngụy trang
Cháu che cho xe hàng
An toàn ra tiền tuyến
<Gặp chú hôm nay-Nguyễn Bá Trợ>

Em bé không biết làm gì để giúp chú lái xe đưa hàng ra tiền tuyến an
toàn, chỉ còn một cách bộc lộ tình cảm của mình là em chặt cành lá ngụy trang
để “che” cho xe của chú ra tiền tuyến được an toàn.

Trang 25


×