Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Tiểu luận - Ngân hàng ADB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.74 KB, 51 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ
ĐỀ TÀI NHÓM MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Đề tài: Ngân hàng ADB
GVHD: TS. Lê Tuấn Lộc
Nhóm thực hiện:
Nguyễn Thị Cam K07402
Nguyễn Thị Ngọc Hiếu K07402
Lê Thị Loan K074020321
Trần Trung Thông K074020380
Nguyễn Bình Phương Uyên K074020384
Năm học 2009-2010
Mục lục:
Mở đầu………………………………………………………………………
I.GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG ADB……………………………………
1.Giới thiệu chung………………………………………………………….
2.Cơ chế hoạt động…………………………………………………………
3.Chức năng……………………………………………………………………..….
4. Chiến lược và mục tiêu hoạt động……………………………………………
5.Cơ cấu tổ chức…………………………………………………………………..
II-HOẠT ĐỘNG CỦA ADB:…………………………………………………
III-CÁC SẢN PHẨM TÀI CHÍNH CỦA ADB:………………………………
IV-ADB VỚI VIỆT NAM
V-KẾT LUẬN……………………………………………………………….
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ XXI được dự đoán là thế kỷ của châu Á vì những phát triển vượt bậc về kinh tế trong
những thập kỷ qua của thế kỷ XXvới sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, sự vươn lên mạnh mẽ của
Trung Quốc, cũng như sự tăng trưởng của các nền kinh tế khác.
Mặc dù vậy, kinh tế châu Á vẫn đứng trước rất nhiều khó khăn và thử thách. Vẫn còn rất nhiều
nước kém phát triển và đang phát triển, kinh tế còn gặp quá nhiều khó khăn, cuộc sống của người
dân không được đảm bảo. Châu Á chiếm tới 2/3 số người nghèo trên thế giới. Và có thể nói vấn đề


lớn nhất là vấn đề mà các nền kinh tế châu Á đang gặp phải là vấn đề về nguồn vốn. Chính vấn đề
này là nguyên nhân đã dẫn đến rất nhiều vấn đề tiêu cực khác của nền kinh tế. Các chính phủ thiếu
vốn để thực hiên các dự án phát triển kinh tế đất nước của mình. Từ đó kéo theo nhiều vấn đề liên
quan như thất nghiệp, chất lượng cuộc sống thấp.
Trước tình hình đó, năm 1966 ngân hàng phát triển châu Á (viết tắt là ADB) đã ra đời nhằm giúp
các nước châu Á xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế. Từ đó đến nay Ngân hàng đã có rất nhiều
hoạt động để thực hiện mục tiêu đó của mình.
Chủ tịch ADB Haruhiko Kuroda
I-Giới thiệu chung về Ngân Hàng Phát Triển Châu Á- ADB:
1. Ngân hàng Phát triển châu Á ( The Asian Development Bank –ADB) là một ngân hàng phát
triển khu vực được thành lập năm 1966, có trụ sở chính tại Manila, và chủ tịch là một người Nhật
Bản với 66 thành viên bao gồm 47 nước trong khu vực và 19 nước ở các nơi khác trên khắp toàn
cầu.
ADB là một thể chế tài chính đa phương cung cấp các khoảng tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật lần lượt
vào khoảng 6 tỉ và 180 triệu USD mỗi năm.nhằm giúp các nước châu Á xóa đói giảm nghèo , phát
triển kinh tế-xã hội.
CHXHN Việt Nam là thành viên của ADB từ năm 1966.
2.Cơ chế hoạt động:
ADB được xây dựng như một bản sao của World Bank, với nguồn vốn thành lập xuất phát từ
Chính phủ các nước Mỹ, Nhật và Tây Âu. Nguồn tài trợ chính cho các khoản cho vay của ADB là
từ việc phát hành trái phiếu trên thị trường châu Âu. Dù cho mức tăng trưởng kinh tế mau lẹ ở một
số nước thành viên trong thời gian gần đây đã dẫn đến một số thay đổi tới một mức độ nào đó, thì
hầu như trong suốt lịch sử của ADB, ngân hàng này vẫn hoạt động trên cơ sở các dự án, đặc biệt
là trong những lĩnh vực như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp và cấp vốn vay cho
các ngành công nghiệp cơ bản ở các nước thành viên. Trên lý thuyết, ADB là người cho vay của
các Chính phủ và các tổ chức của Chính phủ, song nó còn tham gia vào quá trình nâng cao tính
thanh khoản và tối ưu hoá hoạt động trong các khu vực tư nhân ở các nước thành viên trong khu
vực.
3.Chức năng: hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng , phát triển xã hội, quản lý kinh
tế tốt.

-Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng: tăng trưởng kinh tế không tự nhiên có tính
bền vững và thường làm gia tăng mất công bằng. Để tăng trưởng bền vững và công bằng, cần có sự
can thiệp trong khi vẫn đảm bảo một sự phát triển thân thiện với thị trường .
-Phát triển xã hội: giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng để giảm thiểu những rủi ro trong quá
trình phát triển kinh tế .
-Quản lý kinh tế tốt: thực hiên các chính sách kinh tế một cách có trách nhiệm, có sự tham gia, có
khả năng dự đoán, và minh bạch, chống tham nhũng .
4. Chiến lược và mục tiêu hoạt động của ADB
Khuôn khổ chiến lược trung và dài hạn của ADB trong giai đoạn 2001 – 2015 đã xác định
các lĩnh vực cần chú trọng và chỉ ra phương hướng hoạt động của ADB trong giai đoạn này. Khuôn
khổ chiến lược đó đã đưa ra 6 mục tiêu phát triển dài hạn: (i) tăng trưởng kinh tế bền vững; (ii)
phát triển toàn diện về xã hội; (iii) quản lý thể chế và chính sách có hiệu quả; (iv) nâng cao vai trò
của khu vực tư nhân trong phát triển; (v) hợp tác và hội nhập vùng và (vi) bền vững về môi trường.
Như vậy, ngoài vai trò truyền thống là người cung cấp tài chính cho các dự án phát triển ở các nước
đang phát triển (DMC), ADB đã đảm nhận nhiệm vụ mới đó là tham gia vào các vấn đề mang tính
chính sách, tạo sự phát triển bền vững và những vấn đề liên quan đến hợp tác khu vực.
Mục tiêu hoạt động chính:
-Bảo vệ môi trường: người nghèo ở thường bị buộc phải sống ở những khu vực có điều kiện môi
trường bất lợi. Muốn xóa nghèo thì phải bảo vệ môi trường.
-Hỗ trợ giới: ở nhiều nước, phần lớn người nghèo là phụ nữ. Hỗ trợ phụ nữ phát triển là một biện
pháp xóa nghèo.
-Hỗ trợ khu vực tư nhân: khuyến khích cải cách và hoàn thiện môi trường chính sách để tạo
thuận lợi cho kinh tế tư nhân , hỗ trợ sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, cho vay
và hỗ trợ kỹ thuật cho các xí nghiệp tư nhân và thể chế tài chính tư nhân
-Khuyến khích hợp tác và liên kết khu vực: khuyến khích sự hợp tác giữa các chính phủ để phát
triển cơ sở hạ tầng , bảo vệ môi trường, thúc đẩy thương mại và đầu tư , ...
5.Cơ cấu tổ chức
-Ban thống đốc: là cơ quan ra quyết định cao nhất của ADB . Ban thống đốc do mỗi quốc gia
thành viên đóng góp một đại diện.
Ban Thống đốc còn bầu ra chủ tịch Ngân hàng, là người đứng đầu Ban Giám đốc và điều hành

ADB. Mỗi chủ tịch giữ cương vị của mình trong một nhiệm kì kéo dài 5 năm và có thể được tái đắc
cử. Theo truyền thống và vì Nhật Bản là một trong những cổ đông lớn nhất của ADB, cho nên chủ
tịch của ADB đã luôn là người Nhật. Chủ tịch đương nhiệm của ADB là Haruhiko Kuroda.
-Ban giám đốc: gồm 12 thành viên do ban thống đốc bầu ra, và các cấp phó của họ.8 trong số 12
thành viên này là đại diện của các quốc gia trong khu vực(các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương)
và số còn lại là từ các quốc gia ngoài khu vực.
Trụ sở của ngân hàng ADB đặt tại 6 ADB Avenue, thành phố Mandaluyong, Metro Manila,
Philippine, và có văn phòng đại diện trên khắp thế giới. Hiện ADB có khoảng 2400 nhân viên, đến
từ 53 trên tổng số 67 quốc gia thành viên (theo web ADB.org tính đến 2/2007), và hơn một nửa số
nhân viên của họ là người Philippine.
II. Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Châu Á
Tầm nhìn của ADB là biến khu vực Châu Á và Thái Bình Dương trở thành một khu
vực không có tình trạng nghèo. Sứ mệnh của ADB là hỗ trợ các nước thành viên
đang phát triển giảm nghèo và nâng cao chất lượng sống của người dân. Mặc dù
có rất nhiều thành công, khu vực này vẫn là khu vực chiếm đến 2 phần 3 dân số
nghèo của thế giới: 1,8 triệu người sống với mức thu nhập dưới 2 USD một ngày,
trong đó 903 triệu người đang phải vật lộn với mức thu nhập dưới 1,25 USD một
ngày. ADB cam kết giảm nghèo thông qua tăng trưởng kinh tế toàn diện, phát
triển một cách bền vững với môi trường và hội nhập khu vực.
Để hoạt động có hiệu quả, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) phải làm việc với rất nhiều cá
nhân và tổ chức khác nhau. Muốn tạo dựng được những quan hệ đối tác mạnh mẽ và hiệu quả,
ADB phải được nhiều người biết đến, động cơ và mục tiêu của ADB phải rõ ràng và dễ hiểu và
ADB phải được nhìn nhận như một tổ chức mang tính chuyên nghiệp, định hướng vào kết quả và
mang tính thực tế. ADB làm việc chặt chẽ với các bên vay và những người tài trợ dự án khu vực tư
nhân để chuẩn bị và thực hiện các hoạt động phát triển.
* Các hoạt động chính của ADB
(i) Nguồn vốn của ADB
- Nguồn vốn đặc biệt (ADF) chủ yếu là vốn do các nước hội viên đóng góp. Nguồn ADF là
nguồn cho vay ưu đãi của ADB với điều kiện vay là 32 năm (bao gồm 8 năm ân hạn), lãi suất
1%/năm trong thời gian ân hạn và 1,5% sau đó.

- Nguồn vốn thông thường (OCR) chủ yếu là vốn ADB huy động từ thị trường vốn quốc tế và
một phần vốn góp của các nước hội viên. Điều kiện vay từ nguồn OCR là 25 năm (bao gồm 5
năm ân hạn), phí cam kết là 0,75%/năm, lãi suất là LIBOR cộng với một khoản phí chênh lệch
của ADB
(ii) Hoạt động cho vay
Theo tính chất nguồn vốn vay, các khoản vay của ADB được chia làm 2 loại: cho vay ưu
đãi từ nguồn vốn ADF và cho vay theo lãi suất thị trường từ nguồn vốn OCR. Căn cứ vào tiêu chí
thu nhập và khả năng trả nợ, các nước hội viên vay vốn của ADB được phân thành các nhóm từ A
đến C để xác định hình thức vay, trong đó
- Nhóm A: gồm các nước chỉ vay từ nguồn ADF
- Nhóm B1: gồm các nước vay phần lớn từ nguồn ADF và một phần từ nguồn OCR
- Nhóm B2: gồm các nước vay phần lớn từ nguồn OCR và một phần từ nguồn ADF.
- Nhóm C: gồm các nước chỉ vay từ nguồn OCR
Việt nam hiện nay đang thuộc nhóm B1
Các phương thức cho vay chính của ADB gồm: Khoản vay dự án, khoản vay chương trình,
khoản vay theo ngành, hạn mức tín dụng.
(iii) Hoạt động hỗ trợ kỹ thuật (HTKT): Ngoài các khoản vay cho dự án, chương trình, ADB còn
tài trợ cho các dự án HTKT bằng nguồn vốn không hoàn lại để giúp các nước hội viên chuẩn bị
khoản vay, tăng cường năng lực, thể chế, xây dựng chiến lược phát triển …
(iv) Hoạt động khu vực tư nhân: bao gồm đầu tư cổ phần, cho vay trực tiếp để hỗ trợ khu vực tư
nhân phát triển và tham gia vào quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước hội viên
(v) Hoạt động đồng tài trợ và bảo lãnh: ADB phối hợp với các nhà tài trợ khác trong các chương
trình, dự án, xây dựng chiến lược phát triển và bảo lãnh cho các khoản vay khu vực công cộng hoặc
tư nhân của các nước hội viên.
Một số hoạt động cụ thể của ADB
1. Thường xuyên lập các báo cáo phát triển về tình hình tăng trưởng kinh tế xã hội của các
nước trong khu vực châu Á và đưa ra những dự báo
2. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã
cam kết hỗ trợ Kế hoạch hành động chống tham nhũng của châu Á và Thái Bình Dương,
một kế hoạch đã được 20 nước thành viên của ADB tán thành từ tháng 11 năm 2001

1
. Kế
hoạch hành động ADB-OECD nhằm hỗ trợ các hoạt động khu vực có liên quan đến ba
thành tố của chương trình là:(1) phát triển hệ thống dịch vụ công cộng hoạt động hiệu quả
và minh bạch, (2) củng cố các hoạt động chống hối lộ và tăng cường tính liêm chính trong
hoạt động kinh doanh, (3) hỗ trợ việc tham gia tích cực của quần chúng
2
. Cả hai tổ chức này
dẫn đầu trong việc huy động nguồn lực cho các quốc gia đang tìm kiếm hỗ trợ thông qua kế
hoạch hành động này. Thông qua việc cam kết giúp đỡ các quốc gia đảm bảo nguồn lực cho
những sáng kiến chống tham nhũng ADB và OECD hướng tới việc tạo ra động lực hành
động cho các Chính phủ. Tuy nhiên, một vấn đề khó khăn khi giải quyết nạn tham nhũng là
ban đầu chỉ có 18 trong số 33 Chính phủ có mặt tại Tokyo tháng 11 năm 2001 ký vào kế
hoạch hành động
1
, bởi thuộc tính thu hút sự tham gia một cách rộng rãi ở mức có thể, kế
hoạch này không mang tính bắt buộc.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng đã gặp phải trường hợp tương tự khi nỗ lực thúc đẩy
việc ký kết Hiệp định về hoạt động mua sắm của Chính phủ trong đó các bên tham gia ký kết chấp
nhận trình tự mua sắm minh bạch và không phân biệt đối xử. Cho đến nay, ở châu Á chỉ có Hồng
Kông (Trung Quốc), Nhật Bản, Hàn Quốc, và Sing-ga-po đã ký vào Hiệp định. Vì nhiều lý do và
ngoại trừ Đài Loan (Trung Quốc), các nước còn lại trong khu vực, thậm chí còn chưa bắt đầu đàm
phán gia nhập hoặc chấp nhận tham gia với tư cách là quan sát viên
2
. Bước tiến tích cực nhất của
các nước trong việc đạt đến các tiêu chuẩn của WTO chính là việc Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương thành lập Nhóm các chuyên gia trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ mà năm
1999 đã chấp nhận “Các nguyên tắc không bắt buộc về hoạt động mua sắm của Chính phủ”
3
.

Một số tổ chức quốc tế đã nỗ lực hình thành một chương trình chống tham nhũng trực tiếp hơn,
như Ngân hàng thế giới đã đưa ra một số sáng kiến quốc gia về quản lý và chống tham nhũng.
Trong những Dự án hỗ trợ của Ngân hàng ở khu vực có Dự án xây dựng năng lực của khu vực kinh
tế và công cộng ở Campuchia (2002) chương trình hỗ trợ giai đoạn quá độ của Đông Ti-Mo (2002)
và hợp tác cải cách quản lý ở In-đô-nê-xi-a (2002).
Các tổ chức quốc tế đã tỏ ra đặc biệt linh hoạt trong các vấn đề chống tham nhũng cụ thể, đặc biệt
là những vấn đề có liên quan đến hoạt động rửa tiền. Gần đây, Lực lượng đặc biệt hành động trong
lĩnh vực tài chính (FÀT) đã đưa In-đo-nê-xi-a và Phi-lip-pin vào “sổ đen” gồm có những nước
không có tinh thần cộng tác. Sau một thời gian trì hoãn việc ban hành Luật rửa tiền và đưa vào “sổ
đen” của Lực lượng đặc nhiệm, cuối cùng Quốc hội Phi-líp-pin thông qua Luật rửa tiền. (Tuy
nhiên, Lực lượng đặc nhiệm hành động trong lĩnh vực tài chính quyết định vẫn giữ Phi-líp-pin ở
trong danh sách này, vì theo cách nhìn của nhóm đặc nhiệm, luật này của Phi-lip-pin “vẫn nhiều
thiếu sót nghiêm trọng”
1
. Mặc dù được đưa vào “sổ đen” của Lực lượng đặc nhiệm hành động
trong lĩnh vực tài chính là: Nhóm chống rửa tiền của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(www.apgml.org) được hình thành năm 1997 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thông qua và
thực thi 40 kiến nghị do Lực lượng này đưa ra.
Những tổ chức quốc tế khác cũng đã có những nỗ lực nhằm thảo ra một chương trình nghị sự cho
hoạt động chống tham nhũng của các Chính phủ thông qua việc thiết lập những thoả ước khác
nhau. Trong những nỗ lực đó có Thoả ước vốn Basel của Ngân hàng thanh toán quốc tế
2
, các sáng
kiến của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
3
, và các hiệp hội kinh doanh quốc tế, như
Hội đồng kinh tế khu vực Thái Bình Dương (PBEC). (Hội đồng kinh tế khu vực Thái Bình Dương
là một hiệp hội các nhà kinh doanh cao cấp hàng đầu của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
thông qua một điều lệ về các tiêu chuẩn cho việc buôn bán giữa Chính phủ và giới kinh doanh đồng
thời khuyến khích giới kinh doanh tham gia vào hoạt động ngăn chặn nạn tham nhũng ở khu vực

4
.
Bên cạnh đó, một số quốc gia tài trợ đã trực tiếp tham gia vào việc lập chương trình hành động
chống tham nhũng trong khu vực, đặc biệt là Cơ quan phát triển quốc tế Australia (Aus AID), Cơ
quan phát triển quốc tế Ca-na-đa (CIDA), và cơ quan phát triển quốc tế những chương trình về dân
chủ và quản lý ở một số nước có hoạt động chống tham nhũng trong khu vực.
Tóm lại, dưới áp lực công luận tăng cao, bởi hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam
Á, một phần do xảy ra một số vụ tham nhũng lớn và những hỗ trợ tích cực của các tổ chức đa
phương, các nhà cải cách chính phủ và xã hội mà việc đương đầu với tham nhũng đã trở thành ưu
tiên hàng đầu cũng như trên cơ sở tiềm lực kinh tế và phạm vi hoạt động ngoại giao, các cá nhân,
tổ chức quốc tế không ngừng tác động đến những chương trình hành động nêu trên. Có những lúc,
sự nỗ lực đó gần như đơn phương, nhưng cũng có lúc là sự kết hợp giữa các tổ chức quốc tế cùng
phối hợp hành động với các nhóm trong nước nhằm tăng cường áp lực. Dưới nhiều hình thức khác
nhau, việc phổ cập hoá những nỗ lực chống tham nhũng đã cho thấy sự hợp tác của quốc tế với
trong nước trên lĩnh vực này là rất hiệu quả. Sự hợp tác này báo hiệu trước một tín hiệu tốt trong
thay đổi cân bằng lực lượng giữa những đối tượng có lợi từ việc giữ nguyên trạng với những đối
tượng cải cách.
3. ADB kêu gọi liên kết khu vực châu Á: Nhằm thảo luận về triển vọng kinh tế cho khu vực
châu Á-Thái Bình Dương trước rối loạn tài chính toàn cầu và giá lương thực và dầu mỏ tăng
cao; vấn đề thay đổi khí hậu và chống đói nghèo (“Chiến lược 2020 của ADB sẽ tái tập
trung vào ba chương trình phát triển bao gồm tăng trưởng kinh tế toàn diện, phát triển bền
vững và hội nhập khu vực.”)
Từ khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 đến những xáo trộn tài chính hiện tại càng cho thấy rõ sự
phụ thuộc lẫn nhau của các nước trong khu vực châu Á và hiện rõ một động lực mạnh mẽ về việc
hình thành chủ nghĩa khu vực ở châu Á. Các nước trong khu vực này đang có sự kết nối mạnh mẽ
thông qua thương mại, tài chính và các liên kết kinh tế vĩ mô do đó cần phát triển chương trình giải
quyết các cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, một bước đi nhằm tiến gần hơn đến việc hình
thành một quỹ tiền tệ châu Á hoàn chỉnh tương tự như IMF.
ADB đưa ra đề xuất thành lập một đơn vị tiền tệ châu Á (đồng ACU) và coi đó như một
phần của nỗ lực nhằm tăng cường sự ổn định tiền tệ trong khu vực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và

giảm bớt tình trạng bất bình đẳng. Mới đây, các thành viên ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc cho biết, sẽ cùng ADB xem xét việc ban hành một đồng tiền chung châu Á, tương tự như
đồng euro của Liên minh châu Âu (EU). Ngoài ra, trong khuôn khổ các thỏa thuận trao đổi song
phương với ASEAN+3 (gồm ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), ADB còn lập một
quỹ gồm 75 tỷ USD nhằm hỗ trợ các nước châu Á khắc phục khó khăn trong hoạt động thanh toán
tạm thời.
Theo tính toán của ADB, châu Á là mái nhà của 2/3 số người nghèo trên thế giới, và gần 1,7 tỉ
người trong khu vực đang sống với mức thu nhập 2 USD/ngày hoặc thấp hơn. Những người nghèo
ở châu Á đặc biệt gặp khó khăn khi giá cả các mặt hàng thiết yếu tăng mạnh, nhất là gạo vì 60%
chi tiêu của họ là dành cho lương thực. Khi tính cả chi phí nhiên liệu, con số này tăng lên 75%. Do
đó, ADB mong muốn xây dựng quỹ hỗ trợ khẩn cấp để giúp đỡ các nước nghèo đấu tranh với tình
trạng bùng nổ giá lương thực.
Hiện tại, ADB đang hoàn tất một chiến lược mới nhằm đưa ra mô hình tăng trưởng bền
vững và công bằng, từ đó thu hẹp chênh lệch về thu nhập ở châu Á, hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo.
Chiến lược này còn giúp châu Á hoàn thiện công tác quản lý tài chính, giảm thiểu tình trạng tham
nhũng, hạn chế ô nhiễm môi trường, đồng thời giúp châu lục này hội nhập tốt hơn với kinh tế thế
giới, ADB cho rằng, việc tăng cường vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng không chỉ cần
thiết cho việc duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao, mà còn giúp châu Á mở rộng các dịch vụ cơ bản
để người nghèo có cơ hội tiếp cận. Theo ông Haruhiko Kurada, trong vài năm tới, riêng Đông Á sẽ
cần 1.000 tỷ USD vốn đầu tư cho phát triển hệ thống giao thông, năng lượng và dịch vụ công cộng.
Trong báo cáo được công bố mới đây, ADB dự kiến sẽ đầu tư tới 2 tỷ USD mỗi năm cho các dự án
cung cấp nước và 1 tỷ USD cho các dự án năng lượng sạch ở châu Á.
ADB cung cấp các khoản tài trợ và tín dụng với lãi suất thấp cho các nước nghèo nhất trong khu
vực châu Á-Thái Bình Dương, nơi có khoảng 400 triệu người sống dưới mức hai đô la Mỹ/ngày.
Khoản tài trợ nói trên của ADB sẽ được chi cho các dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu như đường giao
thông, nước sạch, các mạng lưới điện và vệ sinh.
Ông Kuroda cũng nhấn mạnh vấn đề tài trợ cho các khu vực nông thôn của châu Á. Theo ông, các
nguồn viện trợ của ADB trong tương lai sẽ dành cho những sáng kiến giáo dục bởi giáo dục có ý
nghĩa sống còn đối với sự tiến bộ của thanh niên và sự phát triển một của đất nước.
4. Các dự án hỗ trợ tài chính cho các quốc gia thành viên thực hiện các chương trình thương

mại và giảm đói nghèo và hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả hơn, minh bạch hơn và đem lại lợi nhuận nhiều hơn nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và mở thêm nhiều triển vọng phát triển mới (tại Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia,
Pakistan, Bangladesh, Indonesia, Philippines ,SriLanka và khu vực Trung Á…). Bên cạnh
đó, ADB còn hợp tác với các thể chế tài chính khác để tăng cường hiệu quả cho hoạt động
này:
• Chương trình vốn vay dành cho nông nghiệp
• Dự án chè và hoa quả
• Dự án Khoa học kỹ thuật nông nghiệp
• Dự án Nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo
• Nghiên cứu về sự vận hành của thị trường và khả năng người nghèo được hưởng lợi từ thị
trường, và xây dựng năng lực để hỗ trợ sự phát triển thị trường vì người nghèo
ADB tăng cường hỗ trợ các nước nghèo châu Á
4.1Đưa ra những biện pháp hỗ trợ nước nghèo vượt qua khủng hoảng và đối phó với sự
lây lan của vi rút H1N1 .
4.2Tăng vốn vay, lập quỹ CSF
Để đối phó với cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, ông Kuroda thông báo ADB sẽ nâng tổng số vốn
cho vay trong hai năm 2009-2010 lên 32,9 tỉ đô la Mỹ, tăng gấp rưỡi so với mức 22,4 tỉ đô la Mỹ
đã cho vay trong 2 năm 2007-2008. Trong 10 tỉ đô la tăng thêm sẽ có 1 tỉ đô la dành riêng cho tài
trợ thương mại và 3 tỉ đô la lập một quỹ hỗ trợ chống suy thoái theo chu kỳ (CSF - counter-cyclical
support facility), để thúc đẩy khả năng chi tiêu tài chính của các thành viên đang phát triển trong
bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
“Quỹ CSF cung cấp tín dụng nhanh hơn và rẻ hơn so với chương trình cho vay đặc biệt hiện
hành của ADB. Tôi tin đây sẽ là một sáng kiến rất được hoan nghênh nhằm hỗ trợ các nền
kinh tế đang chao đảo và quan trọng nhất là bảo vệ người nghèo khỏi tác động tồi tệ nhất của cuộc
khủng hoảng”, ông Kuroda nói.
Ngân hàng ADB cũng thông báo tăng gấp ba nguồn vốn của ADB từ 55 tỉ đô la Mỹ lên 165 tỉ đô la
Mỹ, cho phép ngân hàng này tăng hoạt động cho vay tới các nước đang phát triển ở châu Á mà hầu
hết đều bị tác động của đợt tăng giá đầu năm ngoái và suy giảm xuất khẩu, cạn kiệt tín dụng hiện
nay.

3.3 Những chính sách hỗ trợ mới
ADB cho biết, “việc hỗ trợ sẽ bao gồm các khoản đầu tư dự án, các khoản vay dựa trên chính sách
giải ngân nhanh, bảo lãnh, và những sáng kiến mới được thiết kế nhằm vào những nhu cầu cụ thể.
ADB cũng sẽ mở rộng sự hỗ trợ của mình thông qua những khoản trợ cấp cho phân tích chính sách
và xây dựng năng lực”. Theo ADB, GDP của các nước châu Á đang phát triển được dự tính là giảm
3,4% trong năm nay từ con số 9,5% trong năm 2007.
Các chính phủ trong khu vực cũng đã thúc đẩy chi tiêu và hạ lãi suất để kích thích nhu cầu trong
nước nhằm bù đắp nhu cầu đang sụt giảm đối với hàng xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ. Nhưng
ADB cũng lo sợ rằng giải pháp đặt ra có thể vượt quá khả năng của một số nước và muốn đưa ra
một kế hoạch giúp những nước thành viên nghèo hơn đối phó với khủng hoảng. “Nhiều chính phủ
trong khu vực đã thúc đẩy chi tiêu để khuyến khích tiêu dùng trong nước, bù lại sự sụt giảm nhu
cầu ở nước ngoài, nhưng không phải chính phủ nào cũng có thể làm được điều đó”, ADB nhận
định.
3.4 Gia tăng giám sát
Sự gia tăng cơ sở vốn của ADB phải đi cùng với sự giám sát chặt chẽ hơn những tác động môi
trường và xã hội của các dự án vay tiền của ADB. Bà Joanna Levitt của Dự án Trách nhiệm Giải
trình Quốc tế (International Accountability Project) nhận định, “ADB sẽ đi ngược lại với thực tế
hiện tại nếu họ không tăng cường những chính sách bảo vệ môi trường và xã hội. Không có những
sự cải thiện thực sự, chúng ta có thể thấy được việc sử dụng thiếu thận trọng những khoản vốn trợ
cấp của ngân hàng, do những dự án không có hiệu quả”.
Do đó ADB đã công bố những kế hoạch tăng cường quy trình giám sát nội bộ để bảo vệ những
người kiểm soát, những người thông báo sự quản lý yếu kém trong các dự án liên kết với ADB.
Trưởng ban kiểm soát của ADB, Philip Daltrop, cho biết, “ADB không tha thứ cho bất cứ sự tham
nhũng nào. Điều cần thiết là chúng ta phải bảo vệ những người cung cấp thông tin”.
5. Cho Indonesia vay 1 tỉ đô la Mỹ vào 4/6/2009 nhằm giúp chính phủ nước này tăng khả
năng khắc phục tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay.
6. Cấp vốn cho dự án đường sắt tại Campuchia: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vừa
thông báo sẽ cung cấp 42 triệu USD giúp Campuchia hoàn thành dự án khôi phục hệ thống
đường sắt nhằm đưa Campuchia trở thành trục giao thông tiểu vùng trọng yếu, tạo thêm công
ăn việc làm và các cơ hội kinh doanh.

7. ADB tăng cường đầu tư cho năng lượng sạch tại châu Á: Mục tiêu đầu tư mới là một
phần trong Sáng kiến Sử dụng hiệu quả Năng lượng (EEI) của ADB nhằm thúc đẩy tăng
trưởng các ngành kinh tế ít phát thải khí cacbon và giảm lượng khí nhà kính thải ra trong khu
vực.
Trong số nhiều khoản đầu tư vào năng lượng sạch của ADB có dự án phát triển thủy điện tại
Bhutan, Trung Quốc và Việt Nam ADB cũng hỗ trợ việc nâng cấp và mở rộng các hệ thống vận tải
công cộng sử dụng hiệu quả năng lượng tại một số thành phố châu Á trong khuôn khổ Sáng kiến
Vận tải Bền vững.
Thiết kế các tòa nhà cao tầng và các hệ thống vận tải sử dụng năng lượng một cách hiệu quả hơn
được xem là biện pháp tiết kiệm chi phí nhất, giúp giảm bớt nhu cầu về năng lượng đang tăng lên
nhanh chóng tại khu vực châu Á, cải thiện hiệu quả của nguồn cung, giảm lượng phát thải khí nhà
kính và giảm sự phụ thuộc của các nước vào nguồn nhập khẩu đắt đỏ các loại nguyên liệu hóa
thạch.
Đặc biệt, sáng kiến Thị trường Cácbon (CMI) là một trong những sáng kiến mới trong Chương
trình Môi trường và Năng lượng sạch của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Đây là một Chương
trình tài chính sáng tạo hỗ trợ việc phát triển năng lượng sạch, sử dụng năng lượng hiệu quả và các
dự án nhằm giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính (GHG) tại các nước đang phát triển trong khu
vực Châu
Á - Thái Bình Dương, những nước đủ tiêu chuẩn nằm trong danh sách Cơ chế Phát triển sạch
(CDM) thuộc Nghị định thư Ky-ô-tô. Sáng kiến này được xây dựng trên cơ sở và gia tăng giá trị
cho ưu tiên phát triển bền vững trong các hoạt động trợ giúp tài chính khu vực công và khu vực tư
nhân của ADB.
Mục đích chính của CMI là nhằm giúp các nước thành viên đang phát triển (DMCs) tận dụng
được lợi ích từ công cụ thị trường trong khuôn khổ Nghị định thư Ky-ô-tô nhằm thúc đẩy phát
triển bền vững, một nguyên tắc cơ bản của Chương trình Nghị sự 21. Hầu hết các quỹ mua cácbon
hiện hành đều chỉ chi trả tài chính khi dự án hoàn thành và khi mà các tín dụng
cácbon đã được trao. Kết quả là nhiều dự án năng lượng sạch vấp phải vấn đề về thiếu kinh phí
trong giai đoạn đầu. Điều này cản trở việc thực hiện dự án trong giai đoạn đầu. ADB đề xuất một
cách tiếp cận nhằm rỡ bỏ những rào cản này thông qua một sáng kiến thị trường cácbon được xây
dựng chuyên biệt, mang tính toàn diện và tổng hợp.

CMI có ba hợp phần:
(i) Cung cấp tài chính từ giai đoạn đầu thông qua Quỹ Cácbon Châu
Á –Thái Bình Dương (APCF)
(ii) Trợ giúp kỹ thuật Cơ chế Phát triển sạch (CDM) thông qua Quỹ
Hỗ trợ kỹ thuật (TSF)
(iii) Trợ giúp thị trường tín dụng cácbon thông qua Quỹ Hỗ trợ Thị trường Tín dụng (CMF)
8. Phát hành trái phiếu và thông qua chương trình Sáng kiến Thị trường Trái phiếu
châu Á (ABMI) nhằm giúp đỡ các nước xây dựng hệ thống quản lý và cải thiện cơ sở hạ
tầng của thị trường để phát triển thị trường trái phiếu trong khu vực vì "Thị trường vốn nội
địa mạnh mẽ là thiết yếu để đa dạng hoá nguồn vốn cần thiết để hỗ trợ cho sự đầu tư lâu dài
và mức tăng trưởng cao bền vững, đặc biệt là khi chúng ta đang bước vào thời kỳ mà tất cả
đều hy vọng là thời kỳ hậu khủng hoảng" (ông Bindu N. Lohani, Phó Chủ tịch Tài chính và
Hành chính của Ngân hàng Phát triển châu Á phát biểu hôm 02/12/09, hội thảo "Tăng tốc hệ
thống điều hành và hợp tác khu vực - Một thời kỳ tăng trưởng mới của thị trường trái phiếu
châu Á")
III. Các sản phẩm tài chính của ADB
Sản phẩm cho vay theo lãi suất LIBOR
Sản phẩm cho vay bằng đồng nội tệ
Các sản phẩm quản lý nợ
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) là một tổ chức tài chính phát triển bao gồm 67 nước thành
viên (tính đến tháng 6 năm 2008) tham gia vào các hoạt động thúc đẩy tiến bộ kinh tế và xã
hội tại các nước thành viên đang phát triển trong khu vực Châu Á và Thái Bình Dương.
Tài liệu này giới thiệu các sản phẩm tài chính của ADB, bao gồm cho vay theo lãi suất LIBOR
(LBL), cho vay bằng đồng nội tệ (LCL) và các sản phẩm quản lý nợ.
Sản phẩm cho vay theo lãi suất LIBOR
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cung cấp cho Bên vay thuộc khu vực nhà nước và Bên vay
trái quyền (ngoài khu vực nhà nước) các khoản vay theo lãi suất chào bán liên ngân hàng Luân Đôn
(lãi suất LIBOR), viết tắt là LBL, với lãi suất thả nổi dựa trên lãi suất LIBOR 6 tháng và chênh
lệch thực tế theo thỏa thuận. LBL được đưa ra lần đầu vào tháng 7 năm 2001. Vào
tháng 11 năm 2006, ADB đưa ra một loạt các cải cách đối với sản phẩm LBL dựa trên các phản

hồi của Bên vay. Sản phẩm LBL mới đem lại mức độ linh hoạt cao cho Bên vay:
h Được lựa chọn đồng tiền đi vay;
Được lựa chọn cơ sở lãi suất
Có nhiều lựa chọn về các điều khoản trả nợ;
Được lựa chọn thay đổi đồng tiền đi vay và cơ sở lãi
suất tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn của khoản
vay;
v Được lựa chọn đặt trần lãi suất hoặc khoanh vùng lãi
suất thả nổi tại bất kỳ thời điển nào trong thời hạn của
khoản vay.
LBL là sản phẩm cho vay dựa trên thị trường cho phép ADB thực hiện vai trò trung gian hiệu quả
với những điều khoản tốt nhất có thể, đem lại sự định giá minh bạch và căn cứ theo thị trường, đồng
thời đáp ứng nhu cầu của Bên vay trong việc lựa chọn đồng tiền đi vay và cơ sở lãi suất phù hợp
với yêu cầu của dự án và các chiến lược quản lý rủi ro bên ngoài.
Các lựa chọn đối với điều kiện ban đầu
của khoản vay LBL
Khi lựa chọn các điều kiện tài chính của một khoản vay, một thực tiễn quản lý nợ cẩn trọng là cần
cơ cấu khoản vay cho phù hợp với các nhu cầu và độ rủi ro của dự án cũng như với tổng danh mục
nợ nước ngoài của Bên vay. ADB có sự cân nhắc hợp lý về đồng tiền cho vay, lãi suất, điều kiện trả
nợ, các loại phí của khoản vay và các đặc điểm quản lýnợ khác để cung cấp những điều kiện linh
hoạt hơn, do đó cho phép Bên vay có nhiều lựa chọn hơn.
Đồng tiền cho vay
Bên vay có thể lựa chọn vay LBL bằng đồng euro, đồng yên Nhật, đồng đô-la Mỹ hoặc bằng một
đồng tiền mà ADB có thể làm trung gian cho vay một cách có hiệu quả. Đồng tiền mà Bên vay lựa
chọn sẽ là đồng tiền của khoản vay. Đồng tiền được lựa chọn cũng sẽ là đồng tiền mà Bên vay sử
dụng để trả nợ. Theo lựa chọn của Bên vay, ADB có thể đóng vai trò đại diện của Bên vay trong
việc mua đồng
tiền cần thiết được sử dụng để giải ngân mua sắm.
Lãi suất
Các khoản vay có thể được tính trên cơ sở lãi suất thả nổi hoặc lãi suất cố định. Trong các khoản

vay theo lãi suất cố định, việc cố định lãi suất được thực hiện tại thời điểm giải ngân, sau những
khoảng thời gian định kỳ hoặc khi giá trị giải ngân đạt đến một ngưỡng nhất định theo như Bên vay
lựa chọn trong Cơ chế Cố định Lãi suất Cụ thể.
Sản phẩm cho vay
Khoản vay theo lãi suất thả nổi
Trong một khoản vay theo lãi suất thả nổi, lãi suất cho vay được điều chỉnh lại sau mỗi 6 tháng
vào ngày trả lãi, còn được gọi là ngày điều chỉnh lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay được tính
bằng lãi suất chi phí cơ sở cộng với chênh lệch thực tế theo thỏa thuận hiện hành tại thời điểm ký
kết vay.
Ngày điều chỉnh lãi suất cho vay: Ngày trả lãi hoặc ngày điều chỉnh lãi suất cho vay của các
khoản vay LBL được qui định một cách tiêu chuẩn vào ngày 1 hoặc ngày 15 của bất kỳ tháng nào,
và tiếp tục cứ mỗi 6 tháng sau đó. Lãi suất chi phí cơ sở là lãi suất LIBOR kỳ hạn 6 tháng đối với
đồng đô-la Mỹ và yên Nhật. Đây là lãi suất tham chiếu tiêu chuẩn được sử dụng trên thị trường để
định giá các khoản vay theo lãi suất thả nổi đối với hầu hết các đồng tiền. Lãi suất EURIBOR1 kỳ
hạn 6 tháng được sử dụng đối với các khoản vay bằng đồng euro. Các lãi suất tham chiếu khác của
các ngân
hàng thương mại được công nhận sẽ được sử dụng đối với các thị trường khác.
Chênh lệch thực tế theo thỏa thuận: Một chênh lệch được tính dựa trên lãi suất LIBOR tạo cơ
sở minh bạch cho Bên vay có thể so sánh các điều kiện của khoản vay LBL với điều
quán với thực tiễn thị trường. Chênh lệch này cũng cho phép nâng cao hoạt động quản lý rủi ro lãi
suất và tiền tệ thông qua việc tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc tự bảo hiểmtoàn bộ những rủi ro
đó.
– Đối với Bên vay thuộc khu vực nhà nước, chênh lệch thực tế được thỏa thuận hiện tại của ADB
là 20 điểm cơ sở2 đối với bất kỳ đồng tiền cho vay nào.– Đối với Bên vay trái quyền, chênh lệch
thực tế được thỏa thuận sẽ phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của dự án cụ thể và của Bên vay cụ thể.
Khoản vay theo lãi suất cố định dựa trên Cơ chế Cố định
Lãi suất Cụ thể (SRF)
Bên vay có thể chỉ định ADB tự động thực hiện việc cố định lãi suất theo kỳ hạn (nghĩa là theo
các khoảng thời gian đều đặn do Bên vay đưa ra) hoặc theo giá trị (nghĩa là sau khi đạt được một
giá trị giải ngân nhất định do Bên vay đưa ra). SRF theo kỳ hạn: Bên vay sẽ đưa ra tần suất cố

định lãi suất
(chẳng hạn như nửa năm một lần hoặc hàng năm). Ví dụ như Bên vay có thể đề nghị ADB cố định
lãi suất nửa năm một lần đối với giá trị khoản vay được giải ngân trong giai đoạn 6 tháng trước đó.
Ngày cố định lãi suất sẽ phải trùng với ngày trả lãi. Lãi suất được cố định sẽ có hiệu lực ngay. Vì
thế, một
khoản vay LBL với SRF theo kỳ hạn sẽ được chia thành các phần giá trị giải ngân, với mỗi phần
giá trị giải ngân sẽ có một lãi suất cố định riêng.
SRF theo giá trị: Bên vay sẽ định ra một “ngưỡng” giá trị giải ngân để cố định lãi suất (chẳng
hạn như với mỗi 5 triệu USD giải ngân; hoặc sau khi giá trị giải ngân vượt quá 5 triệu USD, 10 triệu
USD, 20 triệu USD,...). Ví dụ như Bên vay có thế đề nghị ADB cố định lãi suất cho các khoản đa
giải ngân mỗi
khi tổng giá trị giải ngân luỹ kế đạt 15 triệu USD. Lãi suất cố định sẽ chỉ áp dụng khi bắt đầu kỳ
tính lãi tiếp sau thời điểm đạt đến ngưỡng giá trị giải ngân. Bên vay có thể thỏa thuận cơ chế SRF
tại thời điểm ký kết vay hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn của khoản vay. Bên vay có thể
hủy bỏ những thỏa thuận như vậy tại bất kỳ thời điểm nào, đo đó Bên vay có sự kiểm soát và linh
hoạt
trong việc quyết định khi nào cần cố định lãi suất đối với các khoản vay của mình. Trước khi lãi
suất được cố định, khoản vay sẽ áp dụng lãi suất thả nổi. ADB sẽ bảo hiểm việc cố định lãi suất
bằng một nghiệp vụ tự bảo hiểm tương ứng trên thị trường hoán đổi, lãi suất hoán đổi hoặc chi phí
của nghiệp vụ tự bảo hiểm đó sẽ được chuyển qua cho Bên vay. Nhìn chung, lãi suất được cố định
sẽ
tương đương với lãi suất hoán đổi của lãi suất LIBOR kỳ hạn 6 tháng theo đồng tiền tương ứng
với kỳ đáo hạn của giá trị giải ngân cộng thêm chênh lệch thực tế theo thỏa thuận.3
Điều kiện trả nợ
Đối với tất cả các khoản vay LBL của khu vực nhà nước được đàm phán sau ngày 1 tháng 1 năm
2007, Bên vay có thể lựa chọn một trong hai cách thức trả nợ:
Lịch trình trả nợ được ấn định tại thời điểm ký kết vay
Khoản vay sẽ có một thời gian ân hạn, sau đó có một lịch trình trả nợ gốc được ấn định tại thời
điểm ký kết vay. Để tạo thuận lợi cho hoạt động tự bảo hiểm của ADB và Bên vay, lịch trình trả nợ
trong hiệp định vay sẽ được thể hiện dưới dạng phần trăm của tổng số tiền gốc (tỷ lệ trả góp). Tiền

gốc cần thanh toán sẽ được xác định bằng 1 Lãi suất chào bán liên ngân hàng Châu Âu, được sử
dụng cho các khoản cho vay bằng đồng euro
2 Chênh lệch thực tế theo thỏa thuận xác định ở mức 20 điểm cơ sở được áp dụng cho tất cả các
khoản vay LBL cấp cho Bên vay thuộc khu vực nhà nước hoặc Bên
vay được khu vực nhà nước bảo lãnh được đàm phán kể từ ngày 1 tháng 10 năm 2007 trở đi.
3 Trong thị trường hoán đổi lãi suất, tỷ lệ giá cả thị trường tương đương giữa các mức lãi suất cố
định và lãi suất LIBOR kỳ hạn 6 tháng của các đồng tiền chủ chốt
được xác lập liên tục. Tỷ lệ tương đương này còn được gọi là “lãi suất hoán đổi”
5
Các sản phẩm tài chính của ADB cách nhân tỷ lệ trả góp với tổng số tiền gốc còn nợ. Tỷ lệ trả góp
trong hiệp định vay áp dụng với các tổng giá trị giải ngân lũy kế trong thời gian ân hạn. Tỷ lệ trả
góp được điều chỉnh cho các khoản giải ngân sau thời gian ân hạn tại mỗi kỳ trả lãi căn cứ theo hiệp
định vay. Nếu được ADB chấp thuận, Bên vay có thể lựa chọn bất kỳ điều kiện nào sau đây để xác
định lịch trình của tỷ lệ trả góp cho phù hợp với dự kiến tài chính của mình:
đ trả nợ hàng năm
trả nợ các phần bằng nhau
trả nợ một lần4
trả nợ theo lịch trình riêng cho khách hàng5
Trả nợ theo giá trị giải ngân thực tế
Theo điều kiện trả nợ này, lịch trình trả nợ được xây dựng căn cứ trên giá trị giải ngân thực tế. Giá
trị giải ngân lũy kế của mỗi kỳ hạn 6 tháng (“số tiền giải ngân”) sẽ có một
lịch trình thanh toán riêng. Thời gian ân hạn và thời gian trả nợ cho số tiền giải ngân của mỗi nửa
năm là giống nhau và sẽ được ấn định vào thời điểm ký kết vay. Thời gian ân hạn sẽ chỉ bắt đầu khi
thực hiện giải ngân. Khi giải ngân bắt đầu được thực hiện, lịch trình giải ngân sẽ được xây dựng
cho số tiền giải ngân của nửa năm đó và Bên vay sẽ được thông báo
về lịch trình này. Khoản vay chỉ có thể được trả góp trong thời hạn trả nợ trên cơ sở thanh toán nợ
gốc với những phần bằng nhau mà không được hưởng điều kiện trả nợ linh hoạt như áp
dụng với những lựa chọn trả nợ khác. Các lựa chọn trả nợ nói trên cho phép Bên vay thuộc khu
vực nhà nước lựa chọn được cơ cấu tối ưu phù hợp với dự kiến tài chính của dự án.Các khoản vay
LBL cho Bên vay ngoài khu vực nhànước cũng duy trì một lịch trình thanh toán linh hoạt để

phù hợp với yêu cầu tài trợ vốn, dự kiến dòng tiền vào vàtình hình tín dụng của mỗi dự án.
Trả trước và hủy bỏ
Bên vay thuộc khu vực nhà nước có thể trả trước một phầnhoặc toàn bộ khoản vay đa được giải
ngân và khoản nợcòn lại tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn của khoảnvay bằng cách thông báo
bằng văn bản với ADB ít nhấtlà 45 ngày trước khi tiến hành trả trước. 6 Trả trước mộtphần được áp
dụng cho lịch trình trả nợ theo thứ tự đảongược với kỳ đáo hạn, theo đó kỳ đáo hạn sau cùng
sẽđược trả trước tiên.Trả trước chỉ có thể được thực hiện sau khi khoản vayđa được giải ngân toàn
bộ và tàikhoản giải ngân củakhoản vay đa được đóng.Đối với các khoản vay theo lãi suất thả nổi,
Bên vaycó thể trả trước bất kỳ khoản tiền nợ nào vào ngày trả lãicủa khoản vay mà không phải trả
thêm phí trả trước. Tuynhiên, việc trả trước các khoản vay theo lãi suất thả nổikhông được thực
hiện vào ngày trả lãi sẽ bị tính thêm phítrả trước dựa trên sự chênh lệch (nếu có) giữa lãi suất
màtheo đó khoản tiền trả trước thu được có thể được tái đầutư và chi phí huy động vốn của ADB
cho khoảng thời giantính đến ngày trả lãi tiếp theo. Trong trường hợp việc trảtrước các khoản vay
theo lãi suất cố định hoặc lãi suất thảnổi có liên quan đến việc chuyển đổi và giao dịch tự bảohiểm
tương ứng bị hủy bỏ, Bên vay sẽphải chịu thêm chiphí gỡ bỏ các giao dịch tự bảo hiểm nếu ADB
gánh chịunhững chi phí đó.Bên vay thuộckhu vực nhà nước có thể hủy bỏ toànbộ hoặc một phần
khoản vay còn lại chưa giải ngân vàobấtkỳ thời điểm nào trước khi tài khoản cho vay đóng lạimà
không phải chịu thêm phí với điều kiện phải tiến hànhthông báo theo thời hạn như trên.
Giảm trừ và phụ phí
Giảm trừ và phụ phí là hai đặc điểm tiêu chuẩn cho tất cảcác khoản vay LBL dành cho Bên vay
thuộc khu vực nhànước nhưng không áp dụng cho các khoản vay LBL dànhcho Bên vay ngoài khu
vực nhànước.Nhìn chung, ADB có thể huy động vốn cho các khoảnvay LBL với mức chi phí thấp
hơn lãi suất LIBOR kỳ hạn 6tháng (biên chi phí huy động vốn dưới lãi suất LIBOR). Duytrì qui tắc
định giá theo đó chi phí được chuyển qua tựđộng, biên chi phí huy động vốn dưới lãi suất LIBOR
thựctế sẽ được hoàn trả cho Bên vay thông qua một khoảngiảm trừ. Vì mục đích đó, hai lần mỗi
năm (vào ngày 1tháng 1 và ngày 1 tháng 7, ADB sẽ tính toán biên chi phíhuy động vốn trung bình
thực tế của mình so với lãi suấtLIBOR (tỷ lệ giảm trừ) và tỷ lệ này sẽ làm cơ sở để xác địnhsố tiền
giảm trừ cho mỗi Bên vay LBL. Một khoản phụ phícũng có thể được áp dụng nếu chi phí huy động
vốn củaADB cao hơn lãi suất LIBOR kỳ hạn 6 tháng.ADB cũng có thể thay đổi chênh lệch do ADB
ấn địnhvới lãi suất LIBOR do sự thay đổi của các mục tiêu doanh

4 Trả nợ một lần là việc trả nợ một lần duy nhất vào cuối kỳ hạn của khoản vay
5 Trả nợ theo lịch trình riêng cho khách hàng là việc trả nợ với cơ cấu được xây dựng phù hợp với
cơ cấu dòng tiền vào của dự án. Việc xây dựng cơ cấu này sẽ được
thể hiện bằng các tỷ lệ phần trăm (có thể không bằng nhau), những tỷ lệ này không thể thay đổi
sau khi đa ký kết vay.
6 Quy định về trả trước và hủy bỏ đối với các khoản vay LBL dành cho Bên vay ngoài khu vực
nhà nước tùy thuộc các điều khoản cụ thể trong các hiệp định vay có
liên quan.
Sthu. Với tính chất hợp tác của ADB, bất kỳ sự thay đổi nàotrong chênh lệch ấn định liên quan tới
các khoản vay LBLmới sẽ được áp dụng cho dư nợ còn lại của tất cả các khoảnvay LBL thông qua
việc áp dụng giảm trừ hoặc phụ phí.Tỷ lệ giảm trừ hoặc phụ phí được công bố sẽ áp dụngcho các kỳ
trả lãi bắt đầu sau thời điểm công bố tỷ lệnày.
Các khoản phí cho vay khác
Đối với tất cả các dự án hoặc chương trình cho vay LBL đốivới khu vực nhà nước được đàm phán
từ ngày 1 tháng 10năm 2007 trở đi, ADB sẽ áp dụng đồng thời một mức phícam kết bằng 15 điểm
cơ sở cho toàn bộ số dư còn lại chưagiải ngân của khoản vay. Mức phí cam kết sẽ được tính 60ngày
sau ngày của hiệp định cho vay có liên quan và sẽđược cộng dồn đến sau khi khoản vay có hiệu lực.
Linh hoạt trong việc thay đổi các
điều kiện ban đầu của khoản vay LBL
Khi ký kết vay từ ADB, Bên vay đa đảm nhận một nghĩa vụnợ sẽ nằm trong bảng cân đối của họ
trong một khoảngthời gian dài (lên đến 30 năm). Thậm chí cả khi Bên vayđa xem xét cẩn thận các
điều kiện tài chính của khoản vaytrước khi đàm phán, các nhu cầu và rủi ro quản lý nợ củahọ vẫn có
thể thay đổi theo thời gian.Vì thế, Bên vay có thể muốn rà soát lựa chọn ban đầucủa mình về đồng
tiền vay và cơ cấu lãi suất. Vì mục đíchđó, Bên vay có thể sử dụng điều khoản chuyển đổi tronghiệp
định LBL bất cứ khi nào sau khi khoản vay có hiệu lực,tuy nhiên tùy thuộc vào các điều khoản liên
quan trongQuy định Vay và Hướng dẫn Chuyển đổi.“Hướng dẫn Chuyển đổi” là một tài liệu đơn
phương màADB có thể thay đổi bất cứ khi nào nhằm cung cấp sự linhhoạt cho việc thực hiện các
yêu cầu chuyển đổi. Hướngdẫn đưa ra các thủ tục yêu cầu, chấp thuận và thực hiệnviệc chuyển đổi
được qui định trong hiệp định cho vay.
Thay đổi đặc điểm tiền tệ của

khoản vay LBL
Bên vay có thể thay đổi đồng tiền của toàn bộ hoặc mộtphần giá trị khoản vay đa giải ngân
và/hoặc chưa giải ngântại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn của khoản vay.
Chuyển đổi đồng tiền của số dư chưa rút raGiá trị chuyển đổi tiền tệ của số dư chưa rút ra của
khoảnvay sang một đồng tiền được chấp nhận được xác địnhtrên cơ sở tỷ giá hối đoái hiện hành
được qui định trongHướng dẫn Chuyển đổi. Lãi suất áp dụng cho số dư chưarút ra được chuyển đổi
sau đó được rút ra và còn nợ sẽ làlãi suất thả nổi áp dụng cho đồng tiền được chấp thuận(do Bên
vay lựa chọn). Giá trị chuyển đổi một phần sẽđược áp dụng theo tỷ lệ đối với toàn bộ các thời gian
đáohạn của khoản vay.Chuyển đổi tiền tệ đối với phần vay chưa trảTrong chuyển đổi tiền tệ đối
với phần vay chưa trả, lãi suấtáp dụng cho phần vay chưa trả được chuyển đổi có thể làlãi suất thả
nổi hoặc lãi suất cố định áp dụng đối với đồngtiền được chấp thuận. Điều kiện của việc chuyển đổi
tiềntệ sẽ phản ánh chi phí giao dịch tự bảo hiểm tiền tệ củaADB, bao gồm cả tỷ giá hối đoái được
sử dụng thực tế
trong giao dịch.Đối với các khoản vay LBL hiện tại đa giải ngân toàn bộvà chưa trả, ADB đưa ra
một lựa chọn chuyển đổi tiền tệ sửdụng để tính khoản vay thành đồng nội tệ, 7 với điều kiệntùy
thuộc vào khả năng của ADB có thể tham gia vào cácthỏa thuận tự bảo hiểm thích hợp trên thị
trường của đồngnội tệ đó. Lý giải cho việc đưa ra những lựa chọn chuyểnđổi tiền tệ như vậy là
nhằm giảm hoặc loại bỏ tình trạngmất cân đối giữa hai đồng tiền có thể xảy ra khi doanh thucủa
Bên vay được tính theo đồng nội tệ trong khi nghĩavụ nợ gắn với nó được tính theo đồng ngoại

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×