Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
BỆNH TRÚNG PHONG
Các gió có khí độc từ ngoài trúng vào người, nhân đó gây bệnh,
gọi đó là trúng Phong.
Bệnh trúng Phong chia làm 4 loại khác nhau:
1. Phong trúng vào Kinh
2. Phong trúng vào Lạc
3. Phong trúng vào Phủ
4. Phong trúng vào Tạng
BỆNH TRÚNG PHONG VÀO KINH
Nguyên nhân: Phong tà từ ngoài tứ chi và khu xác, nếu trúng
vào kinh thời gọi là Kinh bệnh, chứng này nhẹ không nguy hiểm mấy.
Bệnh trạng: Phong trúng vào kinh, gân xương sinh ra nặng nề
không cử động được, hoặc thiên về bên tả, bên hữu, mạch Huyền, Phù.
Hoặc lưng uốn cong như dương cung, mạch Huyền…
- Nếu để lâu không chữa, hoặc bỗng dưng trúng phải ác khí, khiến
cho kinh mạch ngừng trệ, gây nên chứng thở gấp, tinh thần hôn mê không
biết gì, mồ hôi không có, tay chân co quắp. Nếu bệnh nhân Tạng hàn tất
hiện ra chứng tay chân quyết lãnh, mạch ở 6 bộ đều Trầm phục…bệnh
nhân Phủ nhiệt, thời tất hiện ra chứng thân nhiệt, Tâm phiền, 6 bộ mạch
đều Phù Sác. Bệnh nhân vốn có chứng Đàm ẩm thời tất hiện ra chứng
Đờm rãi nghẽn lên, hoặc bỗng dưng ngã ngất, đờm rãi phì ra, kinh mạch
bị vít lấp, chứng hậu rất nguy hiểm. Về chứng bỗng nhiên ngã ngất này ta
phải nhận rõ 2 chứng “bế” với chứng “thoát” khác nhau. Như: Hàm răng
nghiến chặt, hai tay nắm chắc tức là thuộc về chứng “bế”, nên dùng các
khí vị tân, hương để khai thông sự Bế. Nếu miệng há tay ruỗi, mắt mở và
45
Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
tiểu tiện són ra, như vậy là chứng thoát, phải kíp dùng Ôn bổ hoạ may
mới cứu được.
- Phương pháp trị liệu: Phong bệnh trúng vào kinh, đủ các
chứng trạng như trên, thân thể nặng nề, tả , hữu bất toại, mạch Huyền và
Phù…hình khí thực thời cho uống bài “Hoán cốt đan”, hình khí hư thời
cho uống bài “Tiểu tục mệnh thang”. Nếu kinh mạch ngưng trệ, hơi thở
gấp, tinh thần hôn mê…cho uống bài “Hoàn hồn thang”. Bệnh nhân tạng
hàn mà hiện ra tứ chi quyết lãnh, sáu bộ mạch đều Trầm Phục…cho uống
bài “Tam sinh ẩm”, bài này nên dùng cho người hàn thịnh mà khí thực,
nếu khí hư thời gia Nhân sâm, mới khỏi di hại. Bệnh nhân Phủ nhiệt mà
hiện chứng thân nóng, Tâm phiền, sáu bộ mạch đều Phù, Sác…thời cho
uống bài “Chỉ bảo thang”. Bệnh nhân vốn có chứng Đàm ẩm, thời uống
bài “Thanh châu bạch hoàn”. Nếu bỗng dưng ngã ngất Đờm rãi nghẽn lên
thời dùng bài “Thông quan tán”.
CÁC BÀI THUỐC
HOÁN CỐT ĐAN
(Tôn sinh y thư)
Bạch chỉ 1 lạng Xuyên khung 1
lạng
Phòng phong 1 lạng Băng phiến
5 đ/c
Chu sa 1 lạng Xạ hương 3
đ/c
Mộc hương 1 lạng Ngũ vị tử
3 đ/c
46
Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
Hoè giác 1 lạng Khổ sâm 1
lạng
Uy linh tiên 1 lạng Nhân sâm
1 lạng
Ma hoàng 1 lạng Hà thủ ô 1
lạng
Mạn kinh 1 lạng Tang bì 1
lạng
Xương truật 1 đ/c
Các vị trên tán bột, trước dem vị Ma hoàng chế thành cao, rồi hoà
các vị thuốc bột kia vào mà viên to bằng hạt ngô, lấy Chu sa làm áo, lúc
sắp đi nằm uống 1 đ/c, thang bằng nước nóng.
Phương giải: Dùng Bạch chỉ, Xuyên khung, Phòng phong, Hoè
giác, Uy linh tiên, Ma hoàng, Mạn kinh để sơ phong tiết tà. Dùng Băng
phiến, Xạ hương, Mộc hương, Xương truật để trừ uế, hành trệ. Nhưng
trong một loại các vị đều là tân, hương hao tán nếu không có một thứ nào
để kìm hãm lại, thời chính khí sẽ bị thương mà sinh ra các biến chứng
khác, cho nên dùng Nhân sâm để bổ khí, Hà thủ ô để bổ huyết, Ngũ vị
liễm khí, Tang b, Khổ sâm để thanh táo, và Chu sa để trấn Tâm, an thần,
khiến cho các vị kia không đến nỗi quá táo, các vị nhiệt dược kia không
đến nỗi quá nóng, thời tà khí tiêu tan mà chính khí vẫn vững bền.
Phàm chứng Trúng phong vào Kinh bệnh nhân hình khí thực, nên
uống bài này để cho thanh giải.
TIỂU TỤC MỆNH THANG
(Thiên kim)
Ma hoàng 1 đ/c Nhân sâm 1 đ/c
47
Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
Hoàng cầm 1 đ/c Bạch thược
1 đ/c
Cam thảo 1 đ/c Xuyên khung 1 đ/c
Hạnh nhân 1 đ/c Phòng kỷ 1
đ/c
Quan quế 1 đ/c Phòng phong 1,5 đ/c
Phụ tử 5 phân Sinh khương 3
lát
Gia giảm:
- Không mồ hôi mà ố Phong, dùng gấp đôi Ma hoàng, Hạnh nhân.
- Cố mồ hôi mà ố Phong, dùng gấp đôi Quế chi, Thược dược.
- Không có mồ hôi, mình nóng, không ố hàn, giảm bỏ Phụ tử,
dùng gấp đôi Cam thảo, gia thêm Thạch cao,Tri mẫu đều 2 đ/c.
- Có mồ hôi mình nóng, không ố Phong, dùng gấp đôi Quế chi,
Hoàng cầm, gia Cát căn 1 đ/c.
- Không mồ hôi, mình mát, mạch Trầm và Tế, dùng gấp đôi Phụ
tử, gia Can khương 1 đ/c.
- Có mồ hôi, không nhiệt mà ố hàn, mạch Trầm dùng gấp đôi
Quếchi, Phụ tử, Cam thảo.
- Các khớp xương đau nhức, co quắp, tê dại không biết gì,
mạchHoãn, gia Khương hoạt 1 đ/c, Liên kiều 2 đ/c.
- Tinh thần hoảng hốt gia thêm Phục linh, Viễn chí đều 1 đ/c.
- Tâm phiền, hay sợ gia thêm Tê giác 5 đ/c.
- Đau nhức các khớp xương buồn bực khó chịu mà có nhiệt, giảm
Phụ tử dùng gấp đôi Bạch thược và gia thêm 1 chén Trúc lịch.
48
Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
- Bệnh nhân Tạng hàn hạ- lỵ, giảm bỏ Phòng kỷ, Hoàng cầm dùng
Phụ tử gấp đôi, gia thêm Bạch truật 1 lạng (nếu nhiệt lỵ không thể dùng).
- Khắp mình đau nhức gia thêm Tần giao 1 lạng.
- Ngang lưng đau nhức gia thêm Đỗ trọng, Đào nhân mỗi thứ 5
đ/c.
- Mất tiếng không nói ra được, dùng gấp đôi Hạnh nhân.
- Bệnh nhân lúc cười lúc khóc, nói năng bậy bạ dùng gấp đôi ma
hoàng, Nhân sâm, Quế chi, gia thêm Bạch truật 2 lạng, Đương quy 1
lạng; giảm bỏ Phụ tử, Phòng phong, Sinh khương.
-Nếu mồ hôi tự toát r, giảm bỏ Ma hoàng, Hạnh nhân, gia Bạch
truật, Hoàng kỳ đều 5 đ/c.
Phương giải: Bài này là một yếu phương chữa hết thảy các
chứng Trúng phong, phàm 6 bộ mạch đều Phù, Khẩn phong khí quá
thịnh, Tâm hoả bốc lên, Đờm rãi nghẽn lấp ở trong kinh lạc…đều nên
dùng bài này. Hai vị Ma hoàng, Hạnh nhân trong bài này tứclà bài Ma
hoàng thang, Ông Trọng Cảnh dùng để chữa chứng bệnh ở Thái dương
kinh; 2vị Quế chi, bạch thược trong bài này tứclà bài Quế chi thang, ông
Trọng Cảnh dùng để chữa chứng Trúng phong ở Thái dương kinh. Cho
nên phàm chứng Trúng Phong mà có chứng rức đầu, mình nóng, xương
sống đau, đều phải dùng tới nó. Nhân sâm, Cam thảo ở trong bài Tứ
quân, sách Cục phương dùng để bổ khí. Bạch thược, Xuyên khung là hai
vị ở trong bài Tứ vật, sách Cục phương dùng để dưỡng huyết. Cho nên
phàm chứng Trúng phong khí hư và huyết hư phải dùng tới nó. Phong
phạm vào sinh ra mạt tật (bệnh thuộc tứ mạt tức là tứ chi), nên
dùngPhòng kỷ làm Tá. Khí Âm quá phạm sinh ra Hàn tật, nên dùng Phụ
tử làm Tá. Khí Dương quá phạm sinh ra nhiệt tật, cho nên dùng Hoàng
cầm làm Tá. Bởi bệnh trạng không chỉ lẻ loi một vài chứng, nên dùng
49
Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
thuốc phải tới cả mọi bề. Phụ tử thông hành kinh lạc, có năng lực phá vây
cướp giáo, dẫn bon Nhân sâm thông hành suốt 12 kinh để truy tầm cái khí
Nguyên dương trong khi tẩu tán. Nó lại dẫn bọn Ma hoàng, Hạnh nhân,
Phòng phong để mở mang tấu lý và dồn bỏ khí Phong hàn ở ngoài Biểu.
Nó lại dẫn Đương quy, Xuyên khung vào huyết phận, hành huyết và
dưỡng huyết để thấm nhuần bồi bổ lại khí Chân âm bị hao tổn. Hoặc gia
Thạch cao, Tri mẫu để giáng Vị hoả, hoặc gia Hoàng cầm để thanh Phế
khí. Nếu bệnh thế hơi hư, tinh thần gầnphục, thời nên đổi những bài
thuốc bổ khí bổ huyết và tiêu đờm để điều dưỡng Nguyên khí được đầy
đủ. Đến như Kính bệnh và Cước khí, nó có tình trạng giống như bệnh
Thương hàn, y giả thường mượn dùng bài này để điều trị, nhưng tất phải
xét chứng cho đúng để gia giảm thời mới điều trị được; nếu không nghĩ gì
tới Biểu, Lý, Hư, Thực mà cho uống liều, thời khiến cho bệnh nhân vừa
tổn huyết và thương tân dịch, thật chẳng khác gì đem dầu vào chữa cháy.
HOÀN HỒN THANG
(Thiên Kim)
Ma Hoàng 3 đ/c Hạnh nhân 3 đ/c
Cam thảo 1 đ/c
Đun với 3 bát nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã, đổ cho uống.
Phương giải: Bài này dùng Ma hoàng làm Quân; Hạnh nhân,
Cam thảo làm Tá, trừ uế, khai khiếu, thông hành khí trệ, chữa các chứng
thốt trúng, ác khí, bỗng dưng ngã ngất rất hay.
TAM SINH ẨM
(Cục phương)
Sinh nam tinh 1 lạng Sinh xuyên ô 5
đ/c
50
Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
Sinh phụ tử 5 đ/c Mộc hương 2
đ/c
Các vị trên cùng tán bột, mỗi lần uống 5 đ/c, thêm lát gừng đun
với 2 bát nước, cạn còn 1 bát, uốnglàm 1 lần. Người chính khí hư thêm
vào 1 lạng Nhân sâm.
Phương giải: Phong là Dương tà, trong Phong mà không có
Hàn, thời không hại người mấy. Nếu Phong lại kiêm có hàn thời sinh
bệnh mới nặng. Hàn nhẹ mà ở Biểu thời nên phát hãn để trục tà. hàn nặng
thời vào Lý,nếu không ôn trung bổhư thời làm sao cứu được. Bài này
dùng 3 vị đại tân, đại nhiệt, không bào không chế, lại dùng Mộc hương
làm Tá, dùng ngay cái khí “chí cương chí nhuệ” của nó, không riêng gì
khu phong mà thực là để trị Hàn. Nhưng tà khí phạm vào tới đâu thì
chính khí tất phải hư, nếu chỉ biết công tà mà chẳng biết nghĩ tới bổ
chính, e không khỏidi hại về sau. Cho nên gặp người khí hư tất phải dùng
Nhân sâm để chế ngự mới công hiệu.
KHU PHONG CHÍ BẢO THANG
(Tôn sinh y thư)
Phòng phong 1,5 đ/c Đương quy 1,5 đ/c
Xuyên khung 1,5 đ/c Bạc hà 1,5 đ/c
Đại hoàng 1,5 đ/c Bạch thược
1,5 đ/c
Ma hoàng 1,5 đ/c Liên kiều 1,5 đ/c
Mang tiêu 1,5 đ/c Thạch cao 3 đ/c
Hoàng cầm 3 đ/c Cát cánh 3
đ/c
51
Nội khoa- Ngoại cảm
TRÚNG PHONG
Hoạt thạch 6 đ/c Cam thảo 6
đ/c
Kinh giới 1 đ/c Bạch truật 1 đ/c
Chi tử 1 đ/c Toàn yết 1 đ/c
Tế tân 1 đ/c Khương hoạt 2
đ/c
Thiên ma 3 đ/c Bạch phụ 3 đ/c
Độc hoạt 2 đ/c Hoàng bá 1,5 đ/c
Cương tàm 3 đ/c Hoàng liên 1
đ/c
Sinh khương 5 nhát
Tất cả các vị cùng tán bột, mỗi khi dùng 1 lạng, đun với 3 bát
nước, cạn còn 1 bát, bỏ bã, uống làm 1 lần.
Phương giải: Bài này dùng Phòng phong, Ma hoàng, Khương
hoạt, đềulà những thuốc giải Biểu. Phàm chứng Phong nhiệt ở ngoài Bì
phu nhờ nó sẽ ra mồ hôi mà bài tiết ra ngoài. Kinh giới, Bạc hà, Cương
tàm là những thuốc thanh thượng. Phàm những chứng thanh nhiệt ở trên
đỉnh đầu, nhờ đó sẽ do mũi mà bài tiết ra. Đại hoàng, Mang tiêu là hai vị
thuốc thông lợi, phàm chứng Phong nhiệt ở trong Trường Vị nhờ đó sẽ do
đại tiện mà bài tiết ra. Hoạt thạch, Chi tử là những thuốc thông lợi về
đường thuỷ đạo, tà Phong nhiệt ở cơ quan Quyết độc, nhờ đó sẽ theo tiểu
tiện tiết ra. Phong phạm vào Cách, Phế ,Vị bị tà, Thạch cao, Cát cánh là
những vị thuốc thanh Phế, Vị mà Liên kiều, Hoàng cầm, Hoàng liên,
Hoàng bá thời nó lại dồn bỏ du hoả ở các kinh. Phong gây nên bệnh do
Can Mộc làm chủ, Xuyênkhung, Đương quy, Bạch thược là những vị
thuốc để hoà Can huyết. Tỳ mất kiện vận phải dùng đến vị cam dược làm
chủ: Cam thảo, Bạch truật là những vị thuốc để hoà Tỳ. Ngoài ra như
52