Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

MÔ tả đặc điểm lâm SÀNG và các yếu tố LIÊN QUAN đến hội CHỨNG SẢNG ở NGƯỜI CAO TUỔI tại BV lão KHOA TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.62 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
..........***.........

BỘ Y TẾ

HOÀNG THỊ PHƯƠNG NAM

MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN HỘI CHỨNG SẢNG Ở NGƯỜI
CAO TUỔI TẠI BV LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA 2

HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
..........***.........

HOÀNG THỊ PHƯƠNG NAM

MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN HỘI CHỨNG SẢNG Ở NGƯỜI
CAO TUỔI TẠI BV LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG
Chuyên ngành: Lão khoa
Mã số:
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA 2


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Hồ Thị Kim Thanh

HÀ NỘI - 2019
MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Mê sảng là một hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi sự suy giảm cấp tính
về ý thức và nhận thức. Các năng lực định hướng về không gian, thời gian và
môi trường xung quanh bị sai lệch. Tình trạng này thường xuất hiện trong thời
gian ngắn từ vài giờ đến vài ngày. Một số trường tình trạng hợp mê sảng có
thể kéo dài dai dẳng vài tuần đến vài tháng. Thống kê cho thấy tỷ lệ mê sảng
trong cộng đồng thấp, chỉ khoảng 1 - 2% [1, 2]. Tỉ lệ mê sảng tăng lên theo
tuổi và thường phổ biến ở những người trên 65 tuổi. Deepti Kukreja và cộng
sự (2015) ước tính 11 – 42% người bệnh cao tuổi mắc hội chứng mê sảng ở
nội khoa [3]. Fong (2009) cũng nhận thấy người bệnh cao tuổi nhập viện vì
mê sảng chiếm tỉ lệ cao khoảng 14 - 56% trong tổng số bệnh nhân cao tuổi
nhập viện và ít nhất 20% trong số 12,5 triệu người bệnh trên 65 tuổi nhập viện

mỗi năm ở Mỹ trong tình trạng mê sảng [1].
Hội chứng mê sảng nếu không phát hiện sớm và có chiến lược điều trị
phù hợp thì có thể tiến triển nặng lên và người bệnh sẽ có nguy cơ tử vong.
Dan K. Kiely và cộng sự (2009) theo dõi các trường hợp có mê sảng trong 1
năm cho biết tỉ lệ tử vong tăng dần theo thời gian: 3,6% chết trong khoảng từ
2 đến 4 tuần, 11,2% chết trong khoảng từ 4 tuần đến 12 tuần, 12,9% chết
trong khoảng từ 12 tuần đến 26 tuần và 11,6% chết trong khoảng từ 26 tuần
đến 52 tuần [4].
Mặc dù chưa xác định chính xác có mối liên quan giữa thời gian và tỉ lệ
tử vong hay không nhưng từ kết quả trên có thể thấy việc phát hiện sớm hội
chứng sảng có thể làm giảm thiểu tỉ lệ tử vong. Tuy nhiên, phát hiện sớm hội
chứng mê sảng rất khó khăn. Khó khăn không chỉ đối với các bác sĩ đa khoa
nói chung mà còn với các bác sĩ cấp cứu nói riêng. Bởi vì, hội chứng mê sảng
thường bị bỏ sót hoặc bị chẩn đoán nhầm với các rối loạn tâm thần khác. Một


7

số nghiên cứu cho biết tại môi trường cấp cứu, phần lớn hội chứng mê sảng
đã bị bỏ qua tại thời điểm nhập viện [5]. Nghiên cứu tại khoa cấp cứu của Jin
H. Han và cộng sự (2009) ở những người bệnh trên 65 tuổi cho cho biết 76%
các trường hợp mê sảng không được bác sĩ chẩn đoán và hơn 90% các người
bệnh nhập viện vì mê sảng cũng bị bỏ qua tại thời điểm nhập viện [5]. Như
vậy, xác định chính xác đặc điểm hội chứng mê sảng là cần thiết giúp chẩn
đoán đúng và qua đó có những biện pháp can thiệp kịp thời. Nguyên nhân của
hội chứng mê sảng rất đa dạng và đa yếu tố. Sự xuất hiện và tiến triển của của
hội chứng mê sảng phụ thuộc nhiều vào sự xuất hiện và kết hợp của các yếu
tố liên quan. Các yếu tố liên quan có thể thúc đẩy sự xuất hiện của hội chứng
mê sảng và cũng có thể nặng thêm tình trạng mê sảng. Inouye SK nhận định,
nếu có chiến lược can thiệp vào các yếu tố liên quan có thể giúp giảm đáng kể

số lượng, thời gian của các cơn mê sảng ở bệnh nhân lớn tuổi nhập viện và
giúp phòng ngừa mê sảng [6]. Do đó, xác định được các yếu tố sẽ đóng góp
một phần không nhỏ trong chiến lược điều trị và dự phòng mê sảng.
Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào về hội chứng mê sảng ở người
cao tuổi tại khoa cấp cứu. Với mong muốn xác định đặc điểm hội chứng mê
sảng và xác định các yếu tố liên quan đến mê sảng qua đó giúp các bác sĩ có
thể phát hiện sớm mê sảng và có những biện pháp can thiệp kịp thời, phù hợp
nên chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm hội chứng sảng và một số yếu tố liên
quan ở bệnh nhân cao tuổi điều trị tại khoa cấp cứu Bệnh viện Lão khoa
Trung Ương” với 2 mục tiêu sau:
1.

Khảo sát tỷ lệ, đặc điểm hội chứng mê sảng ở người cao tuổi điều trị tại
khoa cấp cứu bệnh viện Lão khoa Trung Ương.

2.

Nhận xét 1 số yếu tố liên quan của hội chứng sảng ở người cao tuổi điều
trị tại khoa cấp cứu bệnh viện Lão khoa Trung Ương.


8

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử hình thành khái niệm mê sảng
Trải qua 3000 năm nghiên cứu về mê sảng nhưng để đưa ra một khái
niệm chính xác về mê sảng thì vẫn rất khó khăn [7]. Thuật ngữ “Delirium”
(mê sảng) bắt nguồn từ tiếng Latin là “Deliro” hoặc “Delirare”. Thuật ngữ
“Delirium” lần đầu tiên được Aulus Cornelius Celsus sử dụng trong y học vào

thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.
Thời kỳ cổ đại, theo Hippocrates và Celsus, mê sảng có thể là một triệu
chứng cũng có thể là một hội chứng. Hippocrates cho rằng mê sảng là những
hiện tượng bất thường về tâm thần do bị sốt, bị ngộ độc hoặc bị chấn thương
đầu gây ra [8, 9]. Hippocrates sử dụng 16 thuật ngữ để ám chỉ cho hội chứng
lâm sàng mà ngày nay gọi là mê sảng như là ληρος (leros), μανια (mania),
παραφροσυνη (paraphrosyne), παραληρος (paraleros), φρενιτις (phrenitis),
ληθαργος (lethargus)… Rất khó để tìm ra ý nghĩa chính xác của các thuật ngữ
này. Ví dụ: παραφροσυνη (paraphrosyne) có thể được sử dụng để mô tả một
sự điên rồ nhưng cũng được sử dụng để mô tả cho sự suy giảm hoặc mất ý
thức. Celsus cũng cho rằng mê sảng là những hiện tượng bất thường về tâm
thần và nguyên nhân là do bị sốt, ngộ độc hoặc chấn thương đầu. Nhưng ông
còn cho rằng mê sảng còn một nguyên nhân khác nữa là do rượu.
Thời kỳ trung cổ, theo Procopius, mê sảng được hiểu là những trường
hợp có biểu hiện ảo giác, bồn chồn bứt rứt, la hét, dễ nóng nảy, mất ngủ trở
nên hung bạo. Hoặc những trường hợp quên đi tất cả những người quen
thuộc, rơi vào trạng thái hôn mê, ngủ liên tục.
Vào thế kỷ 16, một đóng góp quan trọng trong những hiểu biết về mê sảng là
công trình của Ambroise Pare, một bác sĩ phẫu thuật. Ông nhận định mê sảng


9

là một biến chứng của phẫu thuật. Ông mô tả mê sảng là một tình trạng
thoáng qua thường xảy ra sau sốt và đau do vết thương, hoại thư và các hoạt
động liên quan đến chảy máu nghiêm trọng của bệnh nhân [10]. Vào giữa thế
kỷ 18, mê sảng được mô tả với các trường hợp mất ngủ, bồn chồn bất an, suy
giảm trí nhớ, mất liên lạc với môi trường, có hành vi giống trẻ con và có thể
có phản ứng kích động. Thời kỳ này cũng cho rằng nguyên nhân mê sảng là
do sốt và do rượu. Vào đầu thế kỷ 19, Sutton (1813) đưa ra thuật ngữ

Delirium tremens (chứng sảng run do rượu) và mô tả biểu hiện sảng và run
rẩy rõ rệt của bàn tay do uống quá nhiều rượu để phân biệt sảng do rượu với
“sự điên rồ”. Năm 1817, Greiner đưa ra khái niệm về “sự che mờ của ý thức”
và cho rằng đây là đặc điểm đặc trưng của mê sảng. Ông tin rằng sốt gây ra
các rối loạn các tổ chức của ý thức trong não và tạo ra con đường của sảng.
Mức độ nghiêm trọng và bức tranh lâm sàng của sảng phụ thuộc vào thời gian
và mức độ sốt. Ông nhận định cơn sốt dao động thì ý thức cũng dao động.
Người bệnh có thể có những khoảng thời gian sáng suốt. Mối liên hệ giữa mê
sảng và “sự che mờ của ý thức” được Hughlings Jackson khám phá thêm vào
những năm 1860. Tuy nhiên, KrafftEbing (1879) và Kraepelin (1915) thì cho
rằng “sự che mờ của ý thức” có thể gặp trong trạng thái hoàng hôn, trạng thái
sững sờ căng trương lực, trạng thái phân ly, trầm cảm và kích động. Trong thế
kỷ thứ 19 đã đưa ra khái niệm về sảng là “sự che mờ của ý thức” và nó trở
thành tiêu chí lâm sàng đầu tiên để tách biệt mê sảng với phần còn lại của “sự
điên rồ”. Thời kỳ này, thay vì bệnh học và tiên lượng thì triệu chứng lâm sàng
trở thành trọng tâm của khái niệm mê sảng. “Sự che mờ của ý thức” là một
đặc điểm cốt lõi của mê sảng. Từ thế kỷ 19 cho đến nay, các nhà khoa học cố
gắng làm rõ khái niệm và phân tách mê sảng với các rối loạn tâm thần khác.
Tóm lại, mê sảng có thể là một triệu chứng, có thể là một hội chứng lâm sàng
và khái niệm có thể theo theo triệu chứng, nguyên nhân, tiến triển, tiên lượng


10

hoặc mối liên hệ của sảng với bệnh lý thực thể. Mặc dù chưa thể xác định
được chính xác nhưng có môt sự đồng thuận lớn của các nhà khoa học về khái
niệm mê sảng trong 2 hệ thống chẩn đoán là DSM (Cẩm nang chẩn đoán và
thống kê tâm thần Rối loạn) của hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ và ICD (Phân loại
quốc tế về bệnh tật) [9].
2.2. Dịch tễ học sảng:

1.2.1. Tuổi
Mê sảng có thể gặp ở mọi độ tuổi. Tuy nhiên tỉ lệ mê sảng tăng dần theo
tuổi và gặp nhiều nhất ở những người lớn tuổi. Năm 1981, Marshal Folstein
và cộng sự tiến hành một khảo sát Sức khỏe Tâm thần trên 3841 hộ gia đình
tại phía đông Baltimore. Kết quả cho thấy tỉ lệ mê sảng từ 18 tuổi trở lên
khoảng 0,4%, tỉ lệ mê sảng từ 55 tuổi trở lên khoảng 1,08% và tỉ lệ mê sảng ở
những người từ 85 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ cao nhất khoảng 13,6%, tuổi trung
bình của nghiên cứu xấp xỉ 70,5 tuổi [11, 12]. Nghiên cứu của Melissa
Andrew trong năm 1991 trên 10000 người ở Canada cho biết mọi độ tuổi có
thể mắc mê sảng với tỉ lệ <0,5 % và độ tuổi thường gặp mê sảng từ 70 tuổi trở
lên với tỉ lệ khoảng 0,95%, tuổi trung bình của của nghiên cứu xấp xỉ 86.8
tuổi [13]. Nghiên cứu khảo sát dịch tễ của Vilalta Franch ở 8 khu vực thuộc
lãnh thổ Girona từ năm 1995 trên 1400 người cho kết quả tuổi mắc mê sảng
từ 70 tuổi trở lên với tỉ lệ 0,96% và tuổi trung bình của nghiên cứu khoảng
78.6 tuổi [14].
1.2.2. Giới
Mê sảng có thể gặp ở hai giới nhưng tỉ lệ gặp khác nhau. Một số nghiên
cứu cho thấy mê sảng thường gặp ở nam giới hơn là nữ giới. Một số nghiên
cứu khác thì lại cho thấy mê sảng thường gặp ở nữ giới hơn ở nam giới.
Nghiên cứu khảo sát Sức khỏe Tâm thần ở phía đông Baltimore cho thấy tỉ lệ
mê sảng gặp ở nam giới chiếm tới 66.7% trong khi tỉ lệ mê sảng gặp ở nữ giới


11

chỉ 33,3% [11]. Tỉ lệ mê sảng gặp ở nữ giới trong nghiên cứu ở Canada có cao
hơn chút (47,6) nhưng vẫn thấp hơn tỉ lệ mê sảng gặp ở nam giới [13]. Nghiên
cứu ở 8 khu vực của Girona thì cho thấy tỉ lệ mê sảng gặp ở nữ giới cao hơn tỉ
lệ mê sảng gặp ở nam giới, 57.1% với 42,9% [14].
1.2.3. Môi trường bệnh viện:

Các nghiên cứu về tỷ lệ sảng đã được tiến hành trên nhiều cộng đồng,
bệnh viện và trung tâm chăm sóc y tế nhưng có sự khác biệt rất lớn về tỷ lệ
sảng ở các đơn vị khác nhau.
Tỷ lệ mắc sảng trong cộng đồng chỉ từ 1-2% nhưng trong số những bệnh
nhân nằm viện nói chung con số này tăng từ 14 % đến 24%. Theo ghi nhận
của Ủy ban thống kê Hoa Kỳ ít nhất 20% trong số 12,5 triệu bệnh nhân trên
65 tuổi nhập viện mỗi năm ở Mỹ có tình trạng sảng [1]. Hầu hết các nghiên
cứu đã nhận định tình trạng sảng chủ yếu xuất hiện trong môi trường bệnh
viện và chủ yếu gặp ở những người bệnh lớn tuổi (> 65 tuổi), tỷ lệ gặp rất ít
trong dân số nói chung [12]
Ngoài ra tỷ lệ sảng phát sinh trong thời gian nằm viện dao động từ 6% đến
56%, và tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn ở các nhóm bệnh nhân đặc biệt như
nhóm sau phẫu thuật, chăm sóc tích cực và chăm sóc giảm nhẹ [1]. Tình trạng
sảng có thể xảy ra ở 15 -53% ở những bệnh nhân trên 65 tuổi sau phẫu thuật.
Nghiên cứu của Giuseppe Bellelli (2006) nhận thấy trong 1586 người
nhập viện thì có tới 15,6% trường hợp nhập viện vì mê sảng [15]. Tamara
Fong (2009) cho biết tỉ lệ người bệnh nhập viện vì mê sảng từ 14 % đến 24%
và tỉ lệ mê sảng xuất hiện trong thời kỳ nằm viện từ 6% đến 56% [1]. Sharon
Inouye (2014) cũng đồng quan điểm với Tamara Fong khi nhận thấy người
bệnh nhập viên vì mê sảng vào khoảng 18 – 35% [16]. Theo ghi nhận của Ủy
ban thống kê Hoa Kỳ ít nhất 20% trong số 12,5 triệu bệnh nhân trên 65 tuổi
nhập viện mỗi năm ở Mỹ có tình trạng sảng [1].


12

Tại khoa cấp cứu, mê sảng xảy ra thường xuyên ở những người cao
tuổi. Nghiên cứu của Fredric M. Hustey và cộng sự (2003) tại khoa cấp cứu
trong 17 tháng trên 327 người cao tuổi nhận thấy 4 – 11% có mê sảng [17].
Ritsuko Kakuma (2003) nghiên cứu tại khoa cấp cứu của 2 bệnh viện ở

Montreal cho biết tỉ lệ mê sảng khoảng 11,8% [18]. Theo Sharon Inouye
(2014), mê sảng xuất hiện ở 8 -17% trong tổng số những người cao tuổi được
đưa đến khám và điều trị tại khoa cấp cứu [16]. Theo hệ thống Chẩn đoán và
thống kê các rối loạn tâm thần – DSM, tỉ lệ xuất hiện mê sảng ước tính
khoảng 10% - 30% ở những người cao tuổi đến khoa cấp cứu.
Tại khoa hồi sức tích cực, mê sảng xuất hiện cao và đặc biệt với những
người cao tuổi. Nghiên cứu của Margaret Pisani và cộng sự (2003) trên 165
người nhập vào khoa hồi sức tích cực trong vòng 48 giờ cho biết tỉ lệ mê sảng
xuất hiện nhiều ở những người trên 65 tuổi và dao động từ 50 – 80% [19].
Theo Colin Harrington thì hơn 80% người bệnh thở máy tại khoa hồi sức tích
cực có tình trạng mê sảng [20]. Nghiên cứu của Timothy Girard và cộng sự
(2010) nhận thấy, trong tổng số 126 người bệnh thở máy tại khoa hồi sức tích
cực thì có tới 84% người bệnh có biểu hiện mê sảng [21]. Tamara Fong cho tỉ
lệ mê sảng ở khoa hồi sức cấp cứu cao hơn với 70 – 87% [1].
Ngoài ra, theo Giuseppe Bellelli thống kê trên 1867 người cao tuổi ở 108
khoa và 12 trung tâm phục hồi chức năng ở các bệnh viện ở Ý thấy có 22,9%
bệnh nhân bị sảng. Trong đó tỷ lệ cao nhất ở khoa Thần kinh (28,5%), tiếp đó
đến Lão khoa chiếm tới 24,7%, khoa Nội khoảng 21,4% và thấp nhất ở khoa
Phục hồi chức năng (14%) [22]. Tỷ lệ sảng sau phẫu thuật dao động từ 13%
đến hơn 50%. Trong một phân tích tổng hợp gần đây từ 37 nghiên cứu ở bệnh
nhân trên 60 tuổi trải qua phẫu thuật cho thấy tỷ lệ mắc sảng sau phẫu thuật
là gần 19% [23, 24].
Tóm lại, các nghiên cứu dịch tễ mê sảng được tiến hành trên nhiều cộng


13

đồng, bệnh viện, trung tâm chăm sóc y tế khác nhau, sử dụng các tiêu chuẩn
chẩn đoán khác nhau và các công cụ hỗ trợ chẩn đoán khác nhau nên sẽ đưa
đến nhiều tỷ lệ khác nhau. Nhìn chung là tỉ lệ mê sảng gặp trong môi trường

bệnh viện cao.
Nguyên nhân của sảng rất đa dạng và do đa yếu tố tác động, là sự phản
ánh bất thường quá trình sinh lý bệnh của bệnh nội khoa cấp tính, biến chứng
ngoại khoa hoặc do tác dụng của thuốc. Trên thực tế tỷ lệ sảng rất cao nhưng
thời gian tồn tại triệu chứng có thể nhanh chóng nên thường bị bỏ qua và
không được chẩn đoán. Một nghiên cứu gần đây ước tính tỷ lệ sảng không
được phát hiện cao tới 60%. Sảng có thể là một tình trạng đe dọa tính mạng
nhưng thường có thể phòng ngừa được nên việc tăng khả năng dự phòng,
chẩn đoán sảng là rất có ý nghĩa.
Về lâu dài, bệnh nhân sảng biểu hiện sự suy giảm nhận thức và chức
năng, tăng tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ [25]. Theo Witlox J bệnh nhân cao tuổi mắc
sảng tăng tỷ lệ tử vong lên đến 95% so với các nhóm bệnh nhân được kiểm
soát không có tình trạng sảng, ngay cả sau khi điều chỉnh các biến gây nhiễu
[26]. Sảng cũng liên quan đến tăng gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe, với
chi phí ước tính từ 16.303 đến 64.421 đô la mỗi bệnh nhân và gánh nặng quốc
gia hàng năm là 143-152 tỷ đô la mỗi năm tại Hoa Kỳ [23]. Các chi phí này
chủ yếu liên quan đến việc thời gian nằm viện kéo dài, chi phí cao hơn trong
quá trình nhập viện (ví dụ, thời gian ở ICU) và nhu cầu vào viện dưỡng lão
hoặc nhu cầu cần chăm sóc sức khỏe tại nhà cao hơn.
1.3. Đặc điểm lâm sàng mê sảng
Xác định chính xác mê sảng rất quan trọng qua đó giúp chẩn đoán đúng
và điều trị có hiệu quả. Tuy nhiên, xác định chính xác mê sảng là một công
việc rất khó. Một phân tích dữ liệu thu thập được từ hơn 450 người bệnh trên
65 tuổi điều trị gãy cổ xương đùi cho thấy cả bác sĩ và y tá tham gia chăm sóc


14

đều không nhận ra người bệnh có mê sảng. Các bác sĩ ít khi sử dụng công cụ
để chẩn đoán mê sảng. Theo Dennis Popeo (2011), hiện nay có hai công cụ có

độ tin cậy cao được sử dụng để chẩn đoán mê sảng là “hệ thống chẩn đoán và
thống kê các rối loạn tâm thần” (DSM) của hiệp hội Tâm thần học Mỹ và
“phân loại quốc tế về bệnh tật” (ICD).
1.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán mê sảng
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM 5
A. Rối loạn chú ý (tức là giảm khả năng điều khiển, tập trung, duy trì và
di chuyển sự chú ý) và rối loạn nhận thức (giảm khả năng định hướng với môi
trường)
B. Rối loạn tiến triển trong một khoảng thời gian ngắn (thường là vài giờ
đến vài ngày), biểu hiện sự thay đổi trong chú ý và nhận thức và có thể tiến
triển nặng lên trong ngày.
C. Có thêm sự rối loạn nhận thức (ví dụ: suy giảm trí nhớ, mất định
hướng, rối loạn ngôn ngữ, rối loạn thị giác hoặc tri giác)
D. Các rối loạn trong tiêu chí A và C không phải là rối loạn thần kinh đã
tồn tại, được hình thành hoặc tiến triển từ trước và các rối loạn này không xảy
ra trên nền bệnh cảnh các kích thích giảm nghiêm trọng như hôn mê.
E. Có các bằng chứng từ hỏi tiền sử, khám lâm sàng hoặc phát hiện dựa
trên các xét nghiệm cận lâm sàng rằng rối loạn trên là hậu quả trực tiếp của
việc nhiễm độc hoặc do cai (ví dụ lạm dụng thuốc hoặc do thuốc) hoặc tiếp
xúc với độc tố, hoặc do nguyên nhân bệnh sinh khác.
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD – 10
A. Có ý thức u ám, có nghĩa là giảm độ tỉnh táo của sự nhận biết về môi
trường xung quanh, giảm khả năng tập trung, duy trì hoặc thay đổi chú ý
B. Rối loạn nhận thức được biểu hiện bằng cả hai triệu chứng sau:
(1). Tổn thương trí nhớ tức thì và trí nhớ gần, với trí nhớ xa không bị


15

ảnh hưởng.

(2). Rối loạn định hướng về thời gian, không gian hoặc người xung quanh.
C. Ít nhất một trong các rối loạn tâm thần vận động sau xuất hiện:
(1). Sự dao động nhanh và không thể đoán trước từ giảm hoạt động
sang tăng hoạt động
(2). Tăng thời gian phản ứng
(3). Tăng hoặc giảm dòng ngôn ngữ
(4). Tăng phản ứng giật mình
D. Có rối loạn giấc ngủ hoặc chu kỳ thức – ngủ, biểu hiện bằng ít nhất
một trong các triệu chứng sau:
(1). Mất ngủ, trong những trường hợp trầm trọng có thể mất ngủ hoàn toàn,
kèm theo sự ngủ gật ban ngày hoặc không, hoặc đảo ngược chu kỳ thức - ngủ
(2). Sự nặng lên của triệu chứng vào ban đêm.
(3). Các giấc mơ hỗn độn và có ác mộng, có thể tiếp diễn dưới dạng ảo
giác hoặc ảo tưởng sau khi thức dậy.
E. Các triệu chứng có khởi phát nhanh và biểu hiện dao động trong ngày
F. Có bằng chứng khách quan từ bệnh sử, khám cơ thể và thần kinh hoặc
xét nghiệm, của một bệnh não hoặc bệnh hệ thống tiềm ẩn (không phải bệnh
liên quan đến chất tác động tâm thần) có thể được thừa nhận là nguyên nhân
của các biểu hiện lâm sàng trong các tiêu chuẩn từ A đến D.
Các rối loạn cảm xúc như trầm cảm, lo âu hoặc lo sợ, khó chịu bứt rứt,
khoái cảm, vô cảm hoặc cực kỳ bối rối, rối loạn tri giác (ảo tưởng, ảo giác,
thường là thị giác) và các hoang tưởng nhất thời là điển hình nhưng không
đặc hiệu đối với chẩn đoán này.
Trong trường hợp liên quan đến rượu mà có biểu hiện mê sảng và có
run sẽ chẩn đoán sảng run. Sảng run thường khởi đầu sau khi cai rượu hoặc
xuất hiện trong một giai đoạn uống nhiều rượu. Các dấu hiệu tiền triệu điển


16


hình bao gồm mất ngủ, run và sợ hãi. Cũng có thể co giật do cai xuất hiện
trước khi khởi phát. Tam chứng kinh điển bao gồm ý thức mù mờ và lú lẫn,
các ảo tưởng và ảo giác sinh động ở bất kỳ giác quan nào và triệu chứng run
nặng. Cũng thường có hoang tưởng, kích động, mất ngủ hoặc đảo lộn nhịp
thức ngủ và hoạt động thần kinh tự trị tăng mạnh [27].
Hiện nay, “hệ thống chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần” của
hiệp hội Tâm thần học Mỹ (DSM) và “phân loại quốc tế về bệnh tật” (ICD)
được sử dụng rộng rãi trên thế giới để làm tiêu chuẩn cho chẩn đoán mê sảng.
Hai tiêu chuẩn chẩn đoán sảng này có độ tin cậy cao. Ở Việt Nam, từ năm
1992, Bộ Y tế cho phép sử dụng “Bảng phân loại thống kê về bệnh tật và các
vấn đề sức khỏe có liên quan” phiên bản thứ 10 (gọi tắt là ICD - 10) nhằm
hướng dẫn và chỉ đạo chẩn đoán các vấn đề về bệnh tật. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi chỉ sử dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán trong ICD -10 dành cho
nghiên cứu để chẩn đoán các trường hợp có mê sảng.
1.3.2. Đặc điểm các triệu chứng mê sảng:
Các triệu chứng mê sảng phong phú, đa dạng và xuất hiện không theo
qui luật.
1.3.2.1. Đặc điểm các triệu chứng ý thức và nhận thức
Ý thức là một hoạt động tổng hợp các quá trình tâm thần như cảm giác
tri giác, tư duy, phản ứng cảm xúc, trí nhớ. Ý thức có đặc tính phản ánh ở mức
cao nhất, toàn diện và chính xác nhất hiện thực khách quan. Trong lâm sàng
nhất là lâm sàng tâm thần học, ý thức được hiểu theo nghĩa hẹp hơn. Chủ yếu
ở đây là nghiên cứu mức độ sáng sủa, tỉnh táo của tâm thần, nghiên cứu mức
độ nhận thức của bệnh nhân về bản thân mình và mối liên hệ giữa bản thân
mình với môi trường xung quanh. Trong tâm thần học, đánh giá ý thức thường
chú trọng vào việc kiểm tra năng lực định hướng của bệnh nhân. Định hướng
không gian: Biết mình đang ở đâu, bệnh viện cách nhà bao nhiêu kilomet.


17


Định hướng thời gian: Biết ngày, tháng hiện tại, biết tính thời gian nằm viện
của mình. Định hướng bản thân: nắm được lý lịch về mình, biết trạng thái
bệnh tật của mình. Định hướng về những người xung quanh: hiểu được nhiệm
vụ của những người trong bệnh phòng: y tá, hộ lý, bệnh nhân. Trong mê sảng,
định hướng về môi trường xung quanh bị rối loạn nặng. Định hướng về không
gian và thời gian cũng bị lệch lạc. Tuy nhiên, định hướng về bản thân còn duy
trì.
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào
trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở
thực tiễn. Hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trong tiêu chuẩn
chẩn đoán của ICD - 10, rối loạn nhận thức trong mê sảng được biểu hiện
bằng rối loạn trí nhớ và rối loạn định hướng.
Trí nhớ là chức phận và đặc tính của bộ não có khả năng ghi nhận, bảo
tồn và cho hiện tại những kinh nghiệm và tri thức cũ dưới dạng biểu tượng, ý
niệm và ý tưởng. Quá trình ghi nhận là quá trình hưng phấn ở những hệ thống
cấu trúc cơ động của bộ não trước những kích thích của thực tại. Càng chú ý
và càng thích thú với kích thích bao nhiêu thì quá trình ghi nhận càng chắc
chắn, rõ ràng bấy nhiêu. Quá trình bảo tồn là quá trình hình thành những
đường liên hệ tạm thời duy trì dấu vết của những kích thích đã tác động vào
vỏ não. Kích thích càng mạnh, càng được lặp lại thì quá trình bảo tồn càng
bền vững. Quá trình nhớ lại quá trình hồi phục những đường liên hệ tạm thời
đã được bảo tồn trong những hệ thống cấu trúc cơ động của bộ não. Nhớ lại
tốt chứng tỏ quá trình bảo tồn tốt. Thường nhớ lại xuất hiện dưới 2 hình thức.
Nhận lại là thông qua các giác quan nhận được những đối tượng kích thích
trước kia (vd: nhận lại bạn cũ xa nhau đã nhiều năm). Hiện lại là kinh nghiệm
và tri thức cũ, không cần thông qua tri giác đối tượng kích thích trước kia, vẫn



18

có thể hiện ra trong đầu óc dưới dạng biểu tượng hay ý niệm (hiện tại khuôn
mặt của bà mẹ đã mất). Trí nhớ tức thì khả năng ghi nhớ và tái hiện lại được
các sự vật, hiện tượng trong thời gian 30 giây như nhớ số điện thoại, nhớ
khuôn mặt vừa gặp. Trí nhớ gần là khả năng ghi nhớ và tái hiện lại được các
sự vật, hiện tượng trong vài giờ hoặc vài ngày. Trí nhớ xa là khả năng ghi nhớ
và tái hiện lại được các sự vật, hiện tượng từ nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều
năm [28]. Trong mê sảng, trí nhớ tức thì và trí nhớ gần rối loạn. Tuy nhiên, trí
nhớ xa vẫn còn tốt. Sau mê sảng, về cảnh mê sảng và cảnh thực, bệnh nhân
nhớ rời rạc, từng mảng, không đều [27].
Chú ý là năng lực tập trung các quá trình vào một hay một số đối tượng
hoặc hiện tượng nhất định để đối tượng hoặc hiện tượng ấy được phản ánh rõ
nét nhất và toàn vẹn nhất trong ý thức. Đây là quá trình hưng phấn ở những hệ
thống cấu trúc cơ động của bộ não tương ứng với kích thích bên ngoài hoặc
bên trong cơ thể và đồng thời xuất hiện quá trình ức chế những vùng không
cần thiết cho sự chú ý. Chú ý là một thành phần rất quan trọng trong hoạt
động có ý chí. Chú ý được chia làm 2 loại. Chú ý bị động (chú ý tự nhiên,
không theo ý muốn), ví dụ: đang làm bài tập nhưng có thể lắng nghe người
khác nói chuyện. Chú ý chủ động (chú ý có mục đích, đòi hỏi sự cố gắng), ví
dụ: làm bài tập toán. Các thuộc tính của chú ý là sự tập trung, tính ổn định
(chú ý duy trì, kéo dài trong một thời gian khá lâu), sức phân phối (cùng một
lúc chú ý đến nhiều đối tượng), năng lực di chuyển (từ việc này chuyển sang
việc khác). Chất lượng sự chú ý phụ thuộc vào sự thông hiểu ý nghĩa, mục
đích làm việc, vào sự chú ý của vấn đề, vào ý chí mạnh hay yếu, vào sự rèn
luyện của cá nhân, vào hoàn cảnh làm việc có thuận lợi hay không, vào trạng
thái tâm thần và cơ thể. Trong mê sảng, khả năng tập trung, duy trì hoặc thay
đổi chú ý đều bị giảm [27].
1.3.2.2. Đặc điểm các triệu chứng tâm thần vận động



19

Rối loạn tâm thần vận động là một rối loạn hoạt động có ý chí. Hoạt
động là quá trình tác động qua lại giữa con người và thế giới khách quan.
Hoạt động có ý chí là một quá trình hoạt động tâm thần có mục đích, phương
hướng rõ ràng. Trong mê sảng, các hoạt động thường dao động nhanh, không
thể đoán trước từ giảm hoạt động sang tăng hoạt động và thường xuất hiện hội
chứng căng trương lực. Hội chứng căng trương lực gồm có hai trạng thái: kích
động và bất động. Hai trạng thái này thường xuất hiện kế tiếp nhau, thay đổi
cho nhau. Hội chứng kích động căng trương lực có những đặc điểm như xuất
hiện đột ngột, từng đợt xen kẽ với trạng thái bất động và chủ yếu là những
động tác dị thường, vô ý nghĩa, không mục đích, thường có tính chất định
hình, đơn điệu (rung đùi, lắc người nhịp nhàng, động tác định hình, trợn mắt
trừng trừng, đập tay vào tai, vỗ tay, nhại lại cử chỉ, nhại lại nét mặt). Trạng
thái kích động mang nhiều hình thái khác nhau, thường có nhưng trang thái
sau đây kế tiếp nhau: lúc đầu kích động tính chất bàng hoàng, kịch tính rồi
chuyển sang kích động si dại, lố bịch rồi đến kích động kiểu sung động, cuối
cùng là kích động im lặng. Bất động căng trương lực thường bắt đầu bằng
trạng thái bản bất động như ngày càng ít nói, luôn ngồi ở một tư thế, chán ăn.
Rồi đến hiện tượng giữ nguyên dáng như đặt tay chân, đầu ở tư thế nào thì giữ
nguyên tư thế ấy trong một thời gian tương đối dài. Rồi đến bất động hoàn
toàn. Dấu hiệu bất động hoàn toàn thường bắt đầu bằng triệu chứng gối không
khí (nâng đầu bệnh nhân lên khỏi giường, bệnh nhân giữ tư thế ấy như gối
không khí). Tất cả các cơ đều căng thẳng, nằm im như khúc gỗ. Trong trạng
thái bất động có thể có động tác định hình: nhại lời, nhại cử chỉ, nhại nét mặt
như trong kích động căng trương lực. Ngoài ra, các triệu chứng tâm thần vận
động còn có đặc điểm tăng thời gian phản ứng và tăng phản ứng giật mình.
Ngôn ngữ là hình thức của tư duy. Trong mê sảng, dòng ngôn ngữ có thể tăng
hoặc có thể giảm. Tác phong của bệnh nhân trong mê sảng phần lớn bị ảo



20

tưởng, ảo giác chi phối nên thường mang tính kích động nguy hiểm (tự vệ hay
tấn công). Tác phong phản ứng tương xứng với nội dung ảo giác [27].
1.3.2.3. Đặc điểm rối loạn giấc ngủ hoặc chu kỳ thức ngủ
Ngủ là một hoạt động bình thường có chu kỳ trong đó cảm giác và vận
động tạm thời dừng lại một cách tương đối, gần như hầu hết các cơ bắp và cơ
thể bất động. Giai đoạn khởi đầu của giấc ngủ là thời gian đi vào giấc ngủ
được biết đến như ngưỡng ngủ xuất hiện trong vài giây. Giai đoạn này được
đặc trưng bởi nhịp alpha đều đặn và ổn định. Dần dần sau đó, độ căng cơ
giảm, các chức năng giảm. Sau đó là giai đoạn NREM (Non Rapid Eye
Movement) gồm 4 giai đoạn, giai đoạn sau sâu hơn giai đoạn trước. Hầu hết
những chức năng sinh lý đáng kể đều thấp hơn so với lúc thức. Giai đoạn 1, từ
khi kéo dài cho đến khi kết thúc kéo dài khoảng10 phút. Nhịp thở trở nên
chậm, nhịp tim đều, huyết áp giảm, nhiệt độ não giảm, dòng máu đến não
giảm. Sóng điện não chậm, biên độ nhỏ và ít đều đặn hơn một chút. Giai đoạn
này dễ bị tỉnh và có thể không ngủ lại được. Giai đoạn 2, kéo dài khoảng 20
phút. Giai đoạn này có thể ý thức một cách lơ mơ, một vài ý nghĩ rời rạc trôi
nổi trong đầu nhưng không thể nhìn thấy bất cứ vật gì ngay cả khi mắt còn
mở. Các chức năng cơ thể giảm xuống. Sóng điện não có biên độ lớn hơn, và
thỉnh thoảng có sự bùng phát của các sóng nhanh. Lúc này vẫn có thể bị tỉnh
giấc bởi các âm thanh. Giai đoạn 3 rất khó tỉnh, phải có âm thanh to hoặc lay
thì mới tỉnh. Sóng điện não chậm khoảng 1 nhịp trên 1 giây, biên độ lớn (sóng
delta). Giai đoạn này bắt đầu ngủ sâu, xuất hiện sau 30 – 40 phút tính từ khi
lơ mơ ngủ. Giai đoạn 4 là giai đoạn ngủ sâu nhất. Sóng não đồ là sóng delta,
biên độ lớn, tần suất chậm, có sóng nhọn. Tại thời điểm này có quá trình quên
lãng. Nếu có miên hành hoặc tiểu dầm thì sẽ diễn ra trong giai đoạn này. Giai
đoạn 3 và 4 là giai đoạn ngủ sâu nhất của giấc ngủ. Sau khi pha ngủ sâu kết

thúc sẽ quay lại giai đoạn 2 và rồi đi vào trạng thái REM (Rapid eye


21

movement). Trong giai đoạn này cằm thả lỏng nhưng mặt cũng như các ngón
tay, ngón chân lại xoắn vặn. Nam giới có thể cương cứng dương vật, nữ giới
có thể bị cương tụ máu âm vật. Tuy nhiên, các cơ lớn hoàn toàn bị liệt, và
dường như không thể cử động được thân mình, chân và tay. Sóng điện não
nhỏ và không đều đặn với hàng loạt các hoạt động của mắt. Trong nhiều
trường hợp sóng não đồ giống như lúc thức. Các hoạt động cơ thể tăng lên
một cách đáng kể: huyết áp dao động nhưng có thể tăng đáng kể, mạch tăng
không đều, và người ngủ phải đối mặt với những vấn đề về tim mạch và có
nguy cơ cao của cơn đau thắt ngực. Thở không đều và tăng mức tiêu thụ oxy.
Trong 1 đêm luôn có sự luân phiên 4 – 6 lần giữa giấc ngủ REM và NREM.
Mỗi chu kỳ kéo dài trung bình khoảng 90 phút và dao động trong khoảng 70 –
110 phút. Ở người trưởng thành sự phân bố các giai đoạn giấc ngủ như sau:
NREM (75%) với 5% giai đoạn 1, 45% giai đoạn 2, 12% giai đoạn 3, 13%
giai đoạn 4 và REM (25%) [29]. Trong mê sảng, thường có biểu hiện mất
ngủ. Những trường hợp nặng có thể mất ngủ hoàn toàn. Một số trường hợp có
thể ngủ gật ban ngày hoặc không, một số trường hợp khác có thể đảo ngược
chu kỳ thức ngủ. Các triệu chứng thường nặng lên vào ban đêm [27].
1.3.2.4. Đặc điểm các triệu chứng khác
Các triệu chứng khác bao các rối loạn cảm xúc như trầm cảm, lo âu
hoặc lo sợ, khó chịu bứt rứt, khoái cảm, vô cảm hoặc cực kỳ bối rối, rối loạn
tri giác (ảo tưởng, ảo giác) và rối loạn tư duy (hoang tưởng).
Cảm xúc biểu hiện thái độ con ngưòi đối với thực tế chung quanh và
đối với bản thân. Cảm xúc không thể tách ra khỏi các quá trình hoạt động tâm
thần khác như: tri giác, tư duy, nhận thức…Trầm cảm, lo âu hoặc lo sợ, khó
chịu bứt rứt, khoái cảm, vô cảm hoặc cực kỳ bối rối là những rối loạn cảm

xúc. Trầm cảm đặc trưng bởi khí sắc giảm tức là khí sắc buồn rầu ủ rủ. Biểu
hiện quá trình ức chế toàn bộ tâm thần bao gồm 3 thành phần chủ yếu. Cảm


22

xúc ức chế biểu hiện bằng khí sắc hạ thấp, buồn rầu, ủ rũ, mất thích thú cũ,
nhìn xung quanh thấy ảm đạm, bi quan về tiền đồ. Tư duy ức chế biểu hiện
bằng suy nghĩ chậm chạp, quá trình liên tưởng khó khăn, ý tưởng nghèo nàn,
tự cho mình là hèn kém, mất tin tưởng vào bản thân. Hoạt động bị ức chế biểu
hiện bằng ít hoạt động, ít nói ăn uống kém, thường nằm hay ngồi lâu trong
một tư thế, trầm ngâm suy nghĩ. Trường hợp nặng có thể có hiện tượng bất
động. Khoái cảm là hiện tượng khí sắc tăng không thích ứng với hoàn cảnh,
xuất hiện hoạt động nhiều, liên tưởng nhanh. Vô cảm là hoàn toàn mất mọi
phản ứng cảm xúc đối với mọi kích thích. Trong mê sảng, các triệu chứng về
cảm xúc thường có đặc điểm là không ổn định [27].
Tri giác là một quá trình tâm lý có khả năng tổng hợp lại các đặc tính
riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng, để nhận thức được một cách toàn bộ,
thống nhất các sự vật, hiện tượng ấy. Tri giác được hình thành từ cảm giác.
Cảm giác chỉ phản ánh từng đặc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng, thông
qua từng phân tích giác quan thần kinh và do các kích thích của môi trường
bên ngoài cũng như bên trong cơ thể sinh ra như cảm giác ngọt, cảm giác hình
tròn, cảm giác màu vàng, cảm giác đói, cảm giác đau, mệt. Ảo tưởng là tri
giác sai lệch về toàn bộ hay hoàn toàn một sự vật hay một hiện tượng có thật
bên ngoài, ví dụ: nhìn dây thừng tưởng là con rắn, nhìn áo dài treo trên tường
tưởng là người đang hoạt động, nghe tiếng ô tô tưởng máy bay. Ảo tưởng
thường chia theo các giác quan như ảo tưởng thị giác, ảo tưởng thính giác, ảo
tưởng vị giác, ảo tưởng khứu giác, ảo tưởng xúc giác. Ảo ảnh kỳ lạ là những
ảo tưởng rất phong phú, rất sinh động và kỳ lạ, xuất hiện ngoài ý chí bệnh
nhân, không phụ thuộc và biến đổi cảm xúc, dồn dập đến và thay thế dần sự

vật có thực bên ngoài. Ảo giác là cảm giác, tri giác như có thật về một sự vật,
một hiện tượng không hề có trong thực tại khách quan. Ảo giác thường chia
theo các giác quan như ảo giác thị giác, ảo giác thính giác, ảo giác vị giác, ảo


23

giác khứu giác, ảo giác xúc giác. Trong mê sảng có thể có rất nhiều rối loạn
tri giác ảo tưởng, ảo ảnh kỳ lạ và ảo giác. Thường là những ảo giác sinh động,
rực rỡ, mang tính chất rùng rợn, ghê sợ. Ảo ảnh kì lạ nếu xuất hiện thì thường
xuất hiện trong giai đoạn đầu của trạng thái mê sảng.
Hoang tưởng là những ý tưởng phán đoán sai lầm, không phù hợp với
thực tế do bệnh tâm thần sinh ra nhưng bệnh nhân cho là hoàn toàn chính xác
không thể giải thích đả thông được. Phần lớn các tác giả chia hoang tưởng
làm hai lọai theo phương thức kết câu. Hoang tưởng suy đoán là hoang tưởng
xây dựng thuần túy theo logic lệch lạc của bệnh nhân, biểu hiện một sự rối
loạn trong việc phản ánh mối liên quan nội tại giữa các sự vật và hiện tượng.
Đồng thời cũng biểu hiện khuynh hướng tưởng tượng, sự mơ ước hay tư duy
chưa trưởng thành của bệnh nhân. Hoang tưởng cảm thụ là hoang tưởng xuất
hiện sau các rối loạn của tri giác hay của cảm xúc hay của ý thức. Không có
logic lệch lạc mà chỉ có ý tưởng rời rạc không kể tục, cảm xúc căng thẳng,
bàng hoàng, ngơ ngác. Trong mê sảng nếu xuất hiện hoang tưởng thi thường
là hoang tưởng cảm thụ và thường là hoang tưởng nhận nhầm, ví dụ bố mẹ
đến thăm bệnh nhân không thừa nhận, cho rằng đó là những người lạ, giả
dạng bố mẹ mình [27].
1.4. Sinh lý bệnh của sảng
Nhiều yếu tố có tính dự đoán và các yếu tố nguy cơ cao của sảng đã
được đưa ra nhưng các tác giả đều đồng thuận cho rằng không có một nguyên
nhân cụ thể tác động mà sảng là kết quả phổ biến của suy giảm tổng quát hoạt
động của não. Engel và Romano đã đề xuất khái niệm sảng như là một hội

chứng của suy giảm hoạt động não bộ do giảm chuyển hóa não. Những giả
thiết đề xuất về sinh bệnh học của sảng dựa trên các nguyên nhân gây ra sảng,
bao gồm: (1) sự tác động trực tiếp đến não và hàng rào máu não (như hạ
đường huyết, tác dụng của thuốc, thiếu máu cục bộ do đột quỵ hoặc nhiễm


24

trùng máu nặng); (2) phản ứng của não chống lại stress một cách không thích
hợp [30].
1.4.1. Sự tác động trực tiếp đến não và hàng rào máu não
Sự tác động trực tiếp đến não bao gồm các quá trình cấp tính làm tổn
thương chức năng não bằng cách gây thiếu hụt năng lượng, bất thường về trao
đổi chất, chấn thương, xuất huyết hoặc thay đổi mức độ dẫn truyền thần kinh
bằng thuốc (ví dụ trong bảng 1) [31].
Bảng 1.1: Một số nguyên nhân gây tổn thương não trực tiếp
Quá trình
Thiếu năng lượng
cho não bộ

-

Rối loạn chuyển hóa

-

Chấn thương thần
kinh trung ương

-


Nhiễm trùng

-

Khối u, ung thư

-

Độc tính của thuốc

-

Ví dụ
Thiếu oxy toàn thân
Hạ đường huyết
Hạ huyết áp
Huyết khối/nhồi máu não
Tăng/Hạ Na máu
Tăng kali máu
Tăng calci máu
Tăng đường huyết
Tổn thương sợi trục thần kinh
Xuất huyết não
Chấn thương xuyên thấu
Nhiễm trùng thần kinh trung ương nguyên phát
Nhiễm trùng sau chấn thương sọ não
Di căn não
U hệ thần kinh trung ương nguyên phát
Kháng cholinergic

Chất chủ vận dopamine
GABA
Opioids

Thiếu oxy máu và hạ đường huyết toàn thân gây rối loạn chức năng não
cấp tính ở nhiều vùng, dẫn đến giảm khả năng chú ý và các triệu chứng khác
của sảng. Việc một vùng não bị thiếu hụt năng lượng, đặc biệt là các vùng ảnh
hưởng đến sự chú ý như nhân đuôi, thùy trán cũng sẽ gây sảng [32].
Sock nhiễm khuẩn cũng là một nguyên nhân lâm sàng phổ biến gây hội


25

chứng sảng. Nghiên cứu đã chứng minh có sự tổn thương thứ phát chất trắng
trên diện rộng do giảm tưới máu não hoặc do tăng tính thấm hàng rào máu
não sau giai đoạn sock nhiễm khuẩn [33]. Các tác giả đã nhận thấy có mối
liên quan chặt chẽ giữa tình trạng viêm và hoạt động của hệ cholinergic với
sảng. Có những báo cáo về việc thay đổi nhận thức nhẹ trong nhiễm trùng
đường hô hấp trên [34], tiêm chủng và nhiễm độc tế bào ở người [35]. Những
nghiên cứu này ghi nhận những khó khăn trong tập trung chú ý, phản hồi
chậm, gợi nhớ kém. Những thiếu hụt nhận thức n hẹ này có thể gây sảng ở
người cao tuổi, và bệnh nhân sa sút trí tuệ.
1.4.2. Phản ứng của não trước các stress một cách không thích hợp


Phản ứng viêm và sảng

Trong quá trình bị nhiễm trùng hoặc bị các kích thích miễn dịch khác
động vật sẽ xuất hiện một loạt các thay đổi hành vi và chuyển hóa để thích
nghi và được gọi là “hành vi bệnh tật”. Các đặc điểm của hành vi bệnh tật bao

gồm khó chịu, suy giảm nhận thức, giảm mức vận động và các hoạt động xã
hội, buồn ngủ, tăng cảm giác thèm ăn, trầm cảm hoặc có thể có phản ứng sốt
trong một số trường hợp [31, 36]. Những đặc điểm này được phát hiện dựa
trên các nghiên cứu ở các loài động vật gặm nhấm tuy nhiên những hành vi
này có sự tương đồng, quen thuộc với con người khi có nhiễm trùng, phẫu
thuật hoặc chấn thương.
Những thay đổi hành vi được xác định do sự phối hợp giữa các chất dẫn
truyền thần kinh và các chất trung gian gây viêm như cytokine và
prostaglandin. Cơ chế có thể là: (a) tương tác trực tiếp với các tế bào thần
kinh trong các cơ quan ngoại biên mà không cần vượt qua hàng rào máu não
(b) kích hoạt các tế bào nội mô mạch máu não gây giãn mạch, tăng tính thấm
vào nhu mô não hoặc (c) kích hoạt các tế bào của dây thần kinh phế vị do đó
kích thích trung tâm não bộ bằng con đường thần kinh [31]. Mức độ kích hoạt


×