Bài tiểu luận
Nguyên nhân, diễn biến khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế 2008
GVHD: TS Lê Tuấn Lộc
Lớp: K07402B
Nhóm thực hiện:
Đỗ Vũ Bá K074020278
Trần Xuân Bách K074020279
Huỳnh Minh Long K074020322
Võ Thị Bích Ngọc K074020338
Huỳnh Thị Trường K074020379
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12- 2009
1
MỤC LỤC
Phần mở đầu............................................................................................................................2
I/ Cơ sở lý luận...................................................................................................................3
1. Khủng hoảng tài chính.............................................................................................3
2. Suy thoái kinh tế.......................................................................................................4
II/ Khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế 2008..........................................4
1. Diễn biến khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.....................................................4
2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008................................13
A/ Nguyên nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng..............................................................14
2.1 Nợ dưới chuẩn................................................................................................14
2.2 Chứng khoán hóa............................................................................................15
2.3 Các công ty định mức tín nhiệm....................................................................16
2.4 Công cụ đầu tư kết cấu...................................................................................17
2.5 CDS – Hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng.................................................17
2.6 Mua bán khống...............................................................................................18
2.7 Khủng hoảng niềm tin....................................................................................18
B/ Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng:.........................................................................18
3/ Hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.................................................21
3.1 Hệ thống tài chính sụp đổ...............................................................................21
3.2 Thị truờng chứng khoán chao đảo, suy giảm mạnh mẽ.................................22
3.3 Giá bất động sản giảm mạnh..........................................................................24
3.4 Giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều sụt giảm mạnh...............24
3.5 Lãi suất biến động mạnh................................................................................25
3.6 Đồng USD lên giá so với các đồng tiền khác................................................26
3.7 Suy thoái kinh tế diện rộng............................................................................28
4. Hành động giải cứu ngân hàng trung uơng và chính phủ các nước........................33
III/ Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới 2009-2010..........................................................36
Tài liệu tham khảo .................................................................................................................39
2
MỞ ĐẦU
Từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, lịch sử loài nguời dần buớc sang một trang sử mới. Mọi
mặt trong đời sống xã hội đã có một sự thay đổi rõ rệt. Năng suất lao động ngày càng đuợc nâng
cao, kéo theo sự phát triển chung của cả cộng đồng. Từ nền kinh tế nhỏ tự cung tự cấp, nhưng
giờ đây đã hình thành nền kinh tế thị truờng với sự hợp tác rất sâu rộng của tất cả các chủ thể
kinh tế trong và ngoài nuớc. Dần dần hình thành xu huớng toàn cầu hóa và hợp tác hóa. Vì vậy,
các hoạt động kinh tế, tài chính ngân hàng, chứng khoán… giờ đây là sân chơi chung cho toàn
cầu. Nhờ có sự cách mạng trong thông tin liên lạc mà khoảng cách địa lý dần dần đuợc xóa bỏ.
Các trung tâm tài chính lớn rãi đều khắp năm châu, tạo thành một thị truờng mang tính thống
nhất toàn cầu. Trong đó, thị truờng tài chính Mỹ đuợc xem là một thị truờng nhộp nhịp bậc nhất,
thu hút đuợc rất nhiều nhà đầu tư không những của nuớc Mỹ và còn của cả thế giới. Hình ảnh
phố Wall là một biểu tuợng về sức mạnh tài chính của Mỹ, là một tuợng đài cho sự phồn vinh .
Vậy mà cũng có một ngày, cũng chính nơi đây, hàng loạt các ngân hàng lớn, các công ty đầu tư,
bảo hiểm đã tuyên bố phá sản hay trong tình trạng cực kỳ khó khăn, hàng loạt các nhà đầu tư bị
thua lỗ nặng, hàng loạt nguời không còn tài sản gì chỉ tích tắc trong thời gian ngắn. Và hiệu ứng
đômino sau đó đã đánh một đòn nặng nề vào thị truờng tài chính của các quốc gia khác, gây ra
hậu quả rất đáng tiếc. Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây ra những tác hại vô cùng nặng nề cho
kinh tế thế giới, kể từ sau cuộc đại khủng hoảng 1929-1933. Vậy đâu là nguyên nhân của tình
trạng trên, diễn biến và tác động của nó như thế nào? Chúng ta có thể tiên liệu truớc đuợc không
và cái gì đuợc rút ra từ sau cuộc khủng hoảng này. Đó chính là nguyên do để thôi thúc nhóm
chúng tôi thực hiện đề tài này.
3
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong
việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của Khủng hoảng tài
chính là:
- Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A (tức là loại khách hàng
mà ngân hàng xem xét là có khả năng hoàn trả lại số tiều đã muợn một cách tốt nhất) cũng
không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Một số nguyên nhân của việc không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán là do gặp
phải vấn đề thanh khoản, khả năng thanh toán hoặc do cố tình chiếm dụng vốn vì điều này có
thể có lợi ở khía cạnh nào đó. Tình trạng mất khả năng thanh toán bắt nguồn từ các vụ phá sản,
kinh doanh thua lỗ và các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Bản thân Chính phủ cũng gặp khó
khăn trong việc tìm tài trợ khi gặp khó khăn về thanh toán do những kỳ vọng không sáng sủa
mặc dù trong điều kiện bình thường nền kinh tế hoàn toàn có khả năng chi trả. Sự mất khả năng
thanh toán thường có tính dây chuyền. Vì vậy, khủng hoảng tài chính là điều không mong muốn.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, có một sự tương quan giữa nỗ lực nhằm tự do hoá các thị
trường tài chính và số lượng các cuộc khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng tài chính thường đi
kèm với những nỗ lực nhằm tự do hoá thị trường tài chính. Vậy tự do hoá tài chính có nhất thiết
dẫn đến khủng hoảng tài chính và việc xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính có thể là một lý do
phản đối việc bãi bỏ các quy định và tự do hoá tài khoản vốn.
Thành phần chính của các cuộc khủng hoảng tài chính là các thông tin không đối xứng.
Thông tin không đối xứng có vai trò chính yếu trong các giao dịch tài chính. Nó đưa người vay
tới những hành vi cơ hội nguy hiểm và là mầm mống cho những kỳ vọng xấu của người cho vay
về người đi vay. Thông tin không cân xứng khiến cho người đi vay và người gửi tiền- do họ khó
khăn trong việc phân biệt giữa vấn đề thanh khoản và tình trạng mất khả năng thanh toán, qua
đó dẫn đến việc người sở hữu bán đi những tài sản bằng ngoại tệ của nước- gặp khó khăn. Vì
vậy, để hạn chế những thông tin không đối xứng thì hai bên đi vay và cho vay cần có càng nhiều
thông tin về nhau càng tốt thông qua những câu hỏi mà người cho vay hỏi người đi vay để tránh
sự lựa chọn bất lợi cho nhà đầu tư.
2. Suy thoái kinh tế
4
Suy thoái kinh tế được định nghĩa trong kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của tổng sản
phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc
độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Tuy nhiên, định nghĩa này không được chấp
nhận rộng rãi. Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Mĩ đưa ra định nghĩa về suy
thoái kinh tế còn mập mờ hơn “là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều
tháng”. Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn
bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư và lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có
thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát). Một sự suy
thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế. Sự tan vỡ tàn phá nền kinh tế là suy
sụp/đổ vỡ kinh tế.
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận sôi nổi giữa
các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số thống nhất rằng các kỳ suy thoái
kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ
bên ngoài (ngoại sinh). Ví dụ, những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý thuyết gia
theo lý thuyết chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ
thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng
gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái
kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay
và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị
trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng”
hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu
kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi
quản lý tiền tệ yếu kém.
II/ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ SUY THOÁI KINH TẾ 2008
1. Diễn biến khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, theo Alan Greenspan (cựu Thống đốc Quỹ Dự trữ
Liên bang Mĩ FED), là khủng hoảng kinh tế lớn nhất, là cuộc đại suy thoái của thế kỉ XXI kể từ
cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929- 1933, thế kỉ XX. Cuộc khủng hoảng này xuất phát
từ khủng hoảng tài chính Mĩ và lan sang hàng loạt các trung tâm kinh tế lớn của thế giới như
EU, Nhật, Trung Quốc, Nga,… gây nên tổn thất vô cùng nặng nề, khiến cho nền kinh tế thế giới
đi xuống. Các nước đang phát triển và các nước nghèo dù ít hay nhiều, cũng không tránh khỏi
tác động của cuộc khủng hoảng này. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ lại bắt nguồn
từ tình trạng bong bóng bất động sản tại Mĩ (khoảng năm 2005- 2006) với những khoản cho vay
dưới chuẩn có rủi ro cao và những khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Điều này cho thấy,
5
cuộc khủng hoảng tài chính tại Mĩ lần này thực chất là những biểu hiện rõ nét của một quá trình
khủng hoảng rất lâu trước đó. Dưới đây là chuỗi những sự kiện chính, nổi bật gây nên tình trạng
khủng hoảng như hiện nay, qua đó có thể thấy khủng hoảng đã được hình thành như thế nào.
• Năm 2000: bong bóng Dot-com vỡ, Cục dự trữ liên bang Mĩ đã hạ lãi suất cho vay qua
đêm liên ngân hàng để cứu nền kinh tế khỏi suy thoái, nhất là từ sau thảm họa khủng bố
11/09/2001.
• Từ tháng 05/2001 đến 12/2002: lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn
1,75%, tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo đi vay ồ ạt kể cả nhằm mục đích đầu
cơ hình thành nên bong bóng nhà ở.
• Năm 2002- 2004: giá cả nhà đất tại các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ bắt đầu rạn vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất
động sản tạm gián đoạn tại một vài bang ở Mỹ vào cuối hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất
tăng từ 1% lên đến 5.35%.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm một lượng nhà dư thừa đáng
kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với tháng 08/2006.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao
nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay
dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ,
tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất động sản lần này là
“mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”
- Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các nhà cho
vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la vào quý 3 năm 2006, tuyên bố phá
sản.
- Ngày 27/02: The Federal Home Loan Mortgage Corporation (Freddie Mac) tuyên bố
không còn khả năng và ngừng cho vay các khoản vay bằng tài sản thế chấp với độ rủi ro cao.
- Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, nộp đơn phá
sản theo chương 11 Luật phá sản Mĩ.
- Ngày 07/06: Hồi chuông cảnh báo của phố Wall vang lên khi hai quỹ bảo đảm tại ngân
hàng đầu tư Bear Stearns của New York đang trên bờ vực phá sản vì lượng tiền đầu tư vào
chứng khoán có thế chấp là quá lớn.
- Tính tới thời điểm tháng 7/2007: Số lượng tài sản thế chấp bị tịch thu tại Mỹ đã lên tới
180.000 bất động sản, tăng 93% so với thời điểm cách đó một năm.
6
- Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones lần đầu tiên trong lịch sử đóng cửa với mức 14.000
điểm.
- Ngày 31/07: Hai quỹ bảo đảm của Bear Stearns phá sản.
- Ngày 06/08: American Home Mortgage Investment Corporation nộp đơn phá sản.
- Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước
Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân hàng khác.
- Ngày 17/08: Cục dữ trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ bản từ
mức 6.25% xuống 5.75%.
- Ngày 18/09: Cục dự trữ Liên bang tiếp tục hạ mức hệ số chiết khấu 50 điểm cơ bản
xuống còn 5.25%.
- Ngày 15–17/10: Citigroup – Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi
nhuận quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD.
Giám đốc điều hành Citigroup, Charles Prince từ chức vào ngày 4.11; Liên minh các ngân hàng
Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các
chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng
hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính
Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
- Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5%.
- Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi
suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19/ 9/ 2001 (50.35 tỷ đô
la).
- Tháng 12/2007: Tổng thống Bush tuyên bố kế hoạch giúp đỡ cho thêm 1,2 triệu chủ sở
hữu bất động sản trong việc thanh toán các khoản nợ tại ngân hàng.
- Ngày 11/12: Fed hạ lãi suất quỹ liên bang xuống còn 4.25%
• Năm 2008:
- Ngày 11/01: Bank of American đã bỏ ra 4 tỷ USD để mua lại Countrywide Financial
sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản vay khó đòi quá
lớn.
Cục Dự Trữ Liên bang tiếp tục hạ lãi suất 50 điểm xuống 3.5%.
7
- Tháng 02/2008: Fannie Mae, nguồn tiền lớn nhất rót vào các khoản vay bất động sản
Mỹ thông báo chỉ trong quý 4 của năm 2007, hãng đã thua lỗ 3,35 tỉ USD, khoản thua lỗ cao gấp
3 so với dự đoán, cho thị trường này.
- Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu để
tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear
Stearn. Carlyle Capital trở thành nạn nhân của cuộc khủng hoảng tín dụng Mỹ với khoản nợ lên
tới 16,6 tỉ USD. Nước Mỹ cũng phải rót 200 tỉ USD nhằm cứu vãn Fannie Mae và Freddie Mac
thoát khỏi khó khăn.
- Tháng 04/2008: IMF thông báo đã chịu thua lỗ 945 tỉ USD cho cuộc khủng hoảng tài
chính. Bộ trưởng các nước G7 tán thành đề xuất đưa ra các điều chỉnh tài chính mới để chống
lại cuộc khủng hoảng đang ngày càng lan rộng.
- Tháng 06/2008: Một điều đáng nói là trong khi thị trường bất động sản Mỹ ngày càng
khủng hoảng nghiêm trọng hơn thì số lượng người được nhận lại các ngôi nhà đã thế chấp lại
tăng gấp đôi. Bear Stearns đã góp sức vào hiện tượng lạ này khi liên hiệp thành công trong 400
vụ bị buộc tội lừa đảo bằng các văn tự thế chấp.
- Ngày 11/07: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac
Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi
những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
- Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ
lên đến 435 tỷ đôla.
- Ngày 07/09: Chính phủ Mỹ nắm quyền kiểm soát Fannie và Freddie sau khi chi 200 tỉ
USD để cứu 2 ngân hàng thoát khỏi tình trạng phá sản.
- Ngày 11/09: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính
mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
- Ngày 14/09: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29USD/cổ phiếu
sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
- Ngày 15/09: Lehman Brothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ bao
gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2
tòa tháp đôi tại Mỹ tháng 09/ 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại
Mỹ. Merrill Lynch bị Bank of America thâu tóm. American International Group (AIG) – tập
đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới
nợ cầm cố.
8
- Ngày 16/09: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỷ USD vào các
thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ
thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ
USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản
tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
- Ngày 17/09: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh. Tập đoàn
Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS. Ủy ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán
khống. Và Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này tránh phá sản.
- Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của bộ trưởng tài chính Paulson trị giá 700 tỷ
đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín dụng. Tuy nhiên,
quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
- Ngày 20-21/09: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng
Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh
dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
- Ngày 22/09: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 USD để thâu tóm hoạt động
của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông.
Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
- Ngày 23/09: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs. Cục điều
tra Liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận
trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
- Ngày 25/09: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất
Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm
tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của
ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD (ngày 26/09).
Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử
Mỹ. Trong khi đó tại Washinton D.C, các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về
những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
- Ngày 29/09: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do bộ Tài
chính Mỹ đề xuất. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt
giảm gần 780 điểm – mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
- Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay
dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup.
9
- Ngày 01/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74 –
25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho
doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm
tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
- Ngày 03/10: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ
hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262 – 171. Không đầy 2 giờ sau đó, tổng thống
Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.
- Ngày 08/10: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục Dự trữ Liên bang
Mỹ, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng
loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ
nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.
- Ngày 14/10: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỷ USD trong gói giải cứu 700 tỷ USD để
rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng này. Đây là
bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban đầu, Chính phủ vẫn hướng
đến giải pháp mua lại nợ xấu ngân hàng, ko mua cổ phần.
- Tháng 11/2008: AMEX chuyển đổi thành ngân hàng cổ phần. Fed cũng thông báo
chương trình thay đổi theo hướng tổ chức lại và hợp lí hóa các khoản cho vay thế chấp. Fennie
Mae và Freddie Mac tạm thời ngưng tịch thu tài sản thế chấp.
- Tháng 12/2008: Bộ Tài chính Mĩ dành 13.4 tỉ USD và 4 tỉ USD trong gói giải cứu cho
General Motors và Chrysler; GMAC và CIT cũng chuyển đổi thành ngân hàng cổ phần.
• Năm 2009: các công ty, ngân hàng cố gắng vực dậy sau khủng hoảng. Và Chính phủ Mĩ
cũng đã nâng gói giải cứu kinh tế lên 787 tỉ USD. Nhưng trong năm này cũng có các vụ
phá sản đáng chú ý của các tập đoàn lớn cuốn theo hàng tỉ USD mà Chính phủ đã rót vào
đó. Điều này cho thấy nền kinh tế Mĩ vẫn đang phải vật lộn khá vất vả sau cuộc khủng
hoảng này.
- Ngày 30/04: chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính, hãng chế tạo ô tô lớn thứ ba của
Mỹ Chrysler tuyên bố nộp đơn bảo hộ phá sản. Khi Tổng thống Mỹ Barack Obama buộc
Chrysler nộp đơn xin phá sản, đối thủ của Chrysler là GM vẫn đang vật lộn với những đòi hỏi
của chính phủ Mỹ để được nhận tiền cứu trợ. Sau khi tái cơ cấu, nhà sản xuất xe hơi đang thiết
lập mối hợp tác với hãng xe Fiat đến từ Italy. Hiệp hội Công đoàn ngành ô tô Mỹ (UAW) sẽ
nắm quyền kiểm soát lương hưu của hãng, trong khi chính quyền Mỹ có nhiệm vụ bơm 12 tỷ
USD cho Chrysler.
10
- Ngày 01/05: Quỹ đầu tư bất động sản và cho vay thế chấp nhà Thornburg Mortgage nộp
đơn bảo hộ phá sản. Thornburg chịu tác động nặng nề từ cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007
tại nước này, khiến giá cổ phiếu của quỹ lao dốc không phanh. Để tránh đổ vỡ, công ty đã
ngừng nhận đơn xin vay tiền và huy động thêm vốn qua con đường phát hành thêm cổ phiếu.
Năm 2008, các chủ nợ nhất trí để Thornburg huy động thêm vốn nhưng tới ngày 01/05/2009,
quỹ đã tuyên bố sẽ đóng cửa và nộp đơn xin phá sản theo Chương 11 Luật Phá sản Mỹ, đồng
thời bán lại toàn bộ số tài sản còn lại.
- Ngày 01/06: General Motors chính thức nộp đơn xin bảo hộ phá sản. Tính tới thời điểm
nộp đơn xin bảo hộ phá sản, tổng tài sản của GM là 91 tỷ USD, trong khi số nợ lên tới 172,81
tỷ. Chính phủ Mỹ sẽ tiếp tục bơm tiền cho GM và chuyển 50 tỷ USD tiền nợ thành 60% cổ phần
tại hãng xe mới hình thành sau phá sản. Sau khi tái cấu trúc, GM sẽ có quy mô nhỏ hơn nhiều
nhưng những nhãn hiệu nổi tiếng như Chevy, Cadillac, Buick và GMC vẫn được giữ lại. GM
đang lên kế hoạch bán chi nhánh Opel tại Đức cho một nhà sản xuất phụ tùng ôtô từ Canada.
Những chi nhánh hoạt động kém hiệu quả khác sẽ bị bán đi hoặc xóa sổ. Theo như thỏa thuận,
chính phủ Mỹ nắm gần 72,5% và Hiệp hội Công đoàn ngành ôtô Mỹ nắm 17,5% cổ phần của
công ty mới.
- Ngày 01/11: Tập đoàn tài chính CIT- một trong những ngân hàng hàng đầu nước Mỹ
chuyên cho vay đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã công bố phá sản. CIT đã không thể
gượng dậy với những khoản nợ khổng lồ từ sau cuộc khủng hoảng tài chính. Vụ phá sản này còn
làm thiệt hại lớn cho chính phủ Mỹ khi đã bỏ 2,33 tỷ USD vào CIT.
Trên đây là những diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ. Không chỉ dừng lại ở
đây, cuộc khủng hoảng này còn lan sang các khu vực khác trên thế giới với hậu quả tương tự.
Tại châu Âu:
- Tháng 07-08/2007: Các ngân hàng tại Đức với những khoản đầu tư không sinh lời tại
thị trường bất động sản Mỹ cũng bị cuốn vào cuộc khủng hoảng này, bao gồm: Ngân hàng công
nghiệp Đức IKB, Ngân hàng bang Saxony (Sachsen LB) và ngân hàng bang Bavaria (Bayern
LB). Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi
những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, ngân hàng
SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
- Ngày 09/08/2007: BNP Paribas, Ngân hàng lớn nhất của Pháp, ngưng việc mua lại 3
quỹ đầu tư.
- Ngày 14/09/2007: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về khả
năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn. Lần đầu tiên trong hơn 1 thế
11
kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh – Ngân hàng
cho vay thế chấp Northern Rock – ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh. Chính phủ cũng như Ngân hàng
Anh buộc phải đứng ra bảo lãnh cho các khoản tiền gửi của khách hàng bằng cách quốc hữu hóa
Northern Rock.
- Tháng 01/2008: Ngân hàng khổng lồ của Thụy Sỹ UBS thông báo cắt giảm 18 tỉ USD
vào thị trường bất động sản Mỹ.
- Ngày 30/01/2008: Ngân hàng UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số
tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát liên quan đến cuộc khủng hoảng
cho vay cầm cố.
- Ngày 17/02/2008: Anh quốc hữu hóa ngân hàng Northern Rock.
- Ngày 28/02/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân
của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
- Ngày 16/03/2008: Ngân hàng Đức thông báo thua lỗ 141 triệu euro trong quý 1 năm
2008, trong 5 năm liên tiếp đây là lần đầu tiên ngân hàng này làm ăn thua lỗ.
- Ngày 29/04/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5 năm công bố một khoản thua lỗ
trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng
khoán được đảm bảo bởi các khoản thế chấp bất động sản.
- Ngày 17/07/2008: Martina-Fadesa, hãng đầu tư tài sản lớn nhất của Tây Ban Nha tuyên
bố phá sản.
- Ngày 31/07/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ
USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thanh 1 trong 10
nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
- Ngày 29/09/2008: Chính phủ Anh quyết định can thiệp để giữ lại nhà cho vay thế chấp
quan trọng Bradford & Bingley. Chính phủ Hà Lan, Bỉ và Luxembourg quyết định tiếp quản
phần lớn ngân hàng Belgian- Dutsch và công ty bảo hiểm Fortis. Bộ Tài chính Đức thông báo
Chính phủ và các ngân hàng hàng đầu đã bơm hàng tỉ euro vào nhà cho vay thế chấp Hypo Real
Estate để cứu vãn khó khăn. Chính phủ Iceland cùng ngân hàng Glinir chính thức tuyên bố
chính phủ sẽ nắm quyền kiểm soát 75 % cổ phiếu của ngân hàng này.
- Ngày 04/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng đỉnh
khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh châu Âu là Anh, Pháp, Đức và Ý. Phiên
họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng nhưng không thống nhất được một gói giải
pháp tổng thể theo mô hình của Mỹ.
12
- Ngày 05/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định của
Ireland về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại Ireland, ngày 5.10 Bộ trưởng Tài chính
Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền tại ngân hàng tại Đức sẽ được bảo hiểm không có
giới hạn.
- Ngày 06/10/2008: Trong đêm chủ nhật ngày 5.10, ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp
gửi email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 18,9 tỷ USD) để mua lại ngân
hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền mặt. BNP sẽ sở hữu
75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo hiểm của Fortis tại Bỉ.
Tại các châu lục khác:
- Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là tập
đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này
đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở
Sydney.
- Ngày 10/10/2008: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là Yamoto
Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do các khoản nợ đã vượt tài sản
11,5 tỷ yen (tương đương 116 triệu USD). Đây được coi là mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng đã
lan sang châu Á.
2. Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008:
Trên đây là toàn bộ những diễn biến chính của cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ- nay đã
lan ra thành cuộc khủng hoảng toàn cầu. Thất thần, lo âu, sợ hãi, không biết những gì sẽ xảy ra
với mình và với những người xung quanh mình…đó là tâm trạng chung của tất cả mọi người khi
chứng kiến cơn bão tài chính này, nhưng đau đớn hơn hết là những nạn nhân trực tiếp của nó-
giới tài chính. Ai cũng phải hỏi rằng, tại sao mọi thứ lại diễn ra quá tồi tệ như vậy, có phải vì
lòng tham của con người, nhưng lòng tham đó có là gì đâu khi không có những điều kiện thuận
lợi- một “mảnh đất màu mỡ” cho nó phát triển?
13
Quay trở lại những năm trước khủng hoảng, bong bóng nhà ở đã dần được hình thành khi
mà Fed cho cắt giảm lãi suất để kích thích nền kinh tế sau khủng hoảng Dot.com và sự kiện
khủng bố 11/09/2001. Mức lãi suất quỹ liên bang giảm từ 6,5% xuống còn 1% (07/2003) và lãi
suất này được duy trì trong một thời gian tương đối dài. Lãi suất thấp khuyến khích một dòng
vốn lớn đổ vào thị trường bất động sản. Vì lãi suất thấp nên dễ vay mượn, dẫn đến tình trạng
người dân đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà lên cao. Thị trường bất động sản bùng nổ, dẫn đến
hiện tượng đầu cơ với suy nghĩ giá nhà sẽ tiếp tục tăng cao và tăng hơn nữa trong tương lai, và
giá trị gia tăng của nhà cửa có thể cao hơn cả lãi suất vay tiền. Thị trường cho vay thế chấp mua
nhà nhanh chóng trở thành “miền đất hứa” với những nguồn lợi nhuận kếch sù cho các ngân
hàng và nhà đầu tư. Nắm bắt được xu thế đó, những công ty tài chính như Fannie Mae và
Freddie Mac- dưới sự bảo trợ của Chính phủ- đã đứng ra bảo lãnh các khoản cho vay cầm cố
dành cho những người có thu nhập trung bình và thấp, những người nhập cư, da màu,…- những
người mà trước đó không có khả năng mua nhà (cho vay dưới chuẩn). Đồng thời những công ty
này cũng sẵn sàng bỏ tiền để mua lại các món cho vay cầm cố ở các ngân hàng thương mại.
Bằng cách này, các ngân hàng như được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục mở rộng cho vay cầm
cố.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, hệ thống tài chính thế giới chủ yếu là Mĩ) đã phát
minh ra một loại dịch vụ tài chính mới, gọi là chứng khoán hóa các món cho vay có nguồn gốc
cầm cố. Các công ty tài chính và các ngân hàng gom các khoản cho vay cầm cố lại thành những
món lớn. Sau đó phát hành chứng khoán dựa trên cơ sở giá trị của món vay đó (CDO). Các công
ty tài chính và các ngân hàng thu được tiền mặt và tiếp tục mở rộng các khoản cho vay cầm cố
dưới sự bảo lãnh của Fannie Mae và Freddie Mac. Như vậy, một dòng tiền lớn được huy động
không phải chỉ từ nước Mĩ mà trên khắp thế giới đổ vào thị trường bất động sản Mĩ vì các
chứng khoán hóa các khoản cho vay cầm cố này được bán ra trên khắp thế giới. Tình trạng này
đẩy đầu cơ lên đỉnh điểm trên thị trường nhà đất Mĩ.
Thêm vào đó, do lo lắng về diễn biến lạm phát, Fed bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến
việc thị trường bất động sản bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006. Trong khi vào giữa năm 2003
lãi suất căn bản của Fed chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đó tăng lên đến 5,25%, bắt buộc
các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Tình
hình lãi suất cao đó khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vỡ cung
vượt cầu. Giá trị thị trường của căn nhà mà họ mua trước đây dường như đã thấp hơn so với giá
trị khoản vay. Rồi những người đã vay tiền để mua nhà thì cũng không thể có khả năng chi trả
nữa vì khoản vay đó là quá lớn so với giá trị căn nhà, có nghĩa là họ có bán nhà thì cũng không
14
thể trả hết nợ. Điều đó dẫn đến tình trạng bán tháo tất cả, và cả tình trạng bị xiết nợ và phát mại
tài sản vì không trả được nợ.
Tình hình trên ngay lập tức làm cho tất cả những chứng khoán có nguồn gốc cầm cố
không bán được, dẫn đến sự xuống dốc của thị trường vốn. Do không bán được các chứng
khoán loại này và giá trị của chứng khoán đó bị sụt giảm mạnh nên các ngân hàng thương mại
trở nên khan hiếm tiền mặt để tiếp tục cho vay vào nền kinh tế, dẫn đến tình trạng đóng băng
trên thị trường tín dụng. Các ngân hàng ngại không cho nhau vay và cũng không muốn cho các
công ty và người tiêu dùng vay, trong khi chi tiêu của người Mĩ là một yếu tố quan trọng, chiếm
tỉ trọng 2/3 trong tăng trưởng GDP của Mĩ. Tình trạng kiệt quệ tiếp tục lan sang các công ty bảo
hiểm đã mạo hiểm tham gia vào việc bảo hiểm những sản phẩm tổng hợp và kết cấu. Vấn đề
nghiêm trọng đã hiện ra trên thị trường hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS). Các công ty bảo hiểm
như AIG cũng đứng trên bờ vực phá sản do đã nhúng tay vào quá trình bảo hiểm các chứng
khoán có liên quan đến các khoản vay dưới chuẩn. Mặc cho các ngân hàng trung ương và chính
phủ đã có những biện pháp cứu trợ tạm thời nhưng vẫn không thể ngăn chặn hết được những gì
sắp xảy ra, và tất cả đều vỡ tan…
Đó là cách mà cuộc khủng hoảng đã hình thành. Góp vào đó là những nhân tố mà chúng
đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng này.
A/ Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng
2.1. Nợ dưới chuẩn:
Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay cho các đối tượng có mức tín nhiệm thấp.
Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định,
vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng
này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc
tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính
vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp
dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà, thế
chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng... Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập
cư vào Mỹ. Nó cũng được gọi là tính dụng thứ cấp, hay tín dụng “hạng B”, để phân biệt với tín
dụng “hạng A” (hay tín dụng ưu tiên, tín dụng hạng nhất) dành cho những người vay có độ tín
nhiệm cao.
Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn
tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính
sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ
như Enron, Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin Dotcom từ năm 2001 lại
15
suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn
vốn bên ngoài. Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường
không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa
vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá trong một thời
gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc
khủng hoảng tín dụng 2007.
2.2. Chứng khoán hóa
Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác nhau
của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm đảm bảo để phát hành các
trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người mua các chứng khoán
này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để các tổ chức này cho người
đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa chính là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang
thị trường thứ cấp nơi mà chúng có thể trao đi đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản
thành những chứng khoán thanh khoản cao.
Có 4 loại chủ thể kinh tế chủ yếu liên quan đến quá trình chứng khoán hóa, đó là: 1)
người thế chấp và đi vay, 2) tổ chức tập hợp và đóng gói tài sản thế chấp rồi phát hành chứng
khoán, 3) nhà đầu tư mua bán chứng khoán, và 4) tổ chức tín dụng cho vay. Với 4 loại chủ thể
kinh tế thay vì 2 loại là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay, rủi ro được chuyển
từ tổ chức tài chính sang nhà đầu tư trái phiếu đảm bảo bằng tài sản. Việc gộp nhiều loại tài sản
thế chấp khác nhau vào một tập hợp cũng là một hình thức phân tán rủi ro. Vì thế, đã có cách
gọi các trung gian tài chính tham gia vào chứng khoán hóa là những người tạo ra và phân tán rủi
ro. Hai loại chủ thể kinh tế trung gian giữa người đi vay và tổ chức tín dụng cho vay đóng vai
trò trung gian - môi giới, nên giúp cho người vay và tổ chức tín dụng dễ “gặp nhau” hơn. Ngoài
ra, chứng khoán hóa còn giúp giảm chi phí huy động tài chính. Dù người đi vay có mức xếp
hạng tín nhiệm không cao nhưng với tài sản đem thế chấp tốt thì chứng khoán đảm bảo bằng tài
sản này vẫn có thể được xếp hạng tín nhiệm cao và dễ bán. Chính vì thế, chứng khoán hóa tạo
thuận lợi cho việc vay và cho vay có thế chấp.
Chứng khoán hóa xuất hiện đầu tiên ở MĨ vào năm 1970. Fannie Mae và Freddie Mac -
hai công ty được chính phủ Mỹ bảo trợ - là những công ty đầu tiên và cho đến nay vẫn luôn là
những công ty tích cực nhất trong hoạt động chứng khoán hóa. Hai công ty này đã phát minh ra
chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (hay MBS). Sau đó, các loại chứng khoán đảm bảo
bằng tài sản khác ra đời, như giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (hay CDO) và các thứ tương tự
CDO. Nếu như MBS đóng gói các tài sản thế chấp thực thụ khác nhau lại, thì CDO, xuất hiện từ
năm 1987 và chỉ thực sự phổ biến từ cuối cuối thập niên 1990, thậm chí lại còn đóng gói MBS
16